M
ới hai mươi lăm tuổi, George Bush đã từ bỏ cuộc sống an toàn ở trường đại học để đi chiến đấu bảo vệ tổ quốc với vai trò là một phi công hải quân trong suốt Thế chiến thứ hai. Ông đã từ bỏ công việc kiếm ra tiền ở phố Wall để học về kinh doanh dầu khí tại Tây Texas. Tinh thần phiêu lưu cùng lòng nhiệt huyết trước những thách thức mới đã khiến ông không thể đứng yên một chỗ. Trong vòng hai thập niên tiếp theo, cha đã thúc giục bản thân để dịch chuyển từ ranh giới này tới ranh giới khác. Trong sự nghiệp kinh doanh, ông đã có những bước tiến quan trọng như: từ một nhân viên bán hàng trở thành một doanh nhân, di chuyển từ thành phố nhỏ lên thành phố lớn, và từ kinh doanh dầu trên cạn đến khoan dầu ngoài khơi. Sự thành công trong lĩnh vực tài chính đã tạo động lực để cha tôi tiếp tục chuyển đổi bản thân một lần nữa, ông chuyển từ công ty tư nhân sang lĩnh vực dịch vụ công, từ làm chính trị địa phương đến sân khấu chính trị quốc gia. Không phải sự mạo hiểm nào cha tôi từng trải qua đều có cái kết tốt đẹp. Điều này đã dạy ông một bài học khác: “Nếu bạn không bỏ cuộc, cơ hội sẽ đến với bạn, không chỉ từ chiến thắng, mà còn đến từ sự thất bại”.
Khi còn làm cho Dresser Industries, George Bush từng chứng kiến việc kinh doanh dầu mỏ, và ông đã học hỏi được rất nhiều điều, những điều đó khiến ông rất muốn bước chân vào kinh doanh dầu mỏ bằng chính khả năng của mình. Và ngay sau đó ông đã tự đặt ra mục tiêu mới: trở thành một người kinh doanh dầu độc lập.
Trước khi cha tôi có thể tự bước đi trên con đường riêng, ông đã thông báo cho Neil Mallon rằng ông có kế hoạch rời khỏi Dresser. Như lời cha tôi kể lại, ông lo lắng trước cuộc gặp với Neil. Ông không muốn rời bỏ người đã giúp đỡ ông từ khi chập chững bước chân vào lĩnh vực kinh doanh. Khi cha tôi thông báo ông sẽ rời đi, Neil im lặng. Sau đó ông cầm tập giấy nhắc việc màu vàng lên và dành ba mươi phút để nói cho cha tôi biết rằng ông nên làm gì để bắt đầu khởi nghiệp kinh doanh. Cách giải quyết của Neil trong tình huống này là một ví dụ tuyệt vời cho cha tôi và tôi noi theo. Thay vì trách móc hay đứng trên lập trường của một người lãnh đạo thông minh, ông đã chọn cách động viên và cố vấn. Cha tôi vẫn biết ơn ông cho đến cuối cuộc đời. Cứ thử hỏi chú em trai tôi Neil Mallon Bush sẽ rõ điều này.
Cha tôi tiếp cận với một người bạn và cũng là người hàng xóm trước đây ở Dãy nhà Trứng Phục sinh, có tên John Overbey, với ý định bắt đầu một mối quan hệ với đối tác mới. Overbey tốt nghiệp trường Đại học Texas, rất am tường về các loại giấy phép và đặc quyền khai thác dầu mỏ, đặc biệt, Overbey rất nhanh nhạy khi tìm kiếm thông tin từ những chủ trang trại cũ, những người giám sát các công ty dầu mỏ và từ những người kinh doanh độc lập. Cha tôi có các kỹ năng khác.
Ông có những mối quan hệ tốt với các nhà đầu tư triển vọng, đặc biệt là tại bờ Đông.
Vào mùa xuân năm 1951, công ty dầu khí mang tên Bush - Overbey đã ra đời và đi vào hoạt động. Cha tôi thường xuyên di chuyển đến vùng bờ Đông để kiếm tiền. Những nhà đầu tư chính đầu tiên của công ty là các thành viên trong gia đình hoặc bạn bè, gồm cả ông nội và chú của cha tôi là George Herbert Walker Jr., người đã rất hào hứng đặt cược vào đứa cháu trai yêu quý. Ông còn huy động tiền từ những nhà đầu tư như Eugene Meyer, tiếp đến là Chủ tịch của tờ báo Washington Post. Nhưng không may, tờ báo này đã không thường xuyên ủng hộ những người trong gia đình George Bush trong nhiều năm sau.
Cha tôi hăng hái huy động tiền vốn nhưng vô cùng thận trọng khi tiêu tiền. Bush - Overbey chỉ đầu tư những cổ phần nhỏ vào nhiều dự án, điều này có thể giảm thiểu rủi ro nhưng mang lại ít lợi nhuận. Hầu hết các buổi sáng, cha tôi đều đến văn phòng sớm, khởi động máy đánh chữ của mình, và viết thư cho những người mà ông từng gặp xung quanh thị trấn hoặc người ông gặp trong các chuyến đi, những người cho thuê tiềm năng, cũng như các nhà đầu tư. Trong nhiều năm sau, ông có thể đã áp dụng kỹ năng viết thư cần mẫn vào chính trị và ngoại giao. Tới nay, có hàng nghìn người trên thế giới có thể tìm thấy trong ngăn kéo bàn những lá thư cảm ơn do George Bush gửi tới.
Không quá xa văn phòng tại Bush - Overbey ở trung tâm thành phố là hãng Luật Liedtke và Liedtke. Bill và Hugh Liedtke là hai anh em đến từ Tulsa, bang Oklahoma, nơi cha của họ làm luật sư của tập đoàn Dầu mỏ vùng Vịnh. Người nhà Liedtke đã có kế hoạch xây dựng một công ty dầu mỏ độc lập, và họ cần đối tác có hoài bão lớn để giúp đỡ thực hiện kế hoạch này. George Bush là một ứng viên hoàn hảo, và cha tôi đã rất háo hức khi tham gia. John Overbey không thích cuộc sống đoàn thể, vì thế sau hai năm hợp tác với cha tôi, ông đã tự bước đi con đường của riêng mình và trở thành một doanh nhân dầu mỏ độc lập thành công.
Cha tôi đã đồng ý kêu gọi một nửa số tiền vốn cho công ty mới. Nhà Liedtke sẽ đầu tư nửa còn lại. Một lần nữa, cha tôi lại nhờ cậy chú của ông, Herbie, và bạn bè trên phố Wall. Họ từng nhận cổ tức đều đặn từ công ty cũ Bush - Overbey, và cha tôi đã thuyết phục họ rằng ông thậm chí có thể chi trả nhiều hơn thế nếu họ đầu tư vào công ty mới. Ông đã kêu gọi được nửa triệu đô la. Và nhà Liedtke cũng làm được như vậy.
Trước khi bắt đầu giao dịch, họ cần chọn tên mới cho công ty. Các đối tác của họ quyết định rằng tên của công ty nên bắt đầu bằng chữ A hoặc Z, để cái tên không bị chìm nghỉm vào giữa cuốn sổ danh bạ điện thoại. Tình cờ, khi đó có một phim tên là Viva Zapata, với sự tham gia diễn xuất của ngôi sao điện ảnh Marlon Brando, được trình chiếu tại các rạp trong nội thành Midland. Bộ phim kể về cuộc cách mạng táo bạo của một thủ lĩnh người Mexico để giành độc lập và đề cao tinh thần chiến đấu bất chấp rủi ro. Cộng thêm với việc tên của thủ lĩnh này bắt đầu bằng chữ cái thích hợp. Năm 1953, công ty dầu khí Zapata ra đời.
