Sự hình thành, xác lập cùng sự phát triển và diễn biến chế độ tự viện Phật giáo Trung Quốc đã trải qua thời gian rất dài, ngày nay cơ bản vẫn duy trì hệ thống tổ chức và quy mô vốn có của nó. Những vị cao tăng và đại chúng tự viện trải qua các triều đại từ xưa đã cố gắng không ngừng duy trì, bảo vệ để trở thành một trong những tiêu chí sáng giá của việc Trung Quốc hóa Phật giáo.
Tùng lâm, thường gọi chung là thiền lâm, trước đây vốn chỉ tự viện Thiền tông. Nhưng sau khi có từ tùng lâm xuất hiện thì chùa viện của các tông phái khác như Giáo hạ13, Luật tông14 cũng mô phỏng theo hệ thống tổ chức của thiền lâm mà đổi cách gọi là tùng lâm, do vậy ranh giới giữa chúng dần phai mờ, như hiện nay cơ hồ không nhận ra sai biệt phái này phái kia nữa.
13. Giáo hạ 教下: một thuật ngữ của Phật giáo Trung Quốc dùng chỉ tông Thiên thai, tông Pháp tướng, tông Hiền thủ, cũng gọi là Giáo hạ tam gia.
14. Luật tông 律宗: một trong những tông phái Phật giáo Trung Quốc. Vì phái này chú trọng nghiên cứu giới luật, nghiêm túc truyền dạy và thực hành giới quy nên có tên như vậy. Phái này do Đạo Tuyên sống vào đời Đường sáng lập, căn cứ lý luận chủ yếu dựa vào “Tứ Phần luật” hay cũng gọi là “Tứ Phần luật tông”.
Trước đó, cơ cấu lãnh đạo của chùa viện Trung Quốc tương đối đơn giản, thường do ba vị thượng tọa, trú trì và duy na “tam cương”, gọi là ba giềng mối hợp thành, lãnh đạo đại chúng, duy trì kỷ cương. Vị thượng tọa tuổi cao đức sáng do triều đình trực tiếp bổ nhiệm. Như triều Hậu Tần [384-417, cũng gọi là Diêu Tần, là một trong mười sáu nước thời Đông Tây Tấn], triều Nguyên Ngụy [tức Bắc Ngụy 385-534, là triều đại của người Tiên Ty kiến lập vào thời Nam Bắc triều] đều bổ nhiệm thượng tọa về chùa; Đạo Tuyên đời Đường cũng được bổ nhiệm làm thượng tọa chùa Tây Minh. Địa vị của thượng tọa đứng trên hai vị trú trì và duy na. Trú trì trông coi công việc của một chùa, duy na hay đô duy na làm quản lý tăng chúng và mọi chuyện khác trong chùa. Duy na còn được gọi là duyệt chúng (tức làm vui lòng mọi người), nhưng so với chức năng “duyệt chúng” của hậu thế dĩ nhiên có khác nhau.
Ban đầu, tổ sư hay thiền sư của Thiền tông thường ở trên núi cao hay trong hang động hoặc ở nhờ chùa viện của Luật tông, như sơ tổ Đạt Ma, nhị tổ Huệ Khả, tam tổ Tăng Xán cơ bản không có chùa riêng, bắt đầu từ tứ tổ Đạo Tín, qua Hoằng Nhẫn, đến lục tổ Huệ Năng, rồi đến Thanh Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài Nhượng, tất cả đều tập cư một chỗ, cũng chỉ có một đạo tràng để tu tập giảng pháp mà thôi. Về sau, Thiền tông từng bước phát triển, ảnh hưởng càng ngày càng lớn, ngày một đông hơn, khách quan mà nói cần phải đặt ra chế độ sinh hoạt tập thể cho tăng đoàn. Từ đó vào khoảng những năm thời Trinh Nguyên đến Nguyên Hòa nhà Đường (785-806), Thiền sư Hoài Hải cư trú tại núi Bách Trượng, tỉnh Giang Tây, lập riêng sở thiền cư đầu tiên, đồng thời đặt ra quy ước sống chung đối với tăng chúng để ràng buộc hành vi hàng ngày của đại chúng, và đã trở thành mô hình cơ bản cho các phái Thiền tông sau này lần lượt chế định quy ước của tùng lâm.
