H
arry bị đánh thức bởi âm thanh của bốn tiếng chuông. Anh nhổm dậy, cụng đầu lên trần, vội vàng mặc quần áo, lao ra hành lang, phi một mạch lên cầu thang, chạy vội qua mặt boong và hối hả lao lên các bậc thang tới đài chỉ huy.
“Xin lỗi tôi đến muộn, thưa ông, chắc là tôi đã ngủ quá giờ”.
“Cậu không phải gọi tôi là ông khi chỉ có mình chúng ta”, Bradshaw nói, “và tên tôi là Tom. Và thực tế là cậu đến sớm cả nửa tiếng. Ông thuyền trưởng hẳn đã quên cho cậu hay có bảy tiếng chuông báo ca trực ăn sáng, và bốn tiếng chuông cho ca trực lúc sáu giờ. Nhưng vì cậu đã ở đây rồi, sao không cầm lấy bánh lái trong lúc tôi đi vệ sinh một lát”. Harry choáng váng nhận ra Bradshaw không hề đùa. “Chỉ cần đảm bảo kim la bàn luôn chỉ hướng nam - tây nam, như thế cậu chẳng thể chệch hướng xa được”, anh ta nói thêm, thổ âm Mỹ nghe càng rõ hơn.
Harry dùng cả hai bàn tay nắm lấy bánh lái và chăm chú nhìn mũi tên nhỏ màu đen trong lúc anh cố giữ cho con tàu vượt qua các con sóng theo một đường thẳng. Khi anh ngoái lại đằng sau, Harry nhận thấy đường thẳng tắp gọn ghẽ mà Bradshaw đã đạt được một cách có vẻ rất nhàn nhã đã biến thành một thứ đường cong gợi cho người ta nhớ tới Mae West(67) nhiều hơn. Dù Bradshaw mới rời đi có vài phút, Harry hiếm có lúc nào lại cảm thấy phấn khởi khi nhìn thấy ai đó trở lại đến thế.
67. Nữ diễn viên người Mỹ nổi tiếng thời đó, ở đây ám chỉ Harry lái con tàu chạy ngoằn ngoèo theo đường cong.
Bradshaw đón lấy bánh lái và dải đường thẳng không chút gián đoạn nhanh chóng xuất hiện trở lại, cho dù anh ta chỉ để có một tay lên bánh lái.
“Hãy nhớ, cậu đang đối xử với một quý bà”, Bradshaw nói. “Cậu không được ghì chặt lấy cô nàng, mà cần dịu dàng vuốt ve. Nếu cậu có thể làm được thế, cô nàng sẽ tiến theo một đường thẳng tắp. Giờ hãy thử lại xem, trong lúc tôi ghi lại vị trí lúc vang lên bảy tiếng chuông của chúng ta lên hải trình hàng ngày”.
Khi một tiếng chuông vang lên hai mươi lăm phút sau và ông thuyền trưởng xuất hiện trên đài chỉ huy để thay ca cho Bradshaw, lộ trình của con tàu do Harry vạch ra trên đại dương có thể chưa hoàn toàn thẳng hẳn, song ít nhất nó không còn có vẻ như con tàu đang do một gã thủy thủ say khướt cầm lái nữa.
*
* *
Trong bữa sáng, Harry được giới thiệu với một người chỉ có thể là thợ máy chính.
Nước da nhợt nhạt như ma của Jim Patterson khiến ông ta trông có vẻ như đã trải qua phần lớn cuộc đời dưới hầm tàu, và cái bụng của ông ta khiến người ta nghĩ ông thợ máy đã dành cả phần đời còn lại chỉ để ăn. Không giống như Bradshaw, ông ta không lúc nào ngừng nói, và Harry nhanh chóng thấy rõ ông ta và ông thuyền trưởng là bạn lâu năm.
Anh chàng người Hoa xuất hiện mang ba chiếc đĩa đáng ra cần phải sạch hơn. Harry tránh món thịt muối đầy mỡ cùng khoai tây rán và dành sự ưu ái cho miếng bánh mì nướng cháy xém và một quả táo.