Không mất quá nhiều thời gian để công ty có thể vận hành đúng theo tên gọi táo bạo này. Hugh Liedtke đã đề xuất rằng Zapata sẽ chi 850.000 đô la để đầu tư vào khu vực mỏ Jameson tại hạt Coke. Một vài cuộc thăm dò gần đây của các công ty khai thác mỏ khác đã chứng minh rằng vùng đất này có chứa dầu, mặc dù không ai biết trữ lượng thật sự của nó. Đánh cược cả công ty vào một lần đầu tư không phải là chiến lược kinh doanh của Bush - Overbey. Tuy nhiên viễn cảnh thành công của một cuộc khám phá lớn đã khiến cha tôi ngày càng say mê lĩnh vực kinh doanh dầu khí này hơn.
Cuối cùng canh bạc này cũng đã được đền đáp. Cuối năm 1954, Zapata đã khoan được 71 hố, và cả 71 hố đều có dầu. Cuối cùng, họ đã đạt chỉ tiêu 127 hố và tất cả đều thu được dầu. Cha tôi cùng nhà Liedtke đã trả cả vốn lẫn lãi cho các nhà đầu tư và bước tiếp trên con đường kinh doanh hái ra tiền. George Bush quá khiêm tốn - và quá thông minh - nên ông không vung tiền qua cửa sổ. Ông còn có cả một gia đình lớn phải chăm lo, và ông biết kinh doanh dầu là nghề khó dự đoán tương lai. Gia đình tôi đã chuyển đến ngôi nhà mới rộng gần 300 mét vuông tại đường Sentinel vùng ngoại ô Midland. Ngôi nhà có hồ bơi và ngay sát công viên Cowden, nơi tôi đã có những cuộc thi đấu thủa thơ ấu. Đối với một đứa trẻ thì đây là điều tuyệt vời nhất mà chúng tôi có thể đạt được. Không lâu sau, George Bush có một ý tưởng kinh doanh khác, và chúng tôi lại phải chuyển đi một lần nữa.
* * *
Biển luôn luôn có sức mê hoặc đối với cha tôi. Địa điểm yêu thích nhất trên thế giới của ông là Walker’s Point tại Maine. Khi còn là một cậu bé, cha tôi dành thời gian của kỳ nghỉ hè để đi bơi, chèo thuyền, và câu cá tại Đại Tây Dương. Ông của ông, Bert Walker, đã giới thiệu cho ông biết về tàu thủy cao tốc, thứ mà sau này đã trở thành đam mê cả cuộc đời ông. Khi tám mươi tuổi, cha rất thích chiếc thuyền tốc độ có tên là Fidelity (Trung thành), có thể lái nó xuống nước và làm cho động cơ quay nhanh nhất có thể. Vào những năm 1950, tương lai của việc khai thác dầu khí ngoài khơi đang rất tươi sáng. Là một người kinh doanh dầu trẻ tuổi, George Bush đã bị hấp hẫn bởi kế hoạch khoan dầu dưới lòng đại dương.
Chuyến thăm dò dầu khí đầu tiên diễn ra tại một vùng nước nông ngoài khơi vịnh Mexico bắt đầu vào cuối thập niên 1930. Các nhà địa chất tin rằng những vùng nước càng sâu thì trữ lượng dầu càng nhiều. Việc tiếp cận các mỏ trữ lượng lớn đòi hỏi phải có một giàn khoan đủ lớn để tìm được và chạm đến đáy biển, đủ vững chắc để chống cự lại với sóng và gió, và có thể di chuyển linh hoạt để khai thác tại nhiều địa điểm khác nhau. Thiết bị này cần một khoản kinh phí đáng kể. Năm 1954, công ty dầu khí Zapata đã quyết định thành lập một công ty đầu tư mới, chi nhánh Zapata ngoài khơi, có nhiệm vụ là xây dựng các giàn khoan và di chuyển chúng ra khơi để khai thác dầu. Công ty con mới thành lập do George Bush đứng đầu.
Bước chuyển biến lớn đầu tiên của cha tôi là việc đánh cược vào một kỹ sư xuất sắc nhưng lập dị, R.G. LeTourneau. LeTourneau - trình độ học vấn chỉ đến hết lớp 7 và là người luôn vẽ bản phác thảo cơ khí trên giấy nháp thay vì ngay lập tức đi vào thiết kế chi tiết - đưa ra ý tưởng cho một giàn khoan dầu ngoài khơi. Không giống các mô hình khác được sử dụng trong thời gian đó, giàn khoan này gồm ba chân và có nhiều động cơ, với mục đích tăng độ vững chãi và tốc độ di chuyển. Cha tôi và anh em nhà Liedtke đã bị hấp dẫn bởi ý tưởng này, tuy nhiên chi phí để thực hiện lại quá cao: ba triệu đô la.
LeTourneau đủ tự tin với thiết kế của mình nên ông đề nghị xây dựng giàn khoan với điều kiện Zapata ứng trước cho ông bốn trăm nghìn đô và cho ông cổ phần trong công ty nếu giàn khoan hoạt động thành công. Sự mạo hiểm này đầy rủi ro, nhưng Zapata vẫn quyết định đặt cược vào kỹ sư kỳ dị này.
Năm 1956, giàn khoan mang tính cách mạng của LeTourneau, biệt danh là “Bò Cạp” hay “con quái vật ba chân”, đã chính thức hạ thủy trong vùng vịnh. Mẹ và tôi đã đi trên một chiếc máy bay hạng nhẹ cùng với ba đồng nghiệp trong công ty của cha để đến chứng kiến lễ ra mắt. Tôi đã thực sự bị bất ngờ bởi kích thước của nó. Giàn khoan cao khoảng 56 mét và rộng 45 mét, mỗi chân dài 42 mét, và thiết bị này nặng khoảng bốn nghìn tấn. Nhiều năm sau tại Midland, tôi nhớ lại quá trình thâm nhập vào lĩnh vực kinh doanh dầu khí ngoài khơi của cha khi tôi tình cờ gặp một đồng nghiệp của cha, người đã đi cùng tôi trên chiếc máy bay nhỏ ngày hôm đó. Ông nói rằng tôi vẫn nợ ông một chiếc mũ mới. “Tại sao lại thế?”, tôi hỏi. “Bởi vì cậu đã nôn vào chiếc mũ của tôi trên chuyến bay đó”, ông trả lời.
Một thời gian sau, George Bush và Liedtke đã quyết định tách Zapata thành hai công ty riêng biệt. Cha tôi nhận tài sản ở khu giàn khoan ngoài khơi; Bill và Hugh Liedtke nhận phần công ty trên bờ. Nhà Liedtke sau đó trở thành một hiện tượng thành công vượt trội, sáp nhập với công ty dầu khí phía nam Penn và tạo dựng nên công ty dầu khí lớn mạnh trên toàn thế giới, Pennzoil. Cha tôi kiếm được ít tiền hơn khi kinh doanh dầu ngoài khơi, nhưng ông cũng rất vui khi thấy bạn mình thắng lớn. Ông yêu công việc mà ông đã chọn. Và ông không bao giờ đánh giá năng lực của mình thông qua kích thước của chiếc ví.