Ban đầu, hệ tổ chức quy mô tùng lâm còn rất hữu hạn, điều này có liên quan đến sự phát triển thế lực của Thiền tông, trong tùng lâm chỉ có phương trượng, giảng đường, tăng đường và tăng xá. Trú trì là chủ nhân của đại chúng, được tôn xưng là trưởng lão, ở nhà phương trượng. Theo lịch sử ghi lại Thiền sư Bách Trượng khi thành lập tùng lâm, ngài “không xây điện thờ Phật, chỉ xây giảng đường”, bất kể thiền tăng nhiều ít đều căn cứ thứ tự thọ giới trước sau mà xếp theo hàng lối; đồng thời bất kể chức vụ cao thấp đều “hành phổ thỉnh pháp” [tức là mọi người đều tham gia lao động], đưa ra quy tắc không lao động không được ăn, dĩ nhiên ngoại trừ người già yếu và người đau ốm. Lại đặt ra “thập vụ” [về sau là thập chức], gọi là liêu xá. Mỗi xá chỉ định một người đứng đầu, quản lý, phân công công việc cho nhiều người, ai nấy tự làm tròn chức vụ của mình.
Đến thời Vãn Đường và Ngũ Đại, do sự phát triển nhanh chóng của Thiền tông, chế độ tùng lâm bắt đầu có xu thế hưng thịnh. Nhưng nguồn sáng của Thiền tông là khởi đầu từ phương nam, vì phương nam hưng thịnh hơn phía bắc. Như ở tỉnh Chiết Giang có thiền sư Hồng Yên núi Kính Sơn, ở tỉnh Giang Tây có thiền sư Đạo Ưng núi Vân Cư, đồ chúng của họ lên đến trên một nghìn người. Còn ở tỉnh Phúc Kiến, thiền sư Nghĩa Tồn núi Tuyết Phong, tăng chúng thường trú tại đây lên đến con số năm nghìn, vô cùng khả quan.
Sang triều nhà Tống, quy mô tùng lâm ngày càng hoàn bị, tăng chúng ở chung tu thiền và lao động sản xuất đã trở thành nếp sống hàng ngày. Trong ngôi chùa có cao tăng thạc đức trú trì, thì tăng đồ có trên cả nghìn người là chuyện thường. Theo sách Cảnh Đức Truyền đăng lục ghi chép, đệ tử của thiền sư nổi tiếng Vĩnh Minh Diên Thọ ở chùa Tịnh Từ xứ Hàng Châu, vào năm Kiến Long thứ hai thời Tống Thái Tổ (961), số người thường trú lên đến trên hai nghìn người, cảnh tượng phồn thịnh ấy thật quá rõ ràng, ai cũng nhìn thấy.
Tình hình phía bắc tuy khiêm tốn hơn phía nam, nhưng vào thời nhà Tống cũng có những bước tiến lớn. Trước hết là do nội thị Lý Doãn Ninh quyên tiền xây dựng thiền viện Tịnh Nhân, Tống Nhân Tông đề biển ngạch tên chùa và viết chiếu thư cho mời thiền sư Hoài Liên chùa Viên Thông ở núi Lư Sơn lên phương bắc nhậm chức trú trì, làn sóng Thiền tông thịnh hành ở kinh đô Biện Lương. Tiếp theo, vào năm Nguyên Phong thứ năm (1082), Tống Thần Tông lại ban chiếu xây dựng chùa Đại Tương Quốc, và mở thêm ra hai đại thiền viện khác là Trí Hải và Tuệ Lâm, về sau tiếng tăm vang lên đến phía bắc. Đến triều Tống Huy Tông, khi Tông Trách biên tập sách “Thiền uyển Thanh quy”, hệ thống tổ chức tùng lâm vùng đất từ Trường Giang lên phía bắc cơ bản đã hoàn thành.
