Một buổi chiều, Thái ngồi ru con nhìn ra cửa vắng, nắng miền Trung gắt gao nướng cho cát thành màu trắng đục, gió biển hắt hiu rót vào chiều thu những hạt mặn của đại dương, khiến da thịt lúc nào cũng như ướp muối.
Bé Sơn - niềm hạnh phúc lớn lao của vợ chồng Thái đang nhắm nghiền đôi mắt hiu hiu ngủ. Thái nhìn kỹ thấy một chiếc lông mi con bị gãy, tiện tay lấy chiếc nhíp gỡ bằng được chiếc lông gãy, rồi lại soi từng mi-li-mét trên khuôn mặt, thân thể con, cả đến những móng chân, móng tay xem có gì sơ sẩy, ở một chiếc ngón út chân phải có một vết da xước nhẹ, cô lấy chai dầu gió xức cho con.
Hết nhìn gần rồi lại nhìn xa, Thái bỗng có một liên tưởng đến bức tranh mình đã thấy ở đâu đó chụp đứa trẻ như một thiên thần nằm ngủ và được đắp bởi chiếc áo quân phục màu xanh Tô Châu, ve áo đỏ rực đôi quân hàm binh nhất. Bức tranh quá đẹp và ý nghĩa biết nhường nào. Đang say sưa trong niềm hạnh phúc, thì Thái nhận được thư chồng ở chiến trường gửi về.
Thư Quân thông báo và bàn đến việc sẽ chuyển Thái về Sài Gòn công tác và sinh sống. Khỏi phải bàn, Thái rời Hà Tây quê lụa, bên dòng sông Đáy mộng mơ, rời chợ Chuông nhộn nhịp ra đi không phải là để định cư ở xứ sở cát nóng cháy bỏng này. Mục tiêu của Thái, mơ ước của Thái là “tiến về Sài Gòn, ta quét sạch đói nghèo” và thời cơ đã đến.
Suốt từ lúc nhận thư chồng lòng Thái chộn rộn đến khó tả, lúc thì vui, lúc cũng chợt buồn, rồi dần dần cũng hoạch định cho mình một kế hoạch.
Sau chiến thắng ngày 7-1-1979 của cách mạng Cam-pu-chia, để thuận lợi cho việc chỉ đạo tác chiến, Bộ Quốc phòng thành lập các mặt trận trên chiến trường nước bạn. Mặt trận 479 trực thuộc Bộ, Mặt trận 579 trực thuộc Quân khu 5, Mặt trận 779 trực thuộc Quân khu 7, Mặt trận 979 trực thuộc Quân khu 9. Trung đoàn của Quân nằm trong đội hình của Sư đoàn được trên điều động về trực thuộc Mặt trận 479.
Mặt trận 479 đảm nhiệm các tỉnh miền bắc Cam-pu-chia giáp biên giới Thái Lan. Địa bàn được coi là trọng yếu, hiểm trở và ác liệt nhất.
Mặt trận có hậu cứ phía sau là Đoàn 583 đóng quân ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đoàn thành lập tháng 5 năm 1983, có nhiệm vụ như một đơn vị đầu mối tương đương cấp Trung đoàn, để giải quyết mọi chế độ chính sách cho quân nhân thuộc Mặt trận 479. Bộ đội khi nghỉ phép, xuất ngũ, an dưỡng, chuyển ngành, thương bệnh binh... đều về đây để chờ giải quyết. Đoàn 583 còn là chiếc cầu nối giữa các đơn vị thuộc Mặt trận 479 với các cơ quan quân khu, Bộ Quốc phòng và các cơ quan dân chính Đảng có liên quan.
Cũng từ đây cán bộ, chiến sĩ đơn vị của Quân thường xuyên qua lại Thành phố Hồ Chí Minh, căn cứ của trung đoàn ở Tây Nguyên không còn phù hợp nữa. Tình thế mở ra “hậu cứ” của Quân cũng phải di chuyển theo tình hình nhiệm vụ đơn vị.