Năm 1959, một khoảng thời gian ngắn sau khi Zapata phân tách, cha tôi chuyển gia đình đi xa 500 dặm về phía đông của bang để đến Houston, nơi đặt trụ sở của hầu hết các công ty khoan dầu ngoài khơi. Tôi chắc chắn rằng cha mẹ tôi đã cảm thấy rất khó khăn khi quyết định rời Midland, nơi họ đã có rất nhiều bạn bè. Tuy nhiên họ rất tự tin về khả năng thích nghi ở môi trường mới. Và cuối cùng chúng tôi đã làm được, nhờ một phần lớn vào công lao của mẹ. Bất chấp một sự thật rằng mẹ đã phải nuôi đến bốn người con (tôi; Jeb sinh năm 1953; Neil, sinh năm 1955; Marvin, sinh năm 1956) và tiếp tục mang thai lần thứ năm (Dorothy, sinh vào cuối năm 1959), bà vẫn sắp xếp hoàn chỉnh tất cả công việc hậu cần và giám sát việc xây dựng ngôi nhà mới của chúng tôi tại đường Briar. Mẹ tôi đã rất nhanh chóng biến ngôi nhà thành một tổ ấm.
Houston thực sự là một thành phố sầm uất, nơi đã mở ra một chân trời mới cho sự nghiệp của cha và của tôi. Tôi nhớ lần đầu tiên chúng tôi chứng kiến một cơn mưa dông trứ danh của vùng đất Houston. Tôi đã cảm tưởng như chúng tôi đang sống trong một rừng rậm nhiệt đới khác hẳn với khi sống tại Midland. Tôi đã bắt đầu đi học ở trường mới, tên là Kinkaid, nơi đã mang đến cho tôi nhiều lựa chọn hơn khi tôi học ở miền Tây Texas. Và không giống như Midland, Houston là nơi có một nền thể thao chuyên nghiệp. Tôi nhớ về trận đấu của đội Houston Oilers với đội Dallas Texans trong giải đấu tranh chức vô địch bóng bầu dục lần thứ nhất. Năm 1962, thành phố đã thu hút được một đội bóng chày trứ danh, có tên Colt. 45s. Họ đã sớm đổi tên thành Astros và chơi tại sân Astrodome, nơi được ví như kỳ quan thứ tám của thế giới. Trong suy nghĩ của một đứa trẻ đam mê thể thao như tôi, thì Houston thật sự là một thiên đường.
Việc kinh doanh dầu ngoài khơi ẩn chứa nhiều rủi ro tài chính. Nếu không có hợp đồng khoan nào, thì giàn khoan và các công nhân của Zapata sẽ không có việc để làm. Cha tôi đã đi khắp thế giới để mở rộng việc kinh doanh. Kinh nghiệm của ông khi làm việc với các doanh nhân và các quan chức chính phủ quốc tế đã đặt một nền móng quan trọng cho những vị trí của ông sau này trong ngành ngoại giao. Việc vận hành công ty cũng giúp ông hiểu thêm về các nguyên tắc quản lý quan trọng. Ông đã học được tầm quan trọng của việc tuyển dụng những người có kiến thức uyên thâm và lắng nghe lời khuyên của họ, để giao phó các nhiệm vụ và giữ lại những người có trách nhiệm, cũng như để họ có thể đưa ra các quyết định cứng rắn và biết chịu trách nhiệm về những việc họ làm. Khi mọi việc suôn sẻ, ông ghi nhận sự đóng góp của mọi người. Khi gặp việc không tốt, ông tự nhận trách nhiệm về mình. Kinh nghiệm này đã giúp ông phát triển phong cách lãnh đạo được áp dụng trong các thập kỷ sau này.
Mặc dù lĩnh vực kinh doanh dầu khí chứa đầy những khó khăn, nhưng cha tôi rất hiếm khi có biểu hiện căng thẳng. Khi có bất kỳ vấn đề nào xảy ra, ông đều giữ trong lòng. Một chế độ tập luyện phù hợp giúp ông mạnh mẽ hơn. Nhưng có những lần tốc độ làm việc không ngừng nghỉ đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ông. Trong chuyến kinh doanh tại Anh năm 1960, cha tôi đã ngã khuỵu xuống sàn tại phòng riêng trong khách sạn. May mắn thay, ông đã kịp nhấn nút gọi người tới giúp trước khi ngã gục xuống. Vị bác sĩ người Anh nói với ông rằng ông bị ngộ độc thức ăn, nhưng khi ông quay lại Texas, bác sĩ riêng của ông đã chẩn đoán ông có một vết loét dạ dày. Nguyên nhân có thể vì áp lực căng thẳng, hoặc cũng có thể vì kiệt sức. Nhưng dù là vì nguyên nhân nào, vị bác sĩ cho biết cha tôi cũng đã rất may mắn khi vẫn còn sống.
Trong những năm đầu đời, George H.W. Bush không bộc lộ những đặc tính của một chính trị gia. Ông theo dõi tin tức và đi bầu cử khi đến tuổi, nhưng không thiên về bất kỳ một tổ chức chính trị nào. Ngoài cuộc tranh cử vào vị trí Chủ tịch hội học sinh năm cuối tại trường Andover, ông chưa bao giờ tham gia một chiến dịch tranh cử nào.
Nhưng điều này bắt đầu thay đổi vào năm 1950, khi ông nội tôi quyết định tranh cử chức Thượng nghị sĩ Mỹ đại diện bang Connecticut. Cha tôi khi đó hai mươi sáu tuổi và bắt đầu công việc kinh doanh dầu khí, vì vậy ông không có thời gian để giúp đỡ cha mình. Tuy nhiên, ông vẫn theo dõi rất cụ thể công việc của cha mình, và quyết định của ông nội khiến cha tôi suy nghĩ về việc ông có nên làm như thế trong tương lai hay không.
Prescott Bush không phải là một chính khách điển hình. Ở độ tuổi sáu lăm, việc công duy nhất ông từng làm là người điều hành cuộc gặp mặt của hội đồng thành phố Greenwich. Ông coi bản thân là đảng viên Đảng Cộng hòa vì niềm tin trước khi ông khởi nghiệp kinh doanh, và ông đã từng rất tích cực gây quỹ cho Đảng Cộng hòa tại Connecticut. Các thành viên của Đảng đã khích lệ ông tranh cử vào Quốc hội năm 1946, và ông đã rất hào hứng tham gia. Tuy nhiên các đối tác tại Brown Brothers Harriman không khuyến khích ông làm việc này. Họ thấy rằng việc đầu tư nhà đất quan trọng hơn việc trở thành hạ nghị sĩ.
Một cơ hội khác lại đến vào bốn năm sau đó khi Thượng nghị sĩ Mỹ đại diện bang Connecticut, ông Raymond Baldwin, đã rời bỏ chức vụ của mình để tiếp nhận một vị trí trong tòa án tối cao cấp bang. Tháng 11 năm 1950, bang này đã tổ chức một cuộc bầu cử đặc biệt để chọn ra một Thượng nghị sĩ để đảm nhận chức vụ này trong hai năm nhiệm kỳ còn lại của Baldwin. Các đảng viên Đảng Cộng hòa tại Connecticut đã thuyết phục cha tôi tranh cử. Lần này các đối tác tại phố Wall đã ủng hộ ông.