Nhưng sự hưng vượng của chế độ tùng lâm là vào thời Nam Tống, xuất hiện rất nhiều cao tăng, thiền phong phổ biến khắp vùng Giang Nam, hơn nữa lại có danh xưng “Ngũ sơn Thập sát”. Thiền viện Ngũ sơn gồm: Linh Ẩn, Tịnh Từ ở Hàng Châu, Kính Sơn ở Từ Hàng, Thiên Đồng, A Dục Vương ở Ninh Ba; Thập sát gồm: chùa Trung Thiên Trúc ở Hàng Châu, Đạo Tràng ở Hồ Châu, Giang Tâm ở Ôn Châu, Song Lâm ở Kim Hoa, Tuyết Phong ở Phúc Châu, Tuyết Đậu ở Ninh Ba, Quốc Thanh ở Đài Châu, Linh Cốc ở Kiến Khang (nay là Nam Kinh), Vạn Thọ, Hổ Khâu ở Tô Châu. Đến đây, chế độ tùng lâm của Trung Quốc đã định hình một cách hoàn thiện, đời sau cứ mãi tiếp tục, không có biến động gì nhiều.
Sự hoàn thiện của chế độ tùng lâm trải qua một thời gian dài, từ buổi ban đầu chỉ có phương trượng, giảng đường, tăng đường và tăng xá, dần dần diễn tiến và thay đổi mà trở thành bốn mươi tám (nếu phân nhỏ ra nữa thì có đến tám mươi loại) tổ chức tùng lâm đồ sộ. Do phong cách sinh hoạt của các chùa không giống nhau, vị trú trì cũng đưa ra phương pháp phù hợp với những vị tu hành có giai vị và tự đặt ra chức việc riêng, dẫn đến danh xưng trở nên phức tạp; bài tựa trong sách “Thiền uyển Thanh quy” của Tông Trách thời Tống, viết: “Tổ chức Phật giáo trang nghiêm, cần thiết đặt pháp tràng, những Phật sự trong chùa không được thiếu khuyết. Phải chăng lập thêm ra nhiều pháp hay thì tùy cơ mà thực hiện việc giáo hóa”. Chính đó là điều phản ánh tình hình này. Nhưng quy mô cơ bản của tùng lâm và việc phân công chức sự đại thể vẫn như cũ.
Ngoài ra, từ đời Tống trở về sau, tùng lâm có sự phân biệt giữa cách truyền thừa trú trì theo sư đồ [gọi là giáp ất đồ đệ viện], cách truyền thừa theo tuyển chọn người bên ngoài [thập phương trú trì viện], cách truyền thừa theo sắc lệnh [sắc sai trú trì viện]. Và có sự bất đồng trong phương pháp truyền thừa, tức là có sự sai khác giữa chùa của con cháu và chùa của thập phương. Giáp ất đồ đệ viện tức chỉ đệ tử của mình đã độ được luân lưu làm trú trì, gọi là chùa viện truyền thừa theo quy chế sư đồ, gọi tắt là giáp ất viện, tùng lâm thế độ hay tử tôn miếu. Thập phương trú trì viện, tức chỉ sư trú trì công khai mời vị sư có danh đức từ chùa viện bên ngoài đến đảm nhiệm, gọi tắt là thập phương viện. Sắc sai trú trì viện thì do triều đình bổ nhiệm sư về làm trú trì, gọi tắt là cấp điệp viện. Hình thức này kéo dài đến cuối đời Thanh.