Câu ngạn ngữ “Thuyền theo lái, gái theo chồng” của người Việt có lẽ đúng trong mọi trường hợp. Cũng chính vì vậy mà phụ nữ Việt không mấy đắn đo khi chồng quyết định cho vợ đi theo. Thái sẵn sàng giũ bỏ tất cả để theo chồng, dù nơi ấy có khó khăn, gian khổ, hay hạnh phúc sung sướng cũng không cần phải cân nhắc kỹ, miễn là được bên chồng, gần chồng hơn.
Mùa thu năm 1982, vào một ngày nắng đẹp, vợ chồng Thái cất bước lên đường vào định cư ở Thành phố Hồ Chí Minh. Hôm ấy, trước khi bế con lên xe, Thái bần thần quay lại nhìn mảnh đất Phù Cát một lần nữa, mảnh đất cằn đã đơm hoa tình yêu và kết trái hạnh phúc. Mảnh đất đã để lại trong Thái biết bao kỷ niệm buồn vui. Thái cúi xuống rưng rưng lòng nhìn cây lá giang gốc chôn dưới cát, ngọn mảnh mai vươn lên leo trên bờ dậu hàng rào thép gai nghĩ thân phận người con gái mình như cái bèo xa đâu ấm đấy. Cũng có lúc ngẩn ngơ tiếc nuối mấy năm công tác ở trường, một chỗ đứng nhiều người mơ không được. Nhưng cứ nghĩ đến gần chồng hơn; nghĩ đến “Hòn ngọc Viễn Đông” mà Thái sắp định cư thì tất cả đều mau chóng lùi thành dĩ vãng.
Vợ chồng Thái chất lên xe mấy thứ tiện nghi sinh hoạt và không quên chiếc giường cưới gỗ tạp làm kỷ niệm. Thái trở thành vợ, trở thành đàn bà và trở thành người mẹ cũng từ chiếc giường gỗ tạp này đây.
Chị Ràng và anh chị em trong trường ra đưa tiễn. Trong cái nắng ban mai, đồng nghiệp túm tụm, kẻ cười, người vẫy cứ xa dần, xa dần. Đó là hình ảnh một tập thể nhỏ bé quây tụm bên nhau trong những ngày đầu gian khó. Đói nghèo thật, nhưng tình người lại chẳng nghèo chút nào.
- Đi nhé! Đi nhé!
- Thái ơi! Đi nhé! Nhớ gửi thư về nhé?
Thế rồi động cát trắng Phù Cát cũng xa lắc xa lư; hình ảnh cái chợ mòn bên đường cũng chìm dần, ngôi trường mọc trên cát cũng lặn vào trong ký ức. Khu Năm dằng dặc khúc ruột miền Trung lùi lại phía sau. Và trước mặt Thái, Thành phố Hồ Chí Minh tráng lệ nguy nga đã hiện ra. Con ơi! Đây là nơi mà sau này cuộc đời con sẽ trưởng thành, lớn lên và lập nghiệp. Và đây cũng là nơi con rồng về với biển lớn. Cha mẹ sẽ đón ông, đón bà vào đây với con để cha mẹ phụng dưỡng.
* * *
Thái được nhận vào làm văn thư của Đoàn 583. Công việc không vất vả lắm, nhưng eo hẹp thời gian, bởi đây là đơn vị quân đội, hơn nữa văn thư là cơ quan phục vụ, đến giờ phải có mặt, hết giờ mới được nghỉ.
Công việc của tổ văn thư là đánh máy, xin chữ ký, đóng dấu, chuyển công văn giấy tờ... tất cả đều làm chung, người này làm việc này, thì người khác làm việc khác. Điều quan trọng nhất là phải lưu giữ bảo mật giấy tờ, công văn và con dấu. Hàng ngày thường phải có mặt ở cơ quan đúng giờ làm việc, nhưng hết giờ có khi chưa được nghỉ. Nhiều khi ngoài giờ làm việc, nhưng cán bộ cần đóng dấu cũng phải phục vụ.