Là một người suốt đời làm việc trong các ban quản trị, ông nội tôi đã cố gắng điều chỉnh cuộc sống để có thể tham gia vận động tranh cử. Ông làm việc chăm chỉ, đi lại khắp bang, và ghi danh vào cuộc thi tài năng ca hát tại Yale Whiffenproofs để tạo sự chú ý cho cuộc tranh cử của mình. Ông tham gia các quảng cáo truyền hình, một kỹ thuật tương đối mới ở thời điểm này, ông đã học được cách quảng cáo tranh cử khi làm việc trong ban giám đốc của CBS.
Một vài ngày trước cuộc bầu cử, Drew Pearson, một nhà bình luận trên truyền hình đã đưa ra thông tin sai lệch rằng ông tôi đã từng là Chủ tịch của Liên đoàn kiểm soát tỷ lệ sinh đẻ của bang. Cáo buộc này gây tổn thương cho cộng đồng những người theo Công giáo của bang, họ phản đối mạnh mẽ việc kiểm soát tỷ lệ sinh đến mức luật của bang Connecticut cấm bán các dược phẩm phòng tránh thai. Cuối cùng, ông đã thất bại trong cuộc bầu cử khi chỉ còn thiếu hơn một nghìn phiếu bầu, ít hơn người thắng cuộc một phần mười trong tỷ lệ một phần trăm điểm. Đây không phải lần cuối cùng sự cố diễn ra trước ngày bầu cử có ảnh hưởng xấu tới các ứng viên mang họ Bush.
Tôi chắc chắn rằng ông đã rất thất vọng khi không trúng cử, nhưng ông đã thực sự có một chiến dịch mạnh mẽ và đứng lên kiên cường sau thất bại. Ông vẫn tiếp tục tham gia tranh cử một lần nữa vào ghế Thượng nghị sĩ năm 1952. Tuy nhiên, lần này ông lại thua ở vòng bỏ phiếu kín trong nội bộ đảng. Sau khi thất bại, Prescott Bush ngộ ra rằng công việc chính trị của ông dừng lại tại đây. Ông đã làm hết khả năng của mình, nhưng chiếc ghế Thượng nghị sĩ không phải vị trí dành cho ông.
Nhưng số phận lại can thiệp vào sự nghiệp của ông. Khoảng gần hai tháng sau đó, một thượng nghị sĩ khác của Connecticut đột ngột qua đời. Đảng Cộng hòa của bang tiếp tục khuyến khích ông nội tôi tham gia tranh cử, và ông đồng ý. Sự bền bỉ của ông đã được đền đáp, ông đã chiến thắng cuộc bầu cử với số phiếu vượt trội. Prescott Bush, chính trị gia không gặp may trước đó, nay tuyên thệ nhậm chức Thượng nghị sĩ của Connecticut. George Bush đã học được một bài học quan trong rằng: “Không được để thất bại dập tắt ước mơ. Nếu bạn tiếp tục làm việc và duy trì sự lạc quan, cơ hội sẽ đến trên con đường tiến thân của bạn”.
Nhờ vào tính cách và các mối quan hệ của mình, Prescott Bush đã trở thành một vị thượng nghị sĩ đáng kính. Ông là thành viên trong Ban quản trị của Yale và được làm việc với các lãnh đạo của Thượng Nghị viện, thành viên của Đảng Cộng hòa, Thượng nghị sĩ của bang Ohio, Robert Taft. Ông cũng kết bạn với các thượng nghị sĩ khác vì mục đích công việc, bao gồm Lyndon Bainers Johnson thuộc bang Texas, người đã trở thành Lãnh đạo đảng cấp bang vào năm 1955, và một thành viên cùng nhóm của đoàn đại biểu New England, John F. Kennedy thuộc bang Massachusetts. Thời trước những năm 1950, các thượng nghị sĩ có xu hướng cùng tốt nghiệp từ một trường đại học nhiều hơn ngày nay.
Người bạn ở thủ đô có ảnh hưởng lớn nhất đến ông nội tôi là Tổng thống Dwight Eisenhower. Chìa khóa để phát triển tình bạn này đó là tên tuổi của cha tôi trong giới chơi golf. Ike (tên thân mật của Tổng thống Eisenhower) rất thích chơi golf, và không có vị nghị sĩ nào chơi golf giỏi hơn Prescott Bush. Ike đặc biệt thích Prescott, vì ông không nhường cho Tổng thống thắng như các chính khách khác vẫn làm. Vài năm sau, anh trai tôi, Marvin, đã mời tôi chơi golf ở gần khu vực của câu lạc bộ Burning Tree tại Maryland, một trong những địa điểm mà ông tôi và Tổng thống Eisenhower đã từng chơi. Marv đã giới thiệu tôi với người nhặt bóng đã từng nhặt bóng cho ông nội tôi vài thập kỷ trước đây. Sau khi xem tôi đánh khoảng năm lỗ, ông đánh giá. “Ông nội của ngài đánh tốt hơn ngài đấy”. Ông nói, “Ngài ấy căn trái, căn phải, rồi mới đánh. Còn khi ngài đánh trúng, có thể chỉ do may mắn thôi”. Người nhặt bóng không lo sợ nói ra sự thật.
Một trong những đồng nghiệp của Prescott Bush là Nghị sĩ Joseph McCarthy tại Wisconsin. Tại thời điểm này, McCarthy nổi tiếng trong một phân khúc cử tri vì ông rất nhiệt tình chống cộng sản, bao gồm cả việc cáo buộc (đôi khi vô căn cứ) rằng các thành viên cộng sản đã thâm nhập vào bộ phận cấp cao nhất trong chính phủ. Trong suốt chiến dịch bầu cử Nghị sĩ năm 1952, cha tôi đã xuất hiện cùng McCarthy trong các sự kiện của chiến dịch. Một ứng viên của Đảng Cộng hòa tại sự kiện đã ca ngợi McCarthy, điều này đã nhận được sự hưởng ứng lớn từ phía đám đông. Ông tôi nhận ra McCarthy là một tay mị dân và hay bắt nạt người khác. Prescott Bush đã nói: “Trong khi chúng ta ngưỡng mộ mục tiêu chống lại chủ nghĩa cộng sản của ông ấy, chúng ta cũng nên quan tâm đến một số hạn chế đáng kể trong các phương pháp mà đôi khi ông ấy sử dụng”.
Mặc dù đám đông phản đối mạnh mẽ, nhưng ông tôi đã không hề e ngại. Sau này, ông đã từ chối một cuộc vận động ủng hộ từ McCarthy. Vài năm sau, khi được biết đến lập trường của ông, tôi đã rất ngưỡng mộ sự sẵn sàng của ông khi đối mặt với chủ nghĩa cực đoan. Thị trưởng thành phố Boston, ông James Micheal Curley, đã từng tóm tắt triết lý của rất nhiều chính trị gia như sau: “Mọi người đang đi cả rồi. Tôi phải theo họ, vì tôi là lãnh đạo”. Nhưng Prescott Bush có đủ lòng dũng cảm và tính liêm trực để bác bỏ quan điểm này.