Thời cận đại trở đi, chế độ phong kiến sụp đổ, trú trì do triều đình bổ nhiệm trên thực tế không còn tồn tại ngoài những chữ sắc tứ trên biển ngạch ở cổng chùa, nên tùng lâm chỉ còn hai loại hình là tử tôn miếu và thập phương tùng lâm. Nhưng cần nói rõ là căn cứ sự khác nhau trong chế độ truyền thừa trú trì của thập phương tùng lâm thì cũng có bất đồng giữa tuyển hiền tùng lâm và truyền pháp tùng lâm. Ví như trong lịch sử, trú trì của chùa Kim Sơn ở Trấn Giang, tỉnh Giang Tô, là cách truyền thừa theo pháp, tức thuộc truyền pháp tùng lâm; nhưng chùa Thiên Đồng ở Ninh Ba lại tự mời Bát Chỉ Đầu Đà về làm trú trì, sau khi trùng hưng, thiền sư Ký Thiền đổi là quy chế tuyển hiền thập phương, nên trở thành tuyển hiền tùng lâm. Không chỉ thế, đến thời Dân Quốc, giới Phật giáo còn dấy lên phong trào cải đổi tử tôn miếu thành thập phương tuyển hiền, như năm 1924 chùa Nam Phổ Đà ở Áo Môn, năm 1941 chùa Phổ Tế ở Thượng Hải, năm 1947 chùa An Tịnh ở Thượng Hải... là những ví dụ cụ thể từ tử tôn miếu thành thập phương tùng lâm.
I. Trú trì - Phương trượng - Hòa thượng - Trưởng lão
Trú trì là vị thầy làm chủ một ngôi chùa. Danh xưng này xuất phát từ Thiền môn. Ý nghĩa là gìn giữ Phật pháp, an trú ở đời, nhân đó mà gọi là “trú trì” [trú pháp vương gia, trì Như Lai tạng - Ở nhà của đấng Pháp vương; Gìn giữ kho tàng của bậc Như Lai] mãi dùng cho đến nay.
Phương trượng có nguồn gốc là vào thời nhà Đường, khi Vương Huyền Sách đi sứ Ấn Độ, ông đến giữa thạch thất của cư sĩ Duy Ma Cật, tức vị chủ nhân trong bản “Duy Ma Cật sở thuyết kinh”, vị cư sĩ này nhân “bệnh” của bản thân mà nói pháp, Huyền Sách lấy trượng đo bốn phía vừa đúng một trượng vuông. Trở về, ông quảng bá trong nước chuyện này, thiền sư Bách Trượng khi chế định “Bách Trượng Thanh quy”, nhân cơ hội này lấy dùng để chỉ chỗ ở của trú trì trong tự viện, về sau cũng dùng phương trượng để đại diện cho người chủ của một ngôi chùa và như vậy tương đương với ý nghĩa của “trú trì”.
Hòa thượng vốn là lời nói thông tục của người Ấn Độ, ý nghĩa là “thầy của tôi” [ngô sư] hoặc “thầy dạy chính mình” [thân giáo sư]. Căn cứ tập quán sinh hoạt của Phật giáo tùng lâm, trong một ngôi chùa chỉ vị trú trì mới có đủ tư cách gọi là “hòa thượng”. Các chức tăng khác đều theo chức vị mà xưng hô, như tri khách (sư tiếp khách), duy na (sư quản lý công việc của chúng tăng trong chùa), tăng trị (sư phụ trách giới luật thường ngày)… gọi khác đi là sư tri khách, sư duy na, sư tăng trị …
Trưởng lão, chỉ vị sư tuổi cao, học rộng, đức dày trong tăng đoàn, vì vậy nên gọi là trưởng lão.
II. Đông Tây hai ban - Chức nghiệp - Chức vụ
Hai phòng hay còn gọi là hai ban, các tổ sư tùng lâm ngày xưa mô phỏng theo quy chế của triều đình phong kiến trong việc chia ra hai ban văn - võ, ở dưới vị trú trì, lập ra đông tây hai phòng.
Người trưởng về học đức thuộc về Tây phòng còn có tên gọi là đầu lĩnh; người trưởng về pháp thế gian thuộc về Đông phòng, còn gọi là tri sự. Hai phòng ấy bao gồm toàn thể tăng chức và tăng viên, nên gọi là “hai ban đại chúng”.
Đông phòng gồm các loại chức vụ, xếp hạng theo thứ tự như sau: đô giám, giám viện, phó tự, duy na, tăng trị, tri khách, y bát, thang dược, duyệt chúng, liêu nguyên, quản đường, khố đầu, chung đầu, điện chủ, dạ tuần, môn đầu, hương đăng, ty thủy.