Là đơn vị giải quyết chế độ chính sách cho mặt trận đang tác chiến ở chiến trường Cam-pu-chia, nên công việc khá bận. Đối tượng Thái phải tiếp xúc hầu hết là cán bộ, bộ đội, thương bệnh binh vừa từ chiến trường về. Cũng có người mềm mỏng, khiêm tốn, nhưng cũng không hiếm người công thần địa vị, tính tình nóng nảy. Không khéo là đốp chát, văng nọ văng kia ra ngay. Vì vậy mà việc rèn luyện cho mình một thái độ phục vụ thấu hiểu, nhẫn nhịn, vì mọi người rất cần thiết.
Hầu hết cán bộ, nhân viên và gia đình đang công tác ở Đoàn 583 được bố trí sắp xếp nơi ở. Mẹ con Thái được Đoàn xếp cho một căn phòng nhỏ ở khu tập thể của đơn vị. Những người vợ miền Bắc có chồng đang chiến đấu ở chiến trường Cam-pu-chia ở khu tập thể này khá đông. Hầu hết các chị lấy chồng lâu rồi, nhưng vì chồng xa vắng nên chưa có con, hoặc một hai đứa con như Thái nhưng làm ruộng vất vả. Số còn lại có vợ chồng đang công tác tại Đoàn hoặc trong Quân khu 7 và cơ quan dân chính. Mọi người sống với nhau thành một làng quân đội, có nếp sống, chế độ và quy tắc riêng của quân đội ít phụ thuộc vào chính quyền địa phương.
Hàng ngày, hàng tuần những chuyến xe, những chuyến máy bay đưa thương binh, tử sĩ từ chiến trường về Đoàn. Thi thoảng lại có tin anh này, chồng chị kia đã hy sinh, hoặc bị thương. Không khí chiến trường tại Đoàn vẫn hừng hực khác hẳn với không khí Thành phố Hồ Chí Minh đô hội.
Các thương, bệnh binh khi điều trị tạm ổn không đủ sức khỏe trở lại chiến trường thì ở lại Đoàn chờ giải quyết chế độ chính sách. Mỗi tháng, mỗi năm số cán bộ, bộ đội chờ giải quyết chế độ tại Đoàn ngày một đông. Không khí nhộn nhịp hẳn lên, đồng thời khối lượng công việc của cơ quan cũng hối hả.
Hai mẹ con Thái đánh vật với công việc để nuôi nhau. Thái thì làm để có tiền nuôi con và trang trải cuộc sống, bé Sơn thì nuôi mẹ bằng đời sống tinh thần. Dù khó nhọc đến mấy, dù thiếu thốn bao nhiêu, nhưng hễ về nhìn thấy con là bao nhiêu nhọc nhằn, khó khăn tiêu tan hết. Người ta có tiền thì mua củi đun, mua bếp dầu nấu, mình không có thì chặt cành cây, quét lá cây mà đun. Bếp bắc tại hiên nhà, mỗi lần nấu được bữa ăn thì nước mắt chan cả nồi cơm.
Một lần tay bế con, tay đun bếp, chổng mông thổi lửa khói mịt mù, anh Kỷ phụ trách đội xe của Đoàn đi qua lại cất tiếng:
- Chào chị Dậu! Chị Dậu khóc à?
- Đâu có, khói đấy ạ.
Ở khu tập thể những cây rau dền gai mọc cao lút đầu người. Một loại dền cây to cao, hoa nhiều, nhưng lá thì ít, người ta thường đốn băm nhỏ để nấu cho heo ăn, nhưng có hôm bí quá, đi làm về muộn, lại hiếm đồng tiền, Thái hái tỉa những chiếc lá non cũng thành nồi canh cho qua bữa.
Thấy Thái bữa nào nấu cơm cũng chan nước mắt, anh Kỷ dừng lại:
- Sao chị Dậu không nấu bếp dầu cho đỡ khói?
Thái dụi mắt nhìn lên:
- Em đâu có bếp dầu.
- Chị Dậu mua cái bếp dầu đi, tôi cho ít dầu mà đun.