Năm 1956, Prescott tham gia tái tranh cử. Ông đã thiết lập một kỷ lục lớn khi còn là một nghị sĩ, là nhà bảo trợ pháp luật quan trọng cho Luật hệ thống xa lộ Hoa Kỳ và Tổ chức hòa bình. Ông nổi tiếng với phong cách làm việc không mệt mỏi để phục vụ các cử tri của mình. Ông dành các buổi sáng thứ Bảy trong văn phòng để trả lời các bức thư nhận được trong tuần. Ông tôi đã học được một bài học giá trị: Trong lĩnh vực chính trị, không gì thay thế được mối quan hệ với những công dân mà bạn có trách nhiệm phụng sự. Sau này, cha tôi đã tiếp nối công việc của ông tôi khi dành các buổi sáng thứ Bảy để trả lời thư nhận được trong tuần.
Đối thủ của ông tôi năm 1956 là Thomas J. Dodd, một nghị sĩ Đảng Dân chủ và là một luật sư. Dodd đã sử dụng các học thuyết của chủ nghĩa dân túy để chống lại ông tôi. “Tôi cho rằng Nghị sĩ Bush dường như đã dành quá nhiều thời gian để chơi golf”, ông ta nói. “Tôi còn không có đủ điều kiện chơi golf”.
Sau đó, một vài người đã hỏi Dood rằng sở thích của ông ta là gì. Ông ta nói rằng đó là cưỡi ngựa. Không chần chừ, ông nội tôi đã nói, “Ồ, chúc mừng đối thủ của tôi. Tôi còn không có đủ điều kiện để có một con ngựa”.
Ông nội tôi đã chiến thắng trong cuộc tái bầu cử với hơn mười phần trăm điểm. (Vài năm sau, tôi đã có cơ hội làm việc với cậu bé khá dễ thương Chris Dodd, con trai của đối thủ một thời của ông nội tôi và là Thượng nghị sĩ của bang Connecticut trong suốt ba mươi năm.)
Năm 1962, Prescott Bush đã sáu mươi bảy tuổi, đang phải chịu đựng căn bệnh viêm khớp, và không còn sức để đáp ứng những lịch trình đi lại liên tục. “Sẽ thật ngu ngốc nếu ngài tiếp tục chạy đua”, bác sĩ khuyên, và ông thấy thuyết phục. Tôi nghĩ lúc đó trong ông đã có luồng suy nghĩ khác, đặc biệt là sau khi biết sức khỏe của mình bắt đầu cần được cải thiện. Ông đã sống thêm hơn mười năm, và ai cũng biết rằng ông đã cống hiến hết mình cho chính trị trong cả một thập kỷ ấy. Kinh nghiệm này của ông thể hiện tầm quan trọng của việc cần biết chọn đúng thời điểm để tham gia chính trị. Đối với Prescott Bush, việc lựa chọn thời điểm quá muộn khiến ông khó tiếp tục trụ lại chính trường. Còn đối với con trai ông, thời gian tham gia chính trường mới chỉ chớm bắt đầu.
Nói điều này hôm nay nghe thật khó tin nhưng gần một thế kỷ kể từ cuộc tái thiết cho tới năm 1961, không có một thành viên Đảng Cộng hòa nào thắng cử tại bang Texas. Khoảng giữa năm 1896 đến 1959, cả bang chưa từng thấy nhiều hơn một ứng viên Đảng Cộng hòa có chân trong Quốc hội Mỹ hoặc là nghị sĩ của bang. Không có nhiều hơn hai thành viên Đảng Cộng hòa phục vụ trong cơ quan lập pháp của bang. Trong cuộc đua giành chức Thủ hiến bang nhiệm kỳ 1950 đến 1954, đảng viên Đảng Dân chủ, Allan Shivers, đã chiến thắng với gần 90% phiếu bầu, đánh bại một đối thủ Đảng Cộng hòa.
Mặc dù Đảng Cộng hòa có vị thế thấp, nhưng tôi không cho rằng cha tôi phủ nhận ông là đảng viên Đảng Cộng hòa. Sự nghiệp chính trị của ông nội đã ảnh hưởng tới cha, và ông cũng tuân thủ theo những mục tiêu nền tảng của Đảng Cộng hòa: Một hệ thống doanh nghiệp tự do sôi động, một chính phủ liên bang gọn nhẹ và có hiệu quả hơn, và đưa ra những quyết định đúng đắn hơn ở cấp độ bang. Tại Texas, các thành viên Đảng Cộng hòa và rất nhiều thành viên Đảng Dân chủ không bị chia rẽ bởi những vấn đề trên. Nhưng khi đó Đảng Dân chủ đang cầm quyền, và hầu hết người dân Texas không thấy có lý do gì để phải thay đổi khuynh hướng chính trị của họ.
Với tư cách là thành viên Đảng Cộng hòa tại Mildland, Texas, cha tôi đã từng nói đùa rằng ông có thể tổ chức một buổi tiệc gặp gỡ tất cả thành viên trong đảng ngay tại phòng khách của gia đình mà vẫn còn thừa chỗ ngồi. Ông tin tưởng mạnh mẽ rằng Texas sẽ có được những lợi ích từ việc hệ thống hai Đảng và những cử tri có quyền chọn lựa nhiều hơn là chỉ chọn cỗ máy của Đảng Dân chủ. Ông đã tham gia vào một tổ chức của Đảng Cộng hòa ở cấp địa phương. Ông hoạt động như một ứng viên của Đảng Cộng hòa tại Midland và như một đại biểu của đảng tại các hội nghị cấp bang. Ông là một lãnh đạo địa phương trong chiến dịch bầu cử tổng thống của Eisenhower năm 1952 và 1956. Những cuộc bầu cử này đã đánh dấu những chiến thắng nhỏ cho Đảng Cộng hòa tại Texas. Lần thứ hai và lần thứ ba trong các cuộc bầu cử, ứng viên thuộc Đảng Cộng hòa đã chiến thắng cuộc bầu cử với số phiếu đại cử tri bang Texas.
Bước nhảy vọt đáng ghi nhớ đầu tiên của cha tôi đến địa hạt chính trị xảy ra sau khi chúng tôi chuyển đến Houston. Ông đã tham gia Đảng Cộng hòa tại hạt Harris, vùng lớn nhất của bang. Cha tôi đã làm việc chăm chỉ để giúp chọn ra các ứng cử viên Đảng Cộng hòa, trong đó có John Tower, người đã chiến thắng cuộc bầu cử đặc biệt để ngồi vào chiếc ghế Thượng nghị sĩ Mỹ bị bỏ trống vì Lyndon Johnson được lên làm Phó Tổng thống. Tower là một Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa Mỹ đầu tiên tại Texas kể từ cuộc tái thiết, và cuộc bầu cử của ông đã mang lại bầu không khí lạc quan cho đảng này.
