Chủ nghĩa thuần chay có thể là một phương cách suy luận và thể hiện sự đồng cảm khi xem xét đến khía cạnh đạo đức của thực phẩm và nông nghiệp.
Cha mẹ hay bảo với những đứa trẻ tham ăn là chúng sẽ biến thành bất cứ thứ đồ ăn nào mà chúng chuẩn bị ngấu nghiến: “Nếu con ăn thêm cà rốt nữa, con sẽ đổi thành màu cam và biến thành một củ cà rốt!” Tất nhiên, xét về mặt sinh học thì điều đó là không thể. Mặc dù vậy, sự tái lập của cách nghĩ này cho thấy nỗi âu lo và chấp nhận phổ biến rằng có tồn tại mối liên hệ mật thiết giữa những gì chúng ta ăn và con người chúng ta trở thành. Nó khác xa với một câu đùa đơn thuần; đúng hơn, nó cho thấy một khuynh hướng tiêu biểu trong cách tư duy, liên quan đến việc tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng từ bất kỳ quá trình biến đổi nào. Vì thế, quan niệm “chúng ta là những gì chúng ta ăn” có thể được áp dụng để xây dựng nhận thức về cách chúng ta tác động đến thế giới và những người xung quanh.
Sự tương phản trong chế độ ăn thịt và chế độ ăn thực vật phản ảnh rõ ràng quan niệm về thứ ăn vào tạo nên tính cách con người. Ở Ấn Độ chẳng hạn, hệ thống sức khỏe tâm trí – cơ thể Ayurveda thời cổ đại xác định các loại thực phẩm dựa trên cách chúng gây ảnh hưởng và phản ánh các giai đoạn phát triển tâm linh của con người, xác nhận chế độ ăn thiêng liêng nhất (được biết đến dưới cái tên Sattvic) là trái cây, ngũ cốc, hạt, sữa chua và mật ong. Danh mục Rajasic chứa nhiều thức ăn mang tính chất kích thích hơn như thịt tươi, rượu, gia vị, tỏi, hành, trứng và đồ ngọt, được cho là khuyến khích các hành vi mang tính cạnh tranh, tính hung hăng và ham muốn nhục dục; trong khi danh mục Tamasic, bao gồm các thức ăn lên men, rữa, phân hủy, nấu quá chín hoặc bị hâm nóng lại, bị gắn kết với bóng tối, sức ì, và bệnh tật.
Điều thú vị là, từ thời Hy Lạp cổ đại, sử gia Herodotus (khoảng 484-424 TCN) đã quan sát thấy mối liên hệ giữa việc ăn thịt và các hành vi hung hăng; và cũng ghi nhận rằng, các nền văn hóa với chế độ dinh dưỡng dựa chủ yếu trên thực vật có liên quan với nhiều mục đích tâm linh hơn. Quan điểm này đã được nhắc lại vào đầu thế kỉ 20 bởi triết gia và tác gia Rudolf Steiner, người xây dựng nền nông nghiệp sạch tự nhiên (biodynamic) – một trong những phong trào nông nghiệp hữu cơ đầu tiên.
Tôi không phải là người ăn thuần chay, nhưng khi càng đọc nhiều về những nhà máy chăn nuôi và sự bạo hành động vật để làm thực phẩm, tôi càng cảm thấy rằng việc tránh các sản phẩm sữa công nghiệp cũng như thịt và cá trong chế độ ăn uống là một quyết định đúng đắn về mặt đạo đức. Ngoài ra, cách tranh luận về chủ nghĩa thuần chay đã đưa tôi đến câu hỏi rằng liệu tôi có nên giảm bớt sữa trong chế độ ăn uống của mình hay không: Ngành chăn nuôi sữa bò có tác động lớn đến môi trường và chiếm đến 4% tổng lượng khí thải nhà kính toàn thế giới. Có 30% tổng diện tích đất trên Trái đất được dùng để trồng cây làm thức ăn cho động vật hoặc chăn thả chúng; và chế độ ăn của một người ăn thịt đòi hỏi lượng đất nhiều hơn 17 lần, lượng nước nhiều hơn 14 lần và ít nhất nguồn năng lượng gấp 10 lần chế độ ăn của một người ăn chay hoặc ăn thuần chay. Lượng khí thải các-bon liên quan đến thức ăn của một người ăn chay bằng một nửa của người ăn thịt, và một người ăn thuần chay còn ít hơn. Trở thành một người ăn chay sẽ giảm lượng khí thải các-bon của bạn xuống trung bình 1,5 tấn một năm.
Câu hỏi là, làm thế nào để chúng ta có thể giữ được cân bằng giữa lý tưởng và hiện thực? Các tranh luận cho chủ nghĩa thuần chay rất giàu cảm xúc, và chúng ta cần nhìn xa hơn bất cứ một hành động tự phát nào và sử dụng các phân tích mang tính phê phán từ một quan điểm tổng thể khi cân nhắc liệu đây có phải là một cách làm phù hợp và bền vững để mọi cư dân áp dụng không. Chúng ta cần đặt các câu hỏi về lựa chọn thay thế. Liệu phúc lợi cho động vật có thể được cải thiện một cách đáng kể bằng hệ thống trang trại hữu cơ quy mô nhỏ hay không, như vậy có thể tạo bối cảnh cho cuộc sống phong phú và đầy đủ của động vật, rằng chúng, cũng như chúng ta, sẽ chết vào một lúc nào đó? Liệu chế độ dinh dưỡng phức tạp của chúng ta (trái hẳn với nhiệt lượng đơn thuần) có thể được đáp ứng thông qua một chế độ ăn thuần chay, và nếu có, thì bằng cách nào? Vương quốc động vật nuôi và mối quan hệ giữa chúng ta với chúng sẽ biến đổi như thế nào nếu tất cả mọi người đều ăn thuần chay? Chúng ta làm thế nào để xây dựng mối liên kết giữa động vật và con người trong một xã hội như thế – và theo một cách khác, liệu mối liên quan khi xét tới các tài nguyên được sử dụng chung trong “chuỗi thức ăn” truyền thống là có lợi cho cả động vật lẫn con người, và liệu có “tình bạn” giữa ta và chúng?
Cho dù bạn chọn lựa mức độ ăn chay của bản thân thế nào, có một điều mà mọi bằng chứng đều chỉ ra rằng chế độ ăn uống kiểu phương Tây đã trở nên quá nhiều đạm, không lành mạnh, phản ánh tình trạng tiêu thụ đạm động vật quá mức. Trở lại với điểm xuất phát của chúng ta, các thế hệ cha mẹ trong tương lai có thể kể những câu chuyện răn đe không phải về những đứa trẻ bị chuyển thành màu da cam do ăn quá nhiều cà rốt, mà về những tổ tiên tham lam đã biến thành “bánh mì kẹp thịt bò” do ăn quá nhiều thịt. Còn tệ hơn nhiều lần việc bị chuyển thành màu da cam, những người-thịt này không còn nhận ra sự khác nhau giữa hòa bình và chiến tranh nữa. Thành công là khi nhận biết được rằng thời kỳ này đã qua đi và chúng ta không còn là hiện thân của sự tiêu cực “Tamasic” nữa.