Được lời như cởi tấm lòng, Thái chắt chiu mua được cái bếp rẻ tiền. Anh Kỷ mang cho Thái một can dầu 10 lít. Nhưng bếp dầu gì mà còn khói hơn cả đun cành cây bã đậu, bấc thì cứ lụi tàn. Hoá ra can dầu thải của thợ máy. Hôm sau anh Kỷ mang cho can dầu sạch. Được một thời gian cũng chẳng có tiền mua dầu nữa, thế là chiếc bếp coi như hoàn thành nhiệm vụ - “được nghỉ hưu sớm”.
Thời buổi thóc cao gạo kém, đồng lương viên chức không đủ nuôi ngay cả chính mình, nên mọi người tranh thủ ngày nghỉ, giờ nghỉ làm thêm gì đó để kiếm thêm thu nhập. Người thì lượm ve chai, sắt thép; người thì nuôi heo, nuôi cá, nuôi con gà, người trồng thêm vạt rau để cải thiện.
Thái bần thần đứng nhìn cái bể xi măng đã nứt nghĩ, nếu nó không nứt thì có thể nuôi được cá trê phi. Lúc này thành phố đang có phong trào nuôi cá trê phi trúng lắm. Ai có thể tận dụng được gì là nuôi; nuôi ở ao, nuôi ở hồ, nuôi ở bể. Có người còn nuôi cả trên sân thượng, rồi trong những chiếc chum đựng nước. Vậy là cái bể này cũng có thể nuôi được vài trăm cá. Thế là Thái mua xi măng trám chỗ nứt, rồi đổ nước vào nuôi 200 giống cá trê phi. Thái lượm gỗ, sắt quây lại thành chiếc chuồng con nuôi mấy con thỏ. Trong khu tập thể ai có thể nuôi được con gì, trồng được cây gì miễn là hy vọng có thêm thu nhập. Thời gian không đủ cho những người lính Đoàn 583 làm thêm. Ngày nghỉ Thái bế con, mang theo một tấm ni lông ra bãi cây trước khu, chọn chỗ mát trải ni lông cho con ngồi, rồi tranh thủ chặt củi, hái rau dền. Có lần bé Sơn đang ngủ bỗng khóc ré lên, Thái vội ném con dao chạy lại nghi rắn rết, hoá ra các chú kiến vàng định ăn thịt.
Suốt ngày hì hục, hễ đâu có đất là Thái mang cuốc để cuốc đất đào giun cho cá ăn, hy vọng sẽ có được 50 ki-lô-gam cá thịt bán ra thị trường cũng có chút thu nhập.
Cùng phong trào nuôi cá trê phi, thì thành phố rộ lên phong trào nuôi heo. Nuôi heo lúc này cũng trúng nhưng vô cùng vất vả, bởi mình phải tự tạo ra thức ăn nuôi chúng.
Giữa năm 1983, một tin vui đến với vợ chồng Thái, Quân được cấp một ngôi nhà cấp bốn trong khu Hoàng Hoa Thám, phường 13, quận Tân Bình. Có lẽ đây là tài sản lớn nhất cuộc đời chiến đấu của Quân. Chao ơi! Cảm giác sung sướng vì an cư trong Thái trào dâng đến rơi nước mắt. Nghĩ chồng mình chiến đấu hàng trăm trận, còn sống thì được cấp nhà như thế này quả là quá hạnh phúc, nhưng còn bao nhiêu đồng đội của chồng đã trúng đạn hy sinh, khi đưa từ mặt trận về đến đây chỉ còn là nắm xương gói trong túi ni lông mà thôi. Càng nghĩ Thái càng thấy mình quá may mắn.
Từ căn phòng chật hẹp nóng ngột ngạt của khu nhà đúc Phù Cát, đến căn phòng rộng hơn một chút khu gia binh, bây giờ là một ngôi nhà tuy cấp bốn, nhưng rộng rãi, độc lập là cả một sự đổi thay vĩ đại, lại được sống giữa những gia đình những người lính chiến, đồng đội của chồng cảm thấy thật yên ấm và an cư. Bắt đầu từ đây, Thái có thể bắt tay vào xây dựng kinh tế gia đình.