Năm 1962, nhiều người bạn ở Houston đã thúc giục cha tôi tranh cử vào vị trí Chủ tịch Đảng Cộng hòa tại Harris. Ông đã đồng ý và tham gia chiến dịch rất tích cực, ông tới thăm từng đơn vị bầu cử trong số hơn hai trăm đơn vị trong thành phố, gồm cả nơi có những người Mỹ gốc Phi là những nơi trước đây chưa từng nhìn thấy đảng viên Đảng Cộng hòa. Cuối cùng, đối thủ duy nhất trong nội bộ đảng của ông rút lui, và các thành viên trong đảng đều nhất trí bầu công khai cho cha tôi. Khi nhìn lại, tôi đã khá ngạc nhiên khi cha tôi quyết định làm công việc này. Với vai trò là Chủ tịch Đảng Cộng hòa tại địa phương trong một thời gian dài, ông phải tuyển chọn các lãnh đạo từng khu vực bầu cử, lên danh sách cử tri, và thực hiện một số công việc không tên ở các cấp cơ sở. Nhưng như những điều ông đã thể hiện khi kinh doanh dầu khí, George Bush không hề lo sợ khi bắt đầu từ những vị trí thấp nhất.
Công việc của cha tôi trở nên phức tạp hơn do một thành phần hoạt động của Đảng, tổ chức xã hội John Birch. Tổ chức Birch tập hợp những kẻ cực đoan luôn nghĩ ra một loạt thuyết âm mưu. Chúng tuyên bố rằng giới thượng lưu ở bờ Đông như doanh nhân Rockefeller muốn Mỹ từ bỏ chủ quyền để hướng đến một số loại hình tổ chức siêu chính phủ. Kết quả là, những kẻ thuộc tổ chức này muốn lôi kéo Hoa Kỳ ra khỏi Liên Hợp Quốc. Họ cũng muốn buộc tội Chánh án tòa án tối cao Earl Warren và bãi bỏ luật Tu chính án lần thứ mười sáu, luật nhằm cho phép đánh thuế thu nhập liên bang, mà không đưa ra bất kỳ giải pháp hợp lý nào khác. George Bush hiểu rằng chừng nào Đảng Cộng hòa còn gắn kết với những kẻ thuộc tổ chức này, thì càng ít có khả năng Đảng Cộng hòa có thể thay thế Đảng Dân chủ tại Texas.
Ngoại giao là bản năng hàng đầu của cha tôi, và ông đã rất cố gắng để đưa những kẻ trong tổ chức Birch vào một cuộc đàm phán. Ông đã chỉ thị cho các lãnh đạo đảng ngừng đề cập đến các “thành viên tổ chức Birch” như “những tên tội phạm”, và cũng bổ nhiệm một số thành viên của tổ chức xã hội Birch vào ghế quan trọng trong các khu vực bầu cử. Nhưng sự sắp xếp này không hiệu quả. Các thành viên của tổ chức đã chống lại các lãnh đạo của cha và từ chối làm việc với những người thành lập nên Đảng Cộng hòa. Vì thế, cha tôi đã thay thế toàn bộ các thành viên nhóm Birch ra khỏi các vị trí lãnh đạo và tiếp tục làm việc như không có họ.
Việc điều hành một đảng quốc gia đã giúp cha tôi rút ra được nhiều kinh nghiệm giá trị. Ông học được cách làm thế nào để tuyển dụng và tạo động lực cho các tình nguyện viên. Ông đã có kinh nghiệm quản lí một tổ chức chính trị. Ông xây dựng được mối quan hệ bằng hữu với Chủ tịch Đảng Cộng hòa tại các hạt và toàn bộ lãnh đạo Đảng Cộng hòa trên toàn bang. Và ông cũng ý thức được rằng những người thuộc chủ nghĩa chính trị cực đoan thường đi công kích hơn là hợp tác để làm việc vì mục đích chung.
Vào ngày 11 tháng 9 năm 1963, George Bush đã tổ chức một cuộc họp báo tại Austin để tuyên bố tranh cử vào Nghị viện Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Lúc đó tôi bắt đầu năm học cuối cấp tại Andover. Tôi không thông thạo về chính trị, nhưng tôi đủ hiểu để nhận ra rằng cuộc đua này khá dài. Cha tôi đã là một doanh nhân ba mươi chín tuổi và là lãnh đạo một đảng tại cấp vùng, là người chưa bao giờ tham gia chính trị. Tên tuổi của ông ít được biết đến ngoài phạm vi Houston và Midland. Và ông cũng là một thành viên Đảng Cộng hòa trong bang mà hầu hết mọi người đều bầu cho Đảng Dân chủ.
Cha tôi chưa bao giờ hỏi quan điểm của tôi về quyết định tranh cử của ông, và tôi cũng không hy vọng ông làm thế. Dĩ nhiên, cha đã nói chuyện với mẹ. Sau đó, mẹ đã nói với tôi rằng điều mẹ lo nhất là cha sẽ thắng trong cuộc bầu cử và chúng tôi sẽ phải tiêu hết sạch tiền. Sau tất cả, không hề có một nguồn quỹ ủy thác nào từ bờ Đông hỗ trợ cha mẹ tôi. Mẹ không cần tiền để mua các món đồ sang trọng; như bà đã cho biết, “Mẹ chỉ muốn chắc chắn rằng chúng ta đủ tiền để các em trai và em gái con vào đại học”. Cha tôi đã thuyết phục bà rằng họ sẽ có sự bảo đảm về tài chính, để bà có thể làm được nhiều việc. Làm việc chăm chỉ để giúp cuộc vận động của George Bush thành công là một lần nữa mẹ tôi lại đi ba phần tư quãng đường với người đàn ông mà bà yêu thương.
George Bush đã tham gia cuộc tranh cử với những lý do đúng đắn. Ông cảm thấy đây là trách nhiệm để phục vụ người dân giống như điều Prescott Bush cảm nhận khi điều phối những cuộc họp hội đồng thành phố Greenwich và khi từ bỏ sự nghiệp tại phố Wall để bắt đầu công việc thượng nghị sĩ. Ông cũng hiểu được từ việc chứng kiến tấm gương Prescott Bush rằng ông có thể bước vào môi trường chính trị mà vẫn là một người chồng, người cha tốt. Đó là một bài học mà tôi đã học được từ cả cha và ông mình. Không cần phải nói, Prescott Bush đã hoàn toàn ủng hộ quyết định tham gia của con trai ông, thậm chí ông biết rõ rằng đó có thể là cả một quãng đường dài.
Giai đoạn đầu tiên của cuộc đua là đấu tranh với những thành viên khác trong Đảng Cộng hòa, một cuộc đua giữa bốn người, cha tôi với Jack Cox, Robert Morris, và Milton David. Cox là ứng cử viên nặng ký. Giống như cha tôi, ông xuất phát từ việc kinh doanh dầu khí ở Houston. Ông đã làm việc trong cơ quan lập pháp bang Texas trong sáu năm trước khi gia nhập vào làn sóng từ bỏ Đảng Dân chủ để tham gia vào Đảng Cộng hòa. Năm 1962, Cox đã có được 45% số phiếu bầu trong cuộc tranh cử vào chức vụ Thống đốc, vượt trên số phiếu của một thành viên Đảng Dân chủ, John Connally.
Cha tôi đã rất hăng hái tham gia vào các vũ đài tranh cử. Ông không coi nhẹ bất cứ buổi tụ tập cà phê hay các buổi tiệc thương mại nào. Ông đã xem bản thân như người thuộc “chủ nghĩa bảo thủ có trách nhiệm” và mong mỏi bang sẽ đặt dưới sự lãnh đạo của hai đảng. Sau mỗi sự kiện tranh cử, ông đều gửi những bức thư tay cho những người mình đã gặp. Ông phải viết đến hàng nghìn bức như thế vào mùa xuân năm đó. Các đảng viên Đảng Cộng hòa rất ấn tượng với tính cách nồng nhiệt, tâm huyết trong công việc và cả tiểu sử cá nhân đầy thành tích của ông. George Bush thu hút từng người một trở thành người ủng hộ cho ông về mặt chính trị.
