Trong khi Nelson ngồi tù, cảnh sát tiếp tục lục soát Liliesleaf và bắt giữ Walter Sisulu cùng thành viên khác của Ngọn giáo Dân tộc. May mắn sao, Oliver Tambo khi ấy đang ở nước ngoài. Hay tin về các vụ bắt giữ, ông biết mình không thể trở về nhưng vẫn kiên quyết giúp đỡ bạn bè mình.
Tháng 10 năm 1963, Nelson phải hầu tòa một lần nữa. Ông bị buộc 222 tội phá hoại giữa năm 1961 và 1963. Phá hoại ở đây nghĩa là phá hủy hoặc phá vỡ vật dụng khiến chúng không thể hoạt động. Ví dụ, nhóm Ngọn giáo lên kế hoạch cho nổ tung sở cảnh sát và các tòa nhà khác của chính phủ (khi không có người)... Vì vậy, chính quyền đã đề nghị tòa xử ông hình phạt cao nhất: treo cổ.

Tình hình trong phòng xử án khi đó vô cùng căng thẳng. Luật sư hai bên mất tới năm tháng trình bày cáo trạng. Cuối cùng tới tháng 4, Nelson đứng lên tự bào chữa. Mẹ và vợ ông dõi theo trên băng ghế phòng xử án. Ông không đưa ra bằng chứng nào trong lời tự bào chữa cho mình. Thay vào đó, ông phát biểu: “Chúng tôi tin Nam Phi thuộc về tất cả người dân sống trong lãnh thổ Nam Phi, chứ không phải một tổ chức nào, dù da đen hay da trắng.”

Ông lên án những luật lệ bất công, cuộc sống tồi tàn ở những khu ngoại ô đông nghịt người và những hành động tàn nhẫn của chính quyền. Ông say sưa nói về quyền bầu cử, quyền giáo dục và quyền được đối xử với sự tôn trọng cơ bản nhất. Cả phòng xử án lặng nghe hàng giờ liền. “Tôi cống hiến cả đời mình cho cuộc đấu tranh của nhân dân châu Phi. Đó là một lý tưởng mà tôi lấy làm lẽ sống và hy vọng sẽ đạt được. Song nếu cần, tôi cũng sẵn sàng hy sinh cho lý tưởng ấy.”
Sau phiên xét xử, chánh án tuyên Nelson cùng các bị cáo khác bao gồm Walter Sisulu tù chung thân.

Nelson và Sisulu được chuyển đến nhà tù nghiêm ngặt nhất trên đảo Robben ngoài khơi Cape Town. Tàu thuyền không được phép lại gần trong vòng bán kính một dặm. Chuyện vượt ngục là bất khả thi. Mandela được đưa tới xà lim nơi sẽ là nhà của ông trong suốt mười tám năm đằng đẵng. Xà lim rộng 2,4 mét và dài 2,1 mét, được thắp sáng cả ngày lẫn đêm nhờ một bóng đèn bốn mươi oát. Mandela có thể đi hết phòng trong vẻn vẹn ba bước chân. Có một tấm đệm ngủ và ba chiếc chăn mỏng tới nỗi ông có thể nhìn xuyên qua chúng. Nhà vệ sinh là chiếc xô sắt nhỏ.


Tất cả tù nhân trên đảo Robben là người da den còn lính gác là người da trắng. Mandela chỉ được phép viết thư cho gia đình và nhận hồi âm sáu tháng một lần. Trước khi Nelson được đọc thư, quản ngục sẽ gạch bỏ bất kỳ thứ gì họ nghĩ Nelson không nên thấy. Vì thế lá thư hiếm khi đủ nghĩa do quá nhiều từ bị xóa. Hàng năm trời, Nelson không được gặp Winnie. Ông cũng không được phép tham dự đám tang mẹ ruột và cậu con trai cả, Thembi, qua đời trong một tai nạn xe hơi vào năm 1969.
Hàng ngày, ông thức dậy lúc 5h30, rửa mặt, cạo râu bằng nước lạnh và đổ xô sắt. Ông được phép dùng tám ô vuông giấy vệ sinh một ngày. Bữa sáng là món cháo nhạt nhẽo. Sau đó Nelson đi lao động, đập đá nơi sân trong hoặc dùng cuốc tách những phiến đá nặng trịch trong mỏ đá vôi, chuyển lên xe tải. Nắng chiếu trên đá gắt tới nỗi khiến thị lực ông giảm sút. Mùa hè nóng như lửa còn mùa đông rét thấu xương và lộng gió. Mắt ông cay xè còn tay phồng rộp vì bụi đá vôi.

Nelson chỉ biết tin tức về thế giới bên ngoài qua đám tù nhân mới hoặc khi cai ngục vứt báo trên tấm đệm ngủ để ông biết rằng ở Johannesburg, vợ ông Winnie đang bị quấy rối và cầm tù. Họ làm vậy nhằm khiến Nelson thấy bất lực khi không thể giúp đỡ được gia đình.

WINNIE MANDELA
Winnie Mandela chia sẻ sự tận tâm của chồng khi muốn chấm dứt chế độ A-pác-thai. Suốt những năm Nelson ngồi tù, Winnie thường xuyên bị giam giữ, đánh đập và quấy rối. Sự đối xử này khiến bà giận dữ và tin rằng bạo lực là cách đúng đắn để đương đầu với kẻ thù. Bà phải hầu tòa vì tội bắt cóc và giết người. Tuy nhiều người phản đối cách làm bạo lực của Winnie nhưng bà vẫn là một gương mặt nổi tiếng gây tranh cãi. Dù được nhiều người ám chỉ là “Người mẹ của Dân tộc”, bà vẫn không hào hứng với sự thỏa hiệp hay cách thức tiến tới sự bình đẳng một cách chậm rãi. Niềm tin này khác biệt với lý tưởng của Nelson, dẫn đến việc họ li dị vào năm 1996.