Nhìn sau nhà có miếng đất khá rộng bỏ hoang Thái nghĩ ngay đến việc trồng cây tăng gia, đó là tư duy tấc đất tấc vàng của người nông dân miền Bắc. Thái đào những hố khá rộng rồi đốt rác lấy tro, lấy phân heo, rác mục đổ vào các hốc đất. Khi các hốc đất được ủ phân đầy đủ thì Thái đi xin giống chuối về trồng. Bên cạnh chuối là đu đủ, mãng cầu... cây cối được chăm bón, tưới tắm đầy đủ, chả mấy chốc mà một vườn cây ăn trái xanh tốt xum xuê. Rồi chuối bắt đầu cho buồng, đu đủ bắt đầu cho trái. Ai đi qua cũng tấm tắc khen, những buồng chuối to, dài đu mình trong nắng; những trái đu đủ như những bầu vú mẹ căng tròn lúc lỉu thân cây trông sướng cả mắt.
Ấy rồi một buổi sáng khi thức dậy Thái mau ra vườn để ngắm vườn cây thành quả lao động của mình, thì ôi thôi cả một vườn chuối xanh tốt là vậy thì bây giờ trụi hết lá, chỉ còn thân cây treo những buồng chuối trơ trọi. Thái cứ đứng trơ, không nói được nên lời. Mọi người chạy ra xem ai cũng tiếc ngẩn tiếc ngơ. Bao nhiêu công sức của mình gần nửa năm trời kể như công cốc. Sau đó mới biết, hàng xóm có một cậu thanh niên muốn lấy lá bán cho người ta gói bánh, nên chờ đến đêm ra cắt trọi hết vườn chuối.
Thành phố lúc này đang có phong trào nuôi heo khá sôi động. Nhất là cán bộ công nhân viên chức, coi nuôi heo như là nghề chính của mình. Trong khu tập thể mọi người cũng đã nuôi và nuôi khá thành công. Thái bắt đầu đặt tầm ngắm của mình vào nghề này.
Sau nhà còn một miếng đất khoảng bốn mét vuông, cây rau dền gai mọc tốt um tùm, Thái tính toán chỗ này có thể làm một chuồng heo nuôi được mấy con. Thế là Thái cho láng xi măng, lượm tôn, sắt quây lại thành chiếc chuồng heo khá tươm tất. Không có nồi nấu cám heo, Thái đi mượm được chiếc chảo lớn bị mẻ nhưng có thể còn nấu được. Đầu tiên Thái nuôi hai con. Cứ hai ngày nấu ba chảo cám; muốn có rau cho heo ăn thì phải trồng. Thái lợi dụng chỗ có nước gần giếng trồng rau muống, rau bạc hà. Mỗi ngày, khi chiều về đó là lúc hết giờ làm việc ở Đoàn, Thái ra chiếc giếng sâu đến 20 mét kéo khoảng 100 đến 150 gầu nước để tưới rau, rát tay quá, lấy giẻ quấn dây gàu cho đỡ rát.
Cứ thế một quy trình làm việc được thiết lập. Giờ hành chính thì làm việc cơ quan, giờ nghỉ thì tăng gia, chăm heo và đào giun nuôi cá. Heo ốm cũng lo không kém gì con ốm. Suốt ngày chăm bẵm heo, tắm táp, vuốt ve cho heo, trông heo lớn chẳng khác gì mong con lớn. Thấy heo ít ngủ cũng lo. Rồi khi chúng ăn uể oải cũng nín thở quan sát; trông thấy bãi phân có vấn đề có khi còn bới ra để nghiên cứu. Những thông tin về phương pháp tăng trọng cho heo rất hốt. Phương pháp nuôi heo không cần nấu cám, rồi che kín để con heo ngủ nhiều, v.v... được anh chị em trong khu tập thể thu lượm về áp dụng. Khu tập thể có câu: “Vợ gầy thì heo béo”, thật đúng là: “Trai nuôi vợ đẻ gầy mòn/ Gái nuôi heo béo tròn thì thân lại héo hon”.