Tây phòng gồm các loại chức danh, xếp hạng theo thứ tự như sau: tọa nguyên, thủ tọa, tây đường, đường chủ, thư ký, tàng chủ, tri tàng, tham đầu, thiêu hương, ký lục, tự giả.
Ý nghĩa các chức trách, nhiệm vụ quyền hạn của các chức vụ trong Đông phòng và Tây phòng như sau:
(1) Đô giám: Đứng giữa trú trì và giám viện, trên trợ giúp trú trì, dưới phụ tá giám viện, tuy không vất vả xử lý công việc như giám viện, nhưng nắm giữ việc chung cho cả trên dưới hai đầu, cho nên còn gọi là tổng lý hay đô tổng.
(2) Giám viện: Có nghĩa là giám đốc một chùa viện, dưới sự lãnh đạo của trú trì, nắm giữ tất cả công việc hành chính trong chùa, thông thường gọi là thầy chủ nhà Đương gia sư
(3) Thủ tòa: Là người ngồi ở chỗ chính tòa (ghế đầu), nên có tên là thủ tòa.
(4) Tây đường: Người trú trì của bổn tự ở trong chùa phía trước, gọi là “đông đường” hay là “thối viện”, nhưng có vị trưởng lão thối ẩn đến ở tại bổn tự, gọi là “tây đường”. Vì phía tây là vị trí của tân khách nên có tên như vậy.
(5) Duy na: Duy có nghĩa là kỷ cương, phép tắc, nhân đó duy na gọi là kỷ cương; na là tiếng Phạn, nói gọn của “yết-ma-đà-na” (Phạn: karmadana). Duy na phụ trách việc tu trì của đại chúng trong chùa, chấp hành cương lĩnh các việc về lên điện, quá đường, tụng niệm, ví như lo việc cất giọng, xướng tụng, đọc văn sớ, đánh đại khánh…
(6) Tăng trị: Còn có tên là củ sát [ۣ:kiểm soát, xem xét], là thầy trực nhật, phụ trách trông coi đại chúng lên điện, xem xét tình hình các thầy ở bên ngoài nhà tăng có tuân thủ giới luật thanh quy của chùa hay không, nếu có người vi phạm, tùy lúc, tùy trường hợp để sửa sai, uốn nắn, nếu sự việc nghiêm trọng phải đem đến khách đường để chiếu theo điều lệ của quy chế giới luật mà xử phạt. Ban đêm, sau khi mọi người ngủ yên, phải đi tuần soát các nơi từ trước chùa ra đến sau chùa.
(7) Phó tự: Xưa gọi là khố đầu (người giữ kho), hay còn gọi là quỹ đầu (người thủ quỹ), tài miên (người giữ tiền của vật hạng)… là người giúp sức cho giám viện làm công việc của chùa.
(8) Tri khách: Còn gọi là điển khách, chỉ nhân viên tiếp đãi, nghinh đón khách, phụ trách công tác tiếp đón tăng tục đến chùa thăm viếng.
(9) Y bát: Phụ trách việc quản lý y bát của trú trì tự viện, cúng dường, dâng hương lễ kính… tất cả pháp vật một cách trang nghiêm.
(10) Thư ký: Người viết các loại văn thư của chùa, gồm sớ điệp, văn cúng, sớ cầu đảo, thư tín, thư thăm hỏi… tất cả đều do thư ký soạn thảo.
(11) Tri tàng: Là tăng nhân tinh thông các học thuyết về giáo nghĩa Phật giáo, phụ trách công tác quản lý thư tịch Tam tạng kinh, luận, luật.
(12) Tri dục: Người quản lý phòng tắm. Trước phòng tắm, treo biển chỉ dẫn: Mùa đông năm ngày tắm một lần, mùa hè mỗi ngày tắm một lần. Phụ trách nhà tắm sạch sẽ, đưa ra các vật dụng như khăn tắm, chậu rửa mặt, rửa tay, dép lê và khăn chùi chân.
