Tên khai sinh của cậu là Rolihlahla (Roh – lee-LAH-lah). Trong tiếng mẹ đẻ, từ này mang nghĩa kẻ rung cây, đồng nghĩa với kẻ gây rắc rối. Cha cậu là tù trưởng bộ tộc Thembu. Như những tù trưởng khác, ông lấy nhiều vợ và có tới mười ba người con. Mẹ cậu, Nosekeni Fanny, là vợ thứ ba. Rolihlahla là con trưởng trong bốn người con của bà. Cậu chào đời ngày 18 tháng 7 năm 1918.

Thời bấy giờ, người Anh cai trị Nam Phi. Chính quyền người da trắng kiểm soát nghiêm ngặt công việc cũng như đi lại của người da đen. Họ bị buộc phải ở lại quê hương, trong những ngôi làng và khu vực lân cận biệt lập. Nếu rời quê với bất kỳ lý do gì, họ phải mang theo giấy thông hành đặc biệt cho phép tự do di chuyển, dù chỉ tới làm việc tại khu vực người da trắng trong ngày. Một người da đen sẽ bị bắt giữ ngay lập tức nếu không có lý do xác đáng.
Khi cha Rolihlahla từ chối lời triệu tập hầu tòa của chính quyền Anh Quốc, ông bị mất chức và phần lớn đất đai và gia súc. Hai mẹ con cậu bé phải nương náu tại ngôi làng nơi bà sinh ra. Cậu theo học trường của những người truyền giáo tới từ châu Âu. Ngày đầu tiên đi học, cha đưa cho Nelson chiếc quần của ông, đã được cắt ngắn đến đầu gối, để thay cho cái khố cậu thường mặc ở nhà đang phơi khô trên đất đỏ. Tới trường, cô giáo đặt tên tiếng Anh cho cậu. Từ đó, Rolihlahla được gọi là Nelson Mandela.


Nelson sống quây quần bên mẹ và các em gái trong ba chiếc lều nhỏ xíu. Cậu chăn cừu và bê con trên đồng cỏ. Nelson mê nhất trò đấu gậy – môn thể thao truyền thống ở Nam Phi. Mỗi người chơi cầm một chiếc gậy, họ vừa tấn công lại vừa phải phòng thủ. Nelson là nhà vô địch trong làng.
Mỗi lần cha cậu tới thăm là một dịp đặc biệt. Thật không may trong một lần về thăm nhà, cha cậu lâm bệnh nặng rồi qua đời. Cha ra đi, Nelson cũng chẳng còn được sống bên mẹ và các chị em gái bởi ngài Jongintaba đã nhận nuôi cậu.


Ngày rời làng, Nelson cùng mẹ vác theo toàn bộ tư trang vật dụng của cậu rồi đi bộ về phía Tây. Họ lê bước cả ngày trên những con đường trơ sỏi đá. Và khi tới nơi, Nelson không thể tin vào mắt mình vì chưa từng được thấy căn nhà nào lớn đến vậy. Một chiếc xe ô tô sang trọng lướt qua. Cửa xe mở ra, người đàn ông thấp béo mặc Âu phục bước xuống chính là ngài Jongintaba.
Dù thế giới mới khiến Nelson thích thú, cậu vẫn thấy sợ hãi khi phải ở một mình tại chốn xa lạ. May sao, Jongintaba có cậu con trai Justice lớn hơn Nelson bốn tuổi. Cả hai nhanh chóng kết thân, cùng nhau săn bắn bằng ná cao su, khám phá miền quê và đua ngựa. Nelson theo học trường mới, chất lượng tốt hơn ngôi trường cũ. Cậu học tiếng Anh, lịch sử và địa lý. Nhưng cậu thu lượm được nhiều kiến thức nhất qua các buổi họp cùng già làng. Nelson mơ về ngày cậu có thể trở thành vị lãnh đạo vĩ đại như người cha nuôi.

CUỘC XÂM CHIẾM CỦA NGƯỜI CHÂU ÂU
Vào thế kỷ 15, các quốc gia châu Âu giong thuyền đi khắp thế giới. Tàu thuyền tiến về phía Đông tới châu á, họ qua lại nhộn nhịp quanh điểm tận cùng châu Phi. Họ neo đậu tại nơi mà ngày nay gọi là Nam Phi để tiếp tế đồ ăn cùng nước uống. Năm 1647, một chiếc tàu Hà Lan bị đắm tại bờ biển tây nam. Những thủy thủ sống sót yêu thích vùng đất này tới nỗi họ quyết định ở lại định cư và xây dựng đồn điền, xua đuổi dân bản địa ra khỏi lãnh thổ. Người Hà Lan lập ra thuộc địa riêng và cai trị một cộng đồng châu Phi. Sau đó, người châu Âu phát hiện ra vàng và kim cương ở Nam Phi. thế là vùng đất này trở nên đắt giá. Vào thế kỷ 18, người Anh chiếm quyền cai quản nơi đây. Thực dân Hà Lan phải lùi sâu vào trong nội địa, tránh xa người Anh. Năm 1902, sau cuộc chiến khốc liệt giữa Anh và Hà Lan, các thuộc địa ở Nam Phi chính thức rơi vào tay người Anh.

Nelson mê mẩn nghe kể chuyện lịch sử về những người anh hùng châu Phi đứng lên chiến đấu chống lại Hà Lan và Anh Quốc. Trong những câu chuyện ấy, người da đen Nam Phi được cai trị bởi tù trưởng của chính họ như Jongintaba. Già làng kể rằng: “Khi người châu Âu tới châu Phi, họ có Kinh Thánh còn chúng ta có đất đai. Họ nói: ‘Hãy cùng nguyện cầu!’ Chúng ta bèn nhắm chặt mắt lại. Mở mắt ra, chúng ta có Kinh Thánh còn họ chiếm đất đai.”