Cứ thế, mỗi lứa heo thành công bán đi trả nợ cũ, thể nào cũng còn lãi chút ít, lại nuôi lứa mới, còn ra sắm được cái này, cái kia cho tổ ấm gia đình. Có lứa Thái sắm được cái ti vi để thoả ước mơ không phải đi xem nhờ. Nhờ trời, sức trẻ cứ phăng phăng mọi việc, ốm đau qua loa rồi lại khỏi.
* * *
Một buổi chiều Thái ngồi trong phòng làm việc phàn nàn với chị em trong Ban:
- Thằng Sơn nhà chị ốm quá, bụng ỏng đít beo. Không có tháng nào là không đi viện mấy lần, khi thì viêm phế quản, khi thì tiêu chảy. Có khi vừa xuất viện hôm trước hôm sau lại vào viện. Chả biết bao giờ nó qua cái đốt này nữa.
Thế là biến ngay thành một cuộc “hội thảo” về cách nuôi dạy, chữa bệnh cho con cái. Người thì nói kinh nghiệm của mình, người thì bày cách này cách khác.
Vừa nói hôm trước, hôm sau bé Sơn phải đi viện 175 cấp cứu.
Thái ôm vội con, quấn chiếc chăn cho ấm rồi một mình bắt xe ôm lên viện vào phòng cấp cứu. Ông bác sĩ sau khi khám xong, trật cái ống nghe ngẩng lên nhìn Thái:
- Chị cho cháu nhập viện.
Thái lúng túng, chần chừ chưa biết xử lý thế nào thì vị bác sĩ tiếp:
- Chị xuống làm thủ tục, nộp tiền rồi cho cháu vào khoa Nhi.
Thực tình trong túi Thái không có đồng bạc nào, chứ không phải quên. Nhưng nếu nói không có tiền thì chắc gì người ta cho con mình nhập viện. Bé Sơn nằm trong tay mẹ ho lên rũ rượi, rồi khò khè thở. Thái đành liều nhìn bác sĩ như van lơn:
- Em đi làm về, thấy cháu nguy kịch quá, nên em vội đưa cháu đến bệnh viện nên quên không kịp mang tiền. Bác sĩ cho cháu nhập viện, lát em về lấy tiền nộp, bác sĩ thông cảm cho em.
Ông bác sĩ chần chừ một lát, rồi cúi xuống viết thủ tục nhập viện.
Bé Sơn được cấp cứu qua cơn nguy kịch, Thái gửi con cho đứa cháu cùng cơ quan trông hộ, sấp ngửa về đơn vị viết vội cái đơn, lên Đoàn trưởng trình bày, rồi xuống tài vụ tạm ứng lương để lo chữa chạy cho con.
Khi đã tạm ổn, ngồi nhìn con ngủ, mồ hôi con rịn ra, da xanh tái, những đường gân xanh ở trán nổi lên, sờ vào bụng con thấy nhèo nhẽo mới nhớ cả gần ngày nay Thái chưa hạt cơm vào bụng. Ngồi nhìn con mà nghĩ đến chồng. Không biết giờ này anh đang tác nghiệp bản đồ, hay chỉ huy bộ đội đánh chiếm bảo vệ tấc đất nào của đất nước Cam-pu-chia? Hay anh lại cũng đang sốt rét nằm co ro, dau dúm như hồi nào? Ở cái đất Bát Tam Băng, Xiêm Riệp không sốt mới là chuyện lạ. Anh ơi! Dù thế nào em cũng chịu đựng được, chỉ mong sao anh giữ được thân xác về với mẹ con em là hạnh phúc rồi. Em không cần bổng lộc, em không cần quyền cao chức trọng. Danh hiệu sống là quý nhất trên đời, phải không anh?