(13) Tri điện: Lo coi sóc các điện đường trong chùa sạch sẽ, vệ sinh, lau sạch bàn ghế, lo hương đèn, dầu thắp...
(14) Điển tòa: Nắm giữ việc cơm cháo chay tịnh cho đại chúng trong cả chùa.
(15) Liêu nguyên: Phụ trách kinh văn, phân phối những nhu cầu tạp vật như trà nước, than củi cho các liêu khẩu.
(16) Viên chủ: Chỉ huy tăng chúng trồng các loại rau củ, cây ăn quả… chuyên tâm chăm sóc, vun bón để cung cấp cho tăng chúng, không để thiếu hụt.
(17) Trang chủ: Phụ trách việc coi sóc ruộng đất, trang trại, đốc thúc việc trồng trọt đúng thời vụ, thu giữ tiền thuế, sửa sang nông trại, an ủi, khích lệ người trông cấy.
(18) Thủy đầu: Nấu nước sôi, nước tắm cho trai chúng trong chùa.
(19) Hóa chủ: Lo việc ra ngoài xã hội tìm thí chủ hóa duyên15 để cung cấp tiền của xây dựng, sửa chửa điện đường của nhà chùa, mua sắm thêm pháp khí để bài trí các bàn thờ Phật trong chùa.
15. Hóa duyên 化緣: Phật cho rằng người thường bố thí trai tăng tức là có duyên với Phật môn, tăng nhân lấy việc thí chủ bố thí tài thực để kết duyên lành, nên gọi là hóa duyên. Hoặc có thể chỉ vì Phật sự mà tiến hành tất cả các hoạt động cúng dường khác, không chỉ khất thực. Nghĩa gốc của từ hóa duyên là Phật, Bồ Tát, cao tăng thị hiện giáo hóa nhân duyên của chúng sinh, nên gọi là hóa duyên, cũng còn chỉ hóa độ nhân duyên.
(20) Tịnh đầu: Công việc chủ yếu là quét dọn sân nhà, thắp hương; tẩy rửa nhà vệ sinh, lo nước nôi đầy đủ cho chúng tăng.
(21) Diên thọ đường chủ: Phụ trách chẩn bệnh tăng chúng, cung cấp các dụng phẩm như thuốc men, than củi, cháo ăn, đèn sáp, dầu hương…
III. Bốn liêu khẩu lớn
Trú trì trở xuống, lập ra bốn liêu khẩu lớn (gọi là bộ môn).
(1) Khố phòng: Quản lý chung tất cả vật tư của sinh hoạt đại chúng trong chùa viện, bảo dưỡng và sửa chửa điện đường, nhà phụ và các phòng ốc khác; mua sắm thêm thiết bị các loại để trang trí, việc này do đô giám, giám viện, phó tự, khố đầu phụ trách phân công.
(2) Khách đường: Chủ yếu chấp hành những việc đi lại hoặc xin nghỉ của tăng chúng ở chùa, giải quyết việc ngủ trọ qua đêm của tăng nhân đi thăm viếng chùa và ghi tên những tăng nhân mới đến chùa xin ở lại trọ học, sắp xếp việc đăng ký Phật sự của tín chúng và tiếp đón tân khách đến thăm viếng. Nói chung, căn cứ nhiệm vụ trường sở của nhà chùa nhiều hay ít để sắp xếp tiếp đãi tân khách đông hay ít mà phân ra bảng kê thứ nhất, bảng kê thứ hai, bảng kê thứ ba…
(3) Duy na liêu: Quản lý việc hành trì, tĩnh tọa, niệm Phật ở nội đường, chấp hành nghi thức thượng điện, tụng niệm sớm chiều, coi sóc thời gian lao động và nghỉ ngơi, cung ứng trà nước, đánh chuông dừng tham thiền, những việc này do duy na, duyệt chúng, hương đăng chia nhau phụ trách.
