Nông nghiệp hữu cơ đem đến một công cụ có giá trị, đảm bảo rằng chúng ta đang tích cực chăm sóc sức khỏe của chính chúng ta cũng như môi trường và các tạo vật bên trong nó.
Trong hàng ngàn năm con người đã làm nông nghiệp hữu cơ. Những hệ thống thực phẩm (food system) có khả năng phục hồi nhanh, bao gồm cả hệ thống sinh thái học nông nghiệp (agro-ecological system), như làm vườn rừng (forest garden), đã được phát triển. Khi cuộc cách mạng nông nghiệp nổ ra thì các phương pháp thay thế mới bắt đầu được phát triển, bao gồm cơ giới hóa và sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón tổng hợp. Cột mốc cho sự ra đời của hệ thống nông nghiệp công nghiệp hóa hiện đại là sự phát minh ra máy kéo và xu hướng tổng hợp phân đạm vào giữa thế kỉ 19. Cái quan điểm cấp bách, rằng chúng ta cần gia tăng sản lượng để nuôi sống lượng dân số đang bùng nổ, đã bắt đầu gây ảnh hưởng đến các phương pháp nông nghiệp. Như một hệ quả, phúc lợi động vật và sự bền vững của môi trường bắt đầu bị dẹp sang một bên.
Ngay từ đầu thế kỉ 20, một số người có tầm nhìn xa đã đặt ra câu hỏi về hiệu quả của các kỹ thuật làm nông nghiệp hiện đại mới, và để đánh giá lại các phương pháp làm nông nghiệp truyền thống nhấn mạnh tính bền vững thông qua một hướng tiếp cận tổng thể và cân bằng về mặt sinh thái. Đó là buổi bình minh của nền nông nghiệp hữu cơ thời hiện đại.
Mặc dù nhận thức về vai trò quan trọng của đất được nâng cao, các phương pháp thâm canh vẫn tiếp tục phát triển. Hai loại hóa chất được phát triển trong Thế chiến 2 đã được áp dụng cho nông nghiệp: Amoni nitrat, được sử dụng trong vũ khí, đã trở thành nguồn cung rẻ tiền và dồi dào của ni tơ; và DDT1, vốn được sử dụng để kiểm soát côn trùng mang bệnh trong quân đội, đã trở thành một loại thuốc trừ sâu phổ biến, được sử dụng rộng rãi trên các cánh đồng và khu vườn. Đồng thời, các máy móc lớn đã cho phép người nông dân có thể đơn thương độc mã làm việc trên các diện tích đất lớn hơn, và hàng dặm hàng rào cây bị xới bỏ – giá trị của chúng trong việc ngăn xói mòn đất và tạo ra môi trường sống cho động vật hoang dã đã bị mất đi. Trong những năm 1940. tất cả đều nói về “Cuộc Cách mạng Xanh”: Một chiến dịch để gia tăng sản lượng nông nghiệp và nuôi sống thế giới. Trong hai thập kỷ, trọng tâm là phát triển dòng hạt ngũ cốc năng suất cao, kiểm soát sâu bọ và dịch bệnh bằng chất hóa học, các dự án tưới tiêu trên diện rộng và cơ giới hóa nông nghiệp một cách đáng kể.
1 DDT là tên viết tắt của hoá chất Dichloro-Diphenyl- Trichloroethane là một chất hữu cơ cao phân tử tổng hợp, có chứa chlor, ở dạng bột có màu trắng, mùi đặc trưng, không tan trong nước.
Chỉ khi cuốn sách Silent Spring (Tạm dịch: Mùa xuân im lặng) của nhà bảo tồn người Mỹ Rachel Carson được xuất bản vào năm 1962, mối nguy hiểm thực sự của việc sử dụng hóa chất mới được xem xét nghiêm túc. Những tiết lộ của cô về việc sử dụng thuốc trừ sâu bừa bãi đã được lắng nghe trên khắp thế giới, và từ đó dẫn đến việc cấm DDT ở Mỹ vào năm 1972. Điều này đánh dấu một bước ngoặt của phong trào môi trường và mối quan tâm trở lại đối với nông nghiệp hữu cơ.
Nông nghiệp hữu cơ được chứng minh là có ích cho vấn đề phúc lợi động vật. Vật nuôi được nuôi theo các tiêu chuẩn chứng nhận hữu cơ phải được thả tự do, ăn thức ăn chất lượng tốt và có điều kiện sống và vận chuyển tốt. Chúng phải được đối xử tử tế và cuộc sống của chúng được kết thúc một cách nhân đạo. Bởi động vật nuôi hữu cơ không bị nhốt trong chuồng trại và không bị ép tăng cân quá nhanh, chúng trải qua ít căng thẳng và bệnh tật hơn – có nghĩa là chúng cần ít thuốc và kháng sinh hơn, điều khiến chúng trở thành các thực phẩm lành mạnh hơn.
Mối quan hệ giữa thực phẩm hữu cơ và sức khỏe tốt có vẻ như rất hiển nhiên, có lẽ là không thể chối cãi, nhưng điều này chưa từng dễ chứng minh. Mặc dù vậy, ngày nay đã có bằng chứng rằng thực phẩm hữu cơ, cho dù là động vật hay thực vật, chứa ít hoặc là không chứa dư lượng thuốc trừ sâu, ít cadimi có hại và nhiều chất dinh dưỡng hơn, bao gồm omega 3 và chất chống oxy hóa nhiều hơn một cách đáng kể. Hơn nữa, do hạn chế sử dụng kháng sinh, các sản phẩm hữu cơ không liên quan đến các cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng, như sự phát triển của các chủng vi khuẩn kháng kháng sinh hay mối liên hệ giữa dư lượng thuốc trừ sâu trong thực phẩm của chúng ta và sự phát triển bất thường của não ở thai nhi.
Nhiều người cho rằng thực phẩm hữu cơ quá đắt, khi chúng ta nhìn thực phẩm như là một loại thuốc phòng bệnh, có vẻ như cái giá phải trả là xứng đáng. Nếu chính phủ ngừng tài trợ cho thực phẩm phi hữu cơ và đánh mức thuế khuyến khích để ủng hộ nông nghiệp hữu cơ, sự khác biệt về chi phí sẽ được thu hẹp lại, và sức khỏe của chúng ta, cũng như của Trái đất, sẽ được hưởng lợi. Đất đai của chúng ta cần được nuôi dưỡng và trân trọng bởi những gì mà nó mang lại. Cuối cùng thì, khái niệm về đất sống là nền tảng cho mọi hiểu biết về nông nghiệp hữu cơ. Bạn chỉ cần bước đi trên một cánh đồng, một khu rừng hay một mảnh vườn và cảm nhận đất dưới chân mình để biết rằng đây là thứ vật chất năng động, là sự sống và là thứ mang lại sự sống. Nếu bạn mắc kẹt trong nhà, hãy với lấy một chậu cây trên bệ cửa sổ và cảm nhận sự mạnh mẽ và kỳ diệu trong chút đất màu nâu khiêm tốn ấy. Đất sống dưới chân chúng ta, một thứ da bằng đất của khoáng chất, không khí, đất sét, nước và cuộc sống đang phân hủy, một ngôi nhà của giun đất, bọ cánh cứng, chuột chũi, rễ cây, nấm, ấu trùng côn trùng, vi khuẩn và nhiều loại sinh vật tuyệt vời khác. Đó là một miền màu mỡ các chất hữu cơ, nơi sự sống và cái chết hợp nhất một cách sáng tạo.