Hằng tháng Quân về Sài Gòn họp, hoặc tranh thủ tạt qua nhà khi đi công tác. Đó là những ngày gia đình vợ chồng, cha con sum vầy hạnh phúc nhất. Một lần Quân từ Cam-pu-chia về tranh thủ, chiều đó anh đi đâu đó thăm bạn bè. Hết giờ làm việc Thái trở về nhà, thay quần áo tạt ra chuồng heo tắm rửa kỳ cọ cho chúng. Đang hì hụi ngoài chuồng heo thì Quân về. Anh gọi, Thái không nghe thấy liền đi ra phía sau nhà, thấy vợ đang tắm cho heo thì đứng xem rồi cười và nói:
- Xem ra bà quý heo hơn tôi!
Nghe nói vậy, Thái ngẩng đầu lên, cặp mắt đang nhòe nước, nhìn xoáy vào chồng, ngạc nhiên:
- Sao anh lại nói thế?
- Thì đấy. Đã có khi nào bà tắm rửa cho tôi như thế chưa?
Biết chồng đùa, nên Thái cũng đùa lại:
- Mấy con heo này bán được mấy chỉ vàng. Còn anh là đồ “vô tích sự”. Em còn phải nuôi hai bố con anh nữa đấy!
Mà đúng là thế thật, tiền lương của Quân gần như chỉ góp phần mua được chút cám phụ giúp cho vợ nuôi mấy con heo này mà thôi.
Vô tích sự ý còn là chờ mãi mà cũng chả thấy mang bầu đứa con thứ hai. Mãi sau này mới biết, ở đơn vị anh hầu hết đều vô sinh vì sốt rét quá nhiều và quá nặng. Quân cũng không ngoại lệ. Hơn một năm sau sức khoẻ Quân hồi phục dần cộng với thuốc men và họ mới có đứa con thứ hai.
Vừa mải nuôi heo, đồng thời những chú giun cũng bị bắt cạn dần, chúng không kịp sinh sôi nảy nở, nên đàn cá trê phi của Thái bây giờ đầu cứ to dần lên mà thân thì nhỏ lại. Quân đứng nhìn rồi gọi vợ nói:
- Chắc là em mua nhầm giống cá rồi.
- Nhầm là nhầm thế nào được.
Quân phân trần:
- Em nói là cá trê phi sao đây anh thấy toàn nòng nọc. Nó sắp đứt đuôi nhảy ra ngoài rồi.
Nếu bảo đó là nòng nọc thì lớn quá. Nhưng giống thì giống thật. Thái bắt hết băm nhỏ cho vào nồi cám nấu cho heo ăn, chấm dứt nghề nuôi cá trê phi.
Một lần về tranh thủ, Quân hì hụi ngoài vườn chăm bón rau. Chả biết bằng cách nào mà anh mang về cho Thái xem con rắn trăn bằng điếu cày. Hai tay Quân túm cổ, toàn thân nó vằn vện quằn quèo dài đến hơn một mét làm Thái chết khiếp.
- Anh mang mà thịt nó đi, hay ai người ta cần thì cho người ta.
Quân vừa cười vừa nói:
- Em không biết giống trăn này nuôi heo cực tốt à?
Nghe thấy nuôi heo cực tốt, đôi mắt Thái sáng trưng:
- Vậy hả anh? Băm ra nấu cám hả?
- Giống này nuôi trên gác chuồng heo, cho cỏ vào để nó nằm, cỏ và phân trăn tuồn xuống heo chỉ ngửi thôi cũng lớn như thổi, mượt mà đẹp như tranh vẽ. Trăn và heo hợp nhau lắm.
Nghe thấy heo lớn như thổi là Thái mê ngay, liền đặt làm một chiếc chuồng thưng lưới sắt để trên gác chuồng. Thức ăn cho trăn thường là chuột, chim và gà con. Thái nghĩ ngay đến đàn chuột ở trong kho, làm mất ăn mất ngủ mấy tháng nay, bao nhiêu gạo tiêu chuẩn được cấp, chúng đã chén mất một phần. Thái hy vọng, con trăn này sẽ giúp cô yên tâm với lũ chuột và khi lớn lên nó sẽ là một nguồn thu đáng kể. Thái chạy ra chợ Hoàng Hoa Thám mua cái bẫy, mỗi đêm cũng bắt hai, ba con chuột nhắt làm thức ăn cho trăn. Đến lúc chuột nhắt bị bắt hết, chỉ còn chuột cống quanh nhà bếp của Đoàn chạy hàng đàn như heo con thì Thái lại mang bẫy ra đặt, nhưng chuột cống khôn quá, thi thoảng mới có con bị sập bẫy.