“Sao cậu không dành nốt buổi sáng đi tìm hiểu quanh con tàu nhỉ, cậu Clifton”, ông thuyền trưởng gợi ý sau khi những chiếc đĩa đã được mang đi. “Thậm chí cậu có thể tới chỗ ông Patterson dưới buồng máy và thử xem cậu có thể sống sót được dưới đó bao nhiêu phút”. Patterson bật cười, vớ lấy hai miếng bánh mì nướng cuối cùng và nói, “Nếu cậu nghĩ thứ này đã bị cháy, hãy đợi cho tới khi cậu ở cạnh tôi vài phút nhé”.
*
* *
Giống như một chú mèo được bỏ lại một mình trong ngôi nhà mới, Harry bắt đầu lang thang quanh con tàu trong lúc anh cố làm quen với vương quốc mới của mình.
Anh biết con tàu này dài 475 foot(68) với chiều rộng thân 56 foot(69), và tốc độ tối đa của nó là mười lăm hải lý một giờ, nhưng anh không thể ngờ được là có nhiều ngóc ngách xó xỉnh đến thế, cho dù chắc chắn là chúng phải phục vụ một mục đích nào đó mà anh sẽ biết dần theo thời gian. Harry cũng nhận thấy không có phần nào trên boong tàu mà thuyền trưởng không thể để mắt đến từ trên đài chỉ huy, vì thế không có chốn ẩn thân nào cho một anh chàng thủy thủ lười biếng.
68. 144,8 m
69. 17 m
Harry theo cầu thang sắt đi xuống boong giữa. Phần cuối là nơi bố trí khu buồng ngủ của sĩ quan, phần giữa là bếp, và phần trước là một khu vực mở rất rộng có mắc võng treo. Làm thế nào để ai đó có thể ngủ được trên một trong những chiếc võng này nằm ngoài khả năng hình dung của anh. Sau đó anh nhìn thấy sáu thủy thủ, những người hẳn đã hết ca trực, lúc này đang nhẹ nhàng đu đưa từ bên này qua bên kia theo nhịp dao động của con tàu và ngủ một cách say sưa.
Một cầu thang sắt hẹp dẫn xuống tầng boong dưới, nơi có các thùng gỗ chứa 144 chiếc xe đạp Raleigh, một nghìn bộ đồ bằng vải bông và hai tấn khoai tây, tất cả đều được chằng buộc an toàn, và sẽ không được mở ra cho tới khi tàu cập cảng tại Cuba.
Cuối cùng, anh bước xuống một cầu thang hẹp dẫn tới buồng nồi hơi và là lãnh địa của ông Patterson. Anh đẩy cánh cửa kim loại nặng nề mở ra và, giống như Shadrach, Meshach và Abednego(70), bạo dạn bước vào lò lửa hừng hực bên trong. Anh đứng đó, quan sát trong khi sáu người thợ đốt lò, những người đàn ông cơ bắp vạm vỡ, áo trên người nhem nhuốc bụi đen, lưng nhễ nhại mồ hôi túa thành dòng, dùng xẻng xúc than đá trút vào hai cái miệng luôn há ngoác cần phải được cho ăn hơn bốn bữa một ngày.
70. Ba thanh niên nhiệt tâm tin Chúa và được cứu thoát nhờ phép màu khi bị thiêu sống trong một cái lò (Kinh Thánh, sách Daniel).
Như thuyền trưởng Havens đã tiên đoán, chỉ vài phút sau Harry đã phải lảo đảo chạy trở lại hành lang, mồ hôi nhễ nhại, miệng há hốc lấy hơi. Phải một lúc sau anh mới hồi lại đủ để có thể leo lên mặt boong, tại đó chàng thanh niên quỳ sụp xuống hai đầu gối và hít lấy hít để không khí trong lành. Anh chỉ có thể tự hỏi làm thế nào những người kia có thể sống sót được trong những điều kiện như thế và phải thực hiện hai ca làm việc dài hai giờ mỗi ngày, suốt cả bảy ngày trong tuần.