(4) Y bát liêu: Phụ trách lo liệu y bát, thuốc thang, cúng dường, hương lễ của trú trì và những cúng phẩm trên pháp đường cùng những pháp vật trang nghiêm trước Phật, Bồ Tát trong chùa. Những việc này người phụ trách y bát, thang dược phân công đảm nhiệm.
Nhưng, vào năm 1949, tức sau khi nhà nước Trung Quốc thành lập, (nhất là sau cuộc cải cách khai phóng), giáo đồ Phật giáo Trung Quốc đã phát sinh những biến đổi to lớn, đặc biệt là tại các chùa viện trong thành phố. Vấn đề ăn, mặc của đại chúng trong tăng đoàn cộng với hoàn cảnh bên ngoài đã xuất hiện cục diện chưa từng có, mô thức quản lý truyền thống dần tỏ lộ khó khăn, lúng túng, không thể phù hợp với tình hình hiện tại. Vì thế, mấy chục năm gần đây, việc quản lý chùa viện ở thành phố theo truyền thống vốn có và chức năng của bộ phận chức việc đã có những lời giải thích mới. Ví như yêu cầu của việc tiếp đãi tân khách “Tri khách” trong “Quy ước hoằng pháp” của một ngôi chùa là: “Tăng tục giàu nghèo, địa vị cao thấp, thân sơ xa gần, không ngã mạn, không phân biệt, áp dụng bình đẳng để sống nơi cửa Phật. Hỏi khách nhẹ nhàng, dịu dàng dò ý, bưng trà dâng trái, động tác nhẹ nhàng. Khách yêu cầu thì phải tận tình đáp ứng, giới thiệu tình hình, kiên nhẫn chu đáo”.
Hoặc như đối với người phụ trách thuốc thang, cần: “Lấy tùng lâm làm nơi chữa bệnh, dưỡng già, giăng màn lập phòng khám, ủy lạo hành giả, quét dọn sạch sẽ, bệnh nặng đưa vào nhà lớn, sắp xếp người luân phiên chăm sóc, lúc lâm chung, cần tụng kinh niệm Phật tống tiễn, thay áo quần tinh sạch, hỏa thiêu xong nhập tháp, khiến cho thân khổ ở đời được sinh nơi lạc quốc”.
Cách giải thích như vậy vừa duy trì nội dung, ý nghĩa của truyền thống, vừa dung hợp được tư tưởng hiện đại, tương đối phù hợp với yêu cầu thực tế. Đồng thời, trong thể chế quản lý truyền thống được bổ sung nội dung quản lý của thời hiện đại, tạo nên thể chế quản lý chùa viện mới - cũ kết hợp. Như mô thức quản lý của một chùa viện ở phương nam:
Còn có mô thức quản lý theo mô hình mới của một ngôi chùa ở vùng đông nam duyên hải cũng cùng mô thức tương tự như trên, cơ bản giống nhiều khác ít, nhưng khác biệt chủ yếu là quy mô tự viện và nhân số tăng chúng, còn thể cách khác thì đại thể thống nhất.
IV. Bổ nhiệm - Miễn chức và các điều khác
Thối chức: Tùng lâm các nơi quy định, hàng năm vào ngày 8 tháng Giêng và ngày 8 tháng Bảy âm lịch là thời gian thối chức, phàm hàng chức sắc của tăng nhân trong tự viện từ chức thư ký trở lên, bất kể làm chức việc giỏi hay kém, đồng loạt đắp y trì tọa cụ, lúc tụng niệm kinh chiều về nhà chính thì cùng nhau đến phòng phương trượng, đảnh lễ hòa thượng trú trì phương trượng, tiến hành nghi thức thối chức. Đồng thời, các hàng chức khác đảm nhiệm chức từ thư ký trở xuống cũng đắp y trì bát cùng nhau đến khách đường và đảnh lễ sư tri khách, tiến hành nghi thức thối chức.
Thỉnh chức: Sau khi thối chức, trú trì chuyển lời thỉnh cầu tới người đứng đầu chức sự hai ban cùng thương lượng sắp xếp nhân sự mới, đưa ra quyết định xong, kê khai danh sách chức việc rồi thông báo cho khách đường, treo bảng công bố cho mọi người, ba ngày sau chấp hành.