Sự chăm chỉ làm việc của cha tôi đã được đền đáp thông qua kết quả của cuộc bầu cử kín trong nội bộ đảng. Ông nhận được 44% phiếu bầu, trong khi Cox chỉ nhận được 32%. Luật bầu cử ở Texas yêu cầu người thắng cử phải có được trên 50% số phiếu bầu, vì vậy cha tôi và Cox vẫn sẽ tiếp tục gặp nhau trong vòng bầu cử tiếp theo. Cha không thể dự lễ tốt nghiệp phổ thông của tôi vì bận tranh cử, nhưng tôi không phiền lòng vì điều đó. Tôi chỉ muốn cha thắng. Và ông đã làm được. Ông đã chiếm ưu thế trong cuộc bầu cử với khoảng 62% số phiếu bầu.
* * *
Cuộc đua vào vị trí Thượng nghị sĩ bang Texas năm 1964 có sự tham gia của nhiều cựu tổng thống và cả các tổng thống tương lai hơn bất cứ một cuộc tranh cử vào Thượng viện nào khác trong lịch sử. Cha tôi là một trong số các ứng viên, dĩ nhiên là như thế. Tôi đã tham gia vận động cho ông trong suốt mùa hè sau khi tốt nghiệp. Ngoài ra còn có Richard Nixon, người mà ông nội tôi đã từng biết khi còn làm trong Thượng viện. Dwight Eisenhower, một người bạn thân của ông nội tôi, Prescott Bush. Tổng thống đương nhiệm Lyndon Johnson, tranh cử chức đại diện Đảng Dân chủ và Ralph Yarborough, người đã ở bên cạnh trợ giúp Tổng thống Kennedy trước khi ông bị ám sát.
Thượng nghị sĩ Ralph Yarborough thuộc chủ nghĩa dân túy tự do, ông là người theo dõi toàn bộ các kế hoạch chi tiêu lớn của tổ chức Great Society. Ông ủng hộ Luật quyền công dân năm 1964, bộ luật mà rất nhiều người dân Texas đã phản đối và xem nó như một sự can thiệp thô bạo của chính phủ liên bang về một vấn đề mà họ cảm thấy nên được quyết định bởi các bang. Yarborough tấn công vào các mối quan hệ của cha tôi trong nền công nghiệp dầu khí và cố gắng mô tả ông như một ứng cử viên giàu có đến từ vùng Đông Bắc đang tranh cử ở nơi không phải quê hương mình. Một nhà phê bình in ra những tờ rơi đã khẳng định rằng mẹ tôi là một phụ nữ giàu lên nhờ tiền thừa kế, bà đã dành toàn bộ thời gian để hưởng thụ ở khu nghỉ dưỡng Cape Cod. Một thời gian ngắn sau đó, cha tôi nhận được một lá thư từ Marvin Pierce. Ông Pierce đã đưa đến một tin xấu rằng mẹ tôi không được thừa kế. Bà cũng chưa từng đặt chân đến Cape Cod.
Trong bài phát biểu của ông trước cuộc tổng tuyển cử, cha tôi đã gọi Yarborough là “người đã bồi dưỡng, cải thiện và phát triển mạnh mẽ việc kêu gọi thắt chặt chi tiêu - chi tiêu tiền của người đóng thuế”. Cha tôi luôn làm việc dựa trên cơ sở giảm thuế và cân bằng ngân sách, thu hẹp quy mô chính phủ nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tự do, và một chính sách ngoại giao vững vàng để phát triển các quyền tự do.
Sau khi nhận định được rằng số lượng đảng viên Đảng Dân chủ ở Texas lớn hơn rất nhiều so với Đảng Cộng hòa, cha tôi không có lựa chọn nào ngoài việc cố gắng thu hút những thành phần bảo thủ trong Đảng Dân chủ để loại bỏ đối thủ của mình. Ông đã thuê một chiếc xe bus lấy tên là “Trào lưu Bush”. Tôi đã cùng ông đi trên chiếc xe bus này theo hành trình đến miền Tây Texas, nơi mà chúng tôi dừng chân là tại các ủy ban khu vực bầu cử ủng hộ mạnh cho Đảng Dân chủ như Abilene và Quanah. Các cuộc hành trình này giống như những cuộc trải nghiệm tham quan của cha và tôi. Chúng tôi đã tìm đến quảng trường thành phố, thuê một ban nhạc có tên là Black Mountain Boys với hy vọng sẽ thu hút đám đông. Nhóm Bush Belles gồm các bà nội trợ tài giỏi và nhiệt huyết, tham gia cổ vũ cho sự kiện tranh cử của cha tôi. Công việc của tôi là chạy tới chạy lui trên chiếc xe bus để chắc chắn rằng Belles và các tình nguyện viên chiến dịch đã có đầy đủ vật dụng họ cần. Sau đó, cha sẽ tiến tới bục phát biểu và đọc diễn văn. Đám đông sẽ hò reo và vỗ tay. Một số người khác sẽ nhìn chằm chằm vì lần đầu được thấy một đảng viên Đảng Cộng hòa bằng xương bằng thịt.
Tham gia chiến dịch tranh cử cùng cha là một trải nghiệm tuyệt vời của tôi. Tôi đã rất ngạc nhiên bởi nhiệt huyết và cách điều hành của ông. Tôi đã học được từ cha một số yếu tố của cuộc vận động tranh cử, bao gồm cả “bài phát biểu nguồn”. Thời gian đầu, tôi đã rất ngạc nhiên rằng cha tôi đã sử dụng chung một bài phát biểu cho toàn bộ các buổi lễ vận động tranh cử. Với những người đi cùng ông, việc phải nghe đi nghe lại một bài diễn văn có thể rất nhàm chán (Có lẽ đây là lý do mẹ tôi bắt đầu thêu những chiếc ví cho các tình nguyện viên chủ chốt của cuộc vận động). Tuy nhiên, đối với mỗi đám đông ở các thành phố, thì đó lại là bài diễn văn họ mới nghe lần đầu tiên. Và thậm chí nếu đội cổ vũ thấy chán, ông vẫn không chán. Ông là một diễn giả chân thành và đầy cảm xúc, ông trân quý từng phút giây của cuộc vận động tranh cử. Tôi đã dần dần yêu quý trình tự công việc nhịp nhàng mỗi ngày của cuộc vận động - cả các đám đông và các cuộc tranh cãi. Tất cả bắt đầu từ mùa hè năm 1964 khi con virus chính trị đã ăn vào người tôi.
Cuộc vận động của cha tôi ngày càng tiến triển trong suốt mùa hè và mùa thu, nhưng sau đó tôi đã nhận được một đòn phá hoại nặng nề vào ngày cha tôi bước vào cuộc tranh cử. Trong khi Ralph Yarborough có khả năng bị đánh bại tại Texas năm 1964, thì Tổng thống Lyndon Baines Johnson lại không như vậy. Thậm chí Yarborough đã có được vị trí tay trái của LBJ - và ngay cả khi LBJ rất yêu quý và kính trọng Prescott Bush - thì Tổng thống cũng không thể làm mất đi một ghế của Đảng Dân chủ trong Thượng viện. Johnson ca ngợi Yarborough như là một người bạn thuộc Đảng Dân chủ và đẩy cha tôi sang phe ứng cử viên chủ tịch Đảng Cộng hòa Barry Goldwater, người đã bị mất nhiều điểm sau khi Tổng thống LBJ chạy các quảng cáo hằng ngày với nhân vật em bé và hoa cúc, miêu tả ông gắn với tham vọng châm ngòi cho các cuộc chiến tranh hạt nhân.