Sau khi Harry đã hồi phục, anh quay lên đài chỉ huy, mang theo cả trăm câu hỏi, từ chuyện ngôi sao nào trong chòm sao Đại Hùng Tinh chỉ tới Sao Bắc Đẩu, cho tới chuyện con tàu này có thể vượt qua được trung bình bao nhiêu hải lý mỗi ngày, hay cần bao nhiêu tấn than để... Ông thuyền trưởng vui vẻ trả lời tất cả, không một lần tỏ ra ngán ngẩm trước cơn khát kiến thức không thể thỏa mãn của anh chàng sĩ quan thứ tư trẻ tuổi. Kỳ thực, thuyền trưởng Havens đã nhận xét với ông Bradshaw trong quãng thời gian nghỉ của Harry rằng, điều khiến ông ấn tượng nhất về chàng thanh niên là anh không bao giờ hỏi một câu hỏi đến lần thứ hai.
*
* *
Trong mấy ngày tiếp theo, Harry học cách kiểm tra đối chiếu la bàn với đường hải trình bằng nét đứt trên hải đồ, cách xác định hướng gió nhờ quan sát những con hải âu, và cách lái tàu vượt qua một con sóng cồn mà vẫn giữ được đúng hướng. Đến cuối tuần đầu tiên, anh đã được phép cầm lái mỗi khi có một sĩ quan nghỉ dùng bữa. Vào ban đêm, ông thuyền trưởng dạy anh tên của các vì sao, những vật mốc chỉ đường cũng đáng tin cậy không kém gì la bàn, nhưng ông cũng thừa nhận kinh nghiệm của bản thân chỉ giới hạn ở bán cầu bắc, vì chiếc Devonian chưa bao giờ vượt qua xích đạo trong suốt hai mươi sáu năm lênh đênh trên biển cả của nó.
Sau mười ngày trên biển, ông thuyền trưởng gần như hy vọng có một cơn bão xuất hiện, không chỉ để chấm dứt chuỗi vô tận những câu hỏi mà còn để xem liệu có điều gì có thể khiến cậu thanh niên này cụt hứng. Jim Patterson đã cho ông hay rằng cậu Clifton đã trụ được cả một giờ trong buồng nồi hơi sáng hôm đó và hạ quyết tâm trụ lại được trọn một ca làm việc trước khi họ cập bến tại Cuba.
“Ít nhất dưới đó ông cũng không phải chịu những câu hỏi liên tu bất tận của cậu ta”, ông thuyền trưởng bình luận.
“Tuần này thôi”, người thợ máy chính đáp.
Thuyền trưởng Havens tự hỏi đếń lúc nào tới lượt ông học được một điều gì đó từ anh chàng sĩ quan thứ tư này hay không. Việc này xảy ra vào ngày thứ mười hai của chuyến đi, ngay sau khi Harry hoàn tất ca làm việc hai giờ đầu tiên của anh dưới buồng nồi hơi.
“Ông có biết ông Patterson sưu tập tem không, thưa thuyền trưởng?” Harry hỏi.
“Có, tôi có biết”, ông thuyền trưởng tự tin trả lời.
“Và bộ sưu tập của ông ấy bây giờ đã vượt quá con số bốn nghìn, bao gồm một con tem một penny màu đen không dập lỗ viền và một con tem hình tam giác của Nam Phi vẽ hình mũi Hảo Vọng?”
“Có, tôi biết”, ông thuyền trưởng lặp lại.
“Và bộ sưu tập đó giờ đây có giá trị còn lớn hơn ngôi nhà của ông ấy ở Mablethorpe?”
“Khỉ thật, đó chỉ là một căn nhà nhỏ thôi”, ông thuyền trưởng nói, cố gắng giữ bình tĩnh, và trước khi Harry kịp đưa ra câu hỏi tiếp theo, ông nói thêm, “Tôi sẽ thấy hứng thú hơn nhiều nếu cậu có thể tìm hiểu về Tom Bradshaw nhiều thông tin hơn so với những gì cậu đã moi ra được về thợ máy chính của tôi. Bởi vì, thành thực mà nói, Harry, tôi biết về cậu sau mười hai ngày còn nhiều hơn những gì tôi biết về sĩ quan thứ ba của tôi sau ba năm, và cho tới bây giờ, tôi chưa bao giờ nghĩ người Mỹ là một dân tộc kín tiếng”.