Viên chức: Hàng năm, ngày 13 tháng Giêng, ngày 13 tháng Bảy âm lịch là thời kỳ nhậm chức. Chức sự xưng chức tiếp tục phát tâm nhậm chức, hoặc xin chức mới thì do trú trì kê rõ danh sách, bấy giờ mời họ đến phòng của phương trượng “viên chức trà” uống trà nhậm chức, biểu thị là viên chức của tự viện. Phàm từ chức sự thư ký trở xuống, nếu họ còn tiếp tục nhậm chức thì cũng do tri khách mời đến khách đường thực hiện việc thể hiện tương tự như viên chức.
Nếu vì thực hiện chức sự không tốt, hay vì người chưa từng kinh qua viên chức, thì sau khi đem chức cũ chuyển giao chức mới, trú trì đích thân đưa đến liêu phòng của bổn chùa, nhưng vẫn cúng dường cho họ đầy đủ chuyện ăn uống, thuốc men, giường ngủ, không được thiếu sót. Còn nếu có người từ một đến ba năm, nửa đường xin nghỉ, sau đó trở lại chùa tu tập, thì được tiếp tục ở tại liêu phòng và được đãi ngộ cúng dường đầy đủ tứ sự, không cần phải đến khách đường làm đơn xin tái nhập, trú trì cũng không thể mượn cớ để không cho ở lại chùa.
Chế độ thập phương tùng lâm là chế độ công hữu tăng lữ trong chùa viện. Nếu tăng nhân nhậm chức trong thời gian dài mà có thành tích xuất sắc, thì do trú trì đề xuất tên họ, thông qua chức sắc lãnh đạo của hai ban đông tây chọn làm người thọ ký tiếp pháp của bổn chùa, hoặc đề cử đến tiếp pháp ở một ngôi chùa khác để động viên, khích lệ.
Xuân kỳ, đông kỳ: Căn cứ quy chế của tùng lâm, hàng năm từ ngày 16 tháng Giêng đến ngày 15 tháng Bảy âm lịch gọi là xuân kỳ; từ ngày 16 tháng Bảy đến ngày 15 tháng Giêng âm lịch năm sau là đông kỳ. Tăng nhân dự học mới đến tự viện, nếu ở lại theo học lâu dài thì cuối mỗi kỳ có thể viết đơn xin rời chùa, nhưng chưa xong một kỳ mà nửa chừng người học tự động rời chùa thì bị đem ra xét xử về tội trốn chùa.
Phóng hương kỳ: Là ngày nghỉ thường lệ của tự viện, vào các ngày 8, 14, 23, 30 (tháng thiếu là ngày 29) trong mỗi tháng âm lịch, tự viện nghỉ tọa thiền, niệm Phật, để đại chúng tự giải quyết sinh hoạt riêng tư như cạo tóc, giặt áo, may vá, tắm gội…
Phổ thỉnh: Còn có tên là xuất pha, là một nề nếp nhất quán xưa nay của nhà Phật, tức chỉ việc đại chúng tham gia lao động tập thể trong và ngoài tự viện, như chở củi, gánh nước, hái chè, cấy lúa… Thông thường do khố ty bẩm báo với trú trì trước, sau đó chuyển lời xuống thủ tòa, duy na, rồi dặn bảo đường ty nói lại cho đại chúng biết và “treo bảng thông báo” (gọi là phổ thỉnh bài, tức bảng kêu gọi mọi người cùng hợp lực lao động). Trên bảng dán một miếng giấy nhỏ, ghi rõ thời gian, địa điểm lao động; hoặc có thể đánh mộc ngư, hoặc đánh trống tập hợp đại chúng cùng xuất phát, trừ người giữ chùa và người bị bệnh, toàn thể tăng chúng đều phải tham gia.
Nếu gặp trường hợp đặc biệt cần nhờ người trong đường nội giúp đỡ, thì tăng trị thông báo cho sư duyệt chúng ở đông tự sai phái là xong.