Tuần cuối cùng trước cuộc bầu cử, quá rõ ràng để thấy rằng sức mạnh của LBJ đã nhân lên tại bang quê nhà của ông ta. Cha đã thuyết phục các tờ báo chính ở Texas để thừa nhận cả ông và LBJ. Việc cùng chia nhau tấm vé dường như là con đường duy nhất dẫn đến chiến thắng của George Bush, ứng cử viên kiên trì chạy đua tới từng giây cuối cùng. Trong ngày bầu cử, ông nội và tôi đã đến Houston từ Connecticut, nơi tôi bắt đầu năm học đầu tiên tại Yale. Tôi vẫn nhớ việc đi xe đến khách sạn America để tham dự tiệc mừng chiến thắng sau đợt kiểm phiếu. Chúng tôi đang nghe đài phát thanh thì chương trình bị ngắt đột ngột bởi tin Ralph Yarborough đã thắng cử.
Giống như những đứa trẻ mười tám tuổi rất yêu quý cha mình, tôi coi đây là trận thua thảm hại. Khi đó, tôi cảm thấy giống như mình cần phải ra khỏi căn phòng khách sạn càng nhanh càng tốt. Cha đã giúp tôi mở mang tầm nhìn trước những cách khác nhau để đối mặt với thất bại. Ông có một bài phát biểu đầy cuốn hút và dành cả đêm để bắt tay cảm ơn những người đã giúp đỡ lẫn những nhân viên trong ban vận động tranh cử.
Sau khi hoàn thành việc kiểm phiếu, George Bush đã có nhiều điều đáng tự hào. Trong khi LBJ đánh bại Goldwater với 700.000 phiếu bầu tại Texas, thì cha tôi chỉ thua Yarborough 300.000 phiếu. Tức là có hơn 1,1 triệu người dân Texas đã bầu cử cho cha tôi - tổng số phiếu cao nhất toàn bang mà không một thành viên Đảng Cộng hòa nào từng nhận được, trong đó có cả Dwight Eisenhower trong hai cuộc vận động tranh cử chức vị Tổng thống của ông.
Chiến thắng long trời lở đất của LBJ lan ra rộng khắp Texas. Sau cuộc bầu cử năm 1964, không có bất kỳ thành viên Đảng Cộng hòa nào có mặt trong Thượng Nghị viện của bang và chỉ có duy nhất một đảng viên Đảng Cộng hòa trong số 150 Hạ nghị sĩ toàn bang, Frank Cahoon đến từ Mildland. Nhìn chung, cha tôi khó có thể làm gì hơn nữa. Bài học năm 1964 đã chỉ ra rằng có những cuộc đua mà ông không có cửa thắng. Tuy nhiên, hai năm sau, ông đã nhận ra có cuộc đua có cửa thắng.
Khoảng giữa năm 1950 và 1960, dân số Texas tăng nhanh từ 7,7 triệu lên 9,6 triệu người. Houston tăng dân số từ dưới 600.000 lên khoảng 1 triệu người. Năm 1965, một khu vực bầu cử Quốc hội ở Houston đã tách thành ba. Cha mẹ tôi sống ở khu vực hành chính mới tại quận 7. Với cương vị là một cựu Chủ tịch của đảng tại thị trấn và là một ứng cử viên nặng ký trong cuộc bầu cử năm 1964, cha ở trong tầm ngắm cho chức vụ ở nơi mới. Thất bại trong cuộc tranh cử vào Thượng Nghị viện (giống như Prescott Bush đã từng thua trong lần tranh cử năm 1952) không làm suy giảm nhiệt huyết của cha đối với chính trị hay ý chí cống hiến của ông. Ông đã thông báo ý định ứng cử của mình vào Nghị viện tháng 1 năm 1966 và không mấy khó khăn để giành được sự đề cử của các đảng viên Đảng Cộng hòa.
Đại diện Đảng Dân chủ tham gia cuộc tổng tuyển cử là Frank Briscoe, một luật sư tại hạt Harris. Không giống như Ralph Yarborough, Briscoe là một người bảo thủ. Vì ông ta và cha tôi có cùng quan điểm về hầu hết các vấn đề chính sách, nên cuộc cạnh tranh nhắm vào tính cách của cả hai. Cha tôi đã thực hiện cuộc vận động bằng cách làm các tấm biển quảng cáo lớn, trong đó ông đang cầm áo comple vắt qua vai, điều này thể hiện hình ảnh trẻ trung đầy năng lượng của ông. Khẩu hiệu chính thức trong chiến dịch bầu cử của ông là “Hãy bỏ phiếu để Bush vào Nghị viện và chứng kiến các hành động của ông”. Ông đã thực hiện hơn một trăm bài phát biểu trong chiến dịch mùa thu. Nguyên Phó Tổng thống Nixon và lãnh đạo đảng thiểu số trong Quốc hội, ngài Gerald Ford đã đích thân đến Houston để vận động cho ông.
Briscoe cũng thực hiện một phương pháp tiếp cận riêng dựa trên tính cách của ông nhằm công kích George Bush. Tương tự Ralph Yarborough, ông cũng coi cha tôi là một kẻ “tây ba lô” (người không xuất thân từ khu vực bầu cử). Nhưng cha tôi đã biết chuyển tính địa phương của mình thành một lợi thế. Ông lặp lại câu thần chú mà mình đã sử dụng vào năm 1964: “Là một công dân Texas là một lựa chọn, không phải là cơ hội”. Câu nói này của ông được hưởng ứng rộng rãi, vì phần lớn các cử tri trong quận là người dân mới đến ngụ cư ở Texas. Câu khẩu hiệu đáng nhớ này, cùng với các biển quảng cáo của ông, là bài học vỡ lòng cho tôi về thông điệp chính trị. Tôi học được rằng, một câu khẩu hiệu dễ nhớ và hình ảnh bắt mắt sẽ ngay lập tức thu hút sự chú ý của cả những cử tri bận rộn, đặc biệt là những người đã có quan điểm cởi mở đủ để họ cân nhắc việc thay đổi từ ủng hộ đảng này sang đảng khác. Tôi thích lối suy nghĩ rằng mình đã thu hút được thêm một số người ủng hộ khi miêu tả bản thân như một “kẻ đam mê bảo thủ” trong cuộc tranh cử năm 2000.
Khi đã là sinh viên tại bờ Đông, tôi không có cơ hội để giúp đỡ cha trong cuộc tranh cử năm 1966. Tôi đã bay từ Connecticut xuống Houston để tham gia buổi tiệc đêm sau bầu cử. Lần này, bữa tiệc chiến thắng mới đúng là tiệc như tên gọi của nó. Cha tôi đã thắng cử với 57% số phiếu bầu. George Bush đã vào Nghị viện của bang với tư cách là đại diện cho quận thứ 7 của Texas - nơi vẫn còn ủng hộ Đảng Cộng hòa cho đến ngày nay.