Càng nghĩ về nhận xét của ông thuyền trưởng, Harry càng nhận ra anh biết về Tom ít đến thế nào, bất chấp việc đã cùng trải qua nhiều giờ với anh ta trên đài chỉ huy. Anh không biết anh ta có anh em trai hay chị em gái hay không, bố anh ta làm nghề gì, bố mẹ anh ta sống ở đâu, hay liệu anh ta có bạn gái không. Và chỉ có thổ âm của anh ta để lộ ra rằng đó là một người Mỹ, Harry không biết anh ta đến từ thành phố nào, hay thậm chí tiểu bang nào.
Bảy tiếng chuông vang lên. “Cậu có thể cầm lấy bánh lái được không, cậu Clifton”, ông thuyền trưởng nói, “trong khi tôi cùng ông Patterson và ông Bradshaw ăn tối? Đừng do dự báo cho tôi biết nếu cậu phát hiện thấy bất cứ điều gì”, ông nói thêm trước khi rời đài chỉ huy, “nhất là nếu nó lớn hơn chúng ta”.
“Rõ, thưa thuyền trưởng”, Harry nói, thích thú vì được giao quyền điều khiển con tàu, cho dù chỉ trong bốn mươi phút, cho dù bốn mươi phút đó đang được kéo dài ra thêm sau mỗi ngày.
*
* *
Khi Harry hỏi ông xem còn bao nhiêu ngày nữa trước thì họ tới được Cuba, Thuyền trưởng Havens hiểu ra cậu thanh niên sớm trưởng thành này đã cảm thấy chán. Ông bắt đầu cảm thấy ái ngại cho hạm trưởng của chiến hạm Resolution, người không hề biết ông ta đã để mình dính phải chuyện gì.
Harry gần đây đã đảm nhiệm phụ trách bánh lái sau bữa tối để các sĩ quan khác có thể nhâm nhi vài ly gin trước khi trở lại đài chỉ huy. Và mỗi khi anh chàng người Hoa mang trà đến cho Harry, nó luôn nóng hổi, với một viên đường đúng như yêu cầu.
Ông Patterson từng nói với thuyền trưởng vào một buổi tối là nếu cậu Clifton có quyết định giành lấy quyền chỉ huy con tàu trước khi họ quay về Bristol, ông ta sẽ không dám chắc mình ngả về bên nào.
“Và ông đang nghĩ tới chuyện kích động một cuộc nổi loạn sao Jim?” Havens hỏi trong lúc rót cho người thợ máy chính của ông một ly gin.
“Không, nhưng tôi phải cảnh báo trước với ông, thuyền trưởng, là anh chàng trẻ tuổi kia đã sắp xếp lại các ca làm việc dưới buồng nồi hơi rồi đấy. Vì thế tôi biết các cậu dưới quyền tôi sẽ ngả về bên nào”.
“Vậy thì điều tối thiểu chúng ta có thể làm”, Havens nói, đồng thời tự rót cho mình một ly gin, “là yêu cầu sĩ quan phụ trách cờ tín hiệu gửi thông báo tới chiến hạm Resolution, cảnh báo cho họ biết họ phải đối phó với kiểu người nào”.
“Nhưng chúng ta đâu có sĩ quan phụ trách cờ tín hiệu”, Patterson nói.
“Vậy thì chúng ta cần phải xích cậu ta lại”, ông thuyền trưởng nói.
“Ý tưởng hay đấy, thuyền trưởng. Tiếc thay là chúng ta không có xiềng”.
“Càng đáng tiếc hơn nữa. Hãy nhắc tôi kiếm lấy vài bộ ngay khi chúng ta quay trở lại Bristol.”
“Nhưng dường như ông đã quên mất là Clifton sẽ rời chúng ta lên chiến hạm Resolution ngay khi chúng ta cập bến”, Patterson nói.
Ông thuyền trưởng uống một ngụm lớn gin trước khi lặp lại, “Càng đáng tiếc hơn nữa”.