Chẳng lẽ để con rắn trăn chịu đói, trong khi nó đang hay ăn, chóng lớn, đem bán lúc này thì tiếc quá. Để kéo dài thời gian, chờ xuất chuồng một lần với mấy con heo, Thái đạp xe rong ruổi trên các trục đường, vào các công viên và xuống tận dưới quận 5 tìm mua chim sẻ về cho trăn ăn. Tuy không bằng lũ chuột, nhưng hai con chim sẻ cũng được một bữa, cái quan trọng là để có phân trăn vỗ béo mấy con heo, mặc dù chim sẻ mắc quá. Gầm ghì mãi cuối cùng, Thái cũng đã xuất chuồng được lứa heo đầu tiên, kèm chú trăn 5 ki-lô-gam. Năm đó, Thái sắm được cái tủ lạnh và chiếc ti vi trắng đen 17 inch.
Thành quả lao động mang lại nguồn lợi mới làm Thái sung sướng tự hào với công sức mình, rồi cũng là động lực kích hoạt sức lao động sáng tạo. Ngồi nhìn chồng và con mở ti vi xem thích thú mà Thái cảm thấy hạnh phúc. Người đàn bà không gì sung sướng bằng mang lại niềm hạnh phúc cho chồng con mình, gia đình mình. Có lẽ tạo hoá ban cho người đàn bà cảm giác tinh tế và cũng vô cùng đơn giản để bù đắp lại những gian nan cực nhọc hàng ngày đổ lên đầu họ. Thái nghĩ mình sẽ vẫn nuôi heo, cứ mỗi lứa sắm cho chồng con được một thứ thì chả mấy chốc mà đầy đủ như mọi người.
Bộ đội ở chiến trường về nước ngày càng đông, phần lớn anh em quê các tỉnh phía Bắc, nên đều tập trung tại Đoàn 583 để giải quyết chế độ chính sách và nhận lương thực thực phẩm rồi theo những chuyến tàu hỏa ra Bắc. Số gạo được cấp, hầu hết họ phải bán đi, lấy tiền đem về cho gia đình, một lượng gạo không nhỏ.
Đang lúc bí thức ăn để phát triển đàn heo, Thái như được tiếp thêm nghị lực, chớp ngay thời cơ, mua chiếc xe đạp để thu mua gạo và chở ra ngoài bán cho các “lái gạo”. Cứ mỗi chuyến, Thái đưa lên xe đạp không dưới 50 ki-lô-gam, một ngày có khi ba, bốn chuyến. Để bán được giá, Thái đem vào các nhà máy xay xát, chà lại trông sáng sủa, bắt mắt, dễ tiêu thụ, đồng thời đàn heo của Thái cũng lớn nhanh như thổi, nhờ nguồn cám gạo này.
Lao động có thành quả đã kích thích Thái lao vào công việc không biết mệt. Thời gian ở cơ quan ít dần thì thời gian chạy ngoài tăng lên và đời sống cũng dần dần khấm khá. Cuộc sống như cái cân, quả cân là công việc cơ quan mà đĩa cân là công việc bên ngoài. Khi cái đĩa cân trĩu xuống thì quả cân bị nhấc bổng.
Nguồn gạo bộ đội bán ra ngày càng nhiều, nhưng vì Thái không có vốn, nên có được đồng nào Thái dốc hết vào gạo, dốc vào gạo cũng là dốc vốn vào đàn heo. Đã đến lúc, Thái nghĩ ra được một cách, vừa khỏe, vừa xoay nhanh được đồng vốn. Nghĩa là phương thức “sang tay ngay tại chỗ”. Thái hợp đồng ngày giờ với người bán gạo rồi chạy đi dắt “mối” vào trực tiếp giao gạo tại chỗ, thu tiền tại chỗ, trả cho người bán, Thái trích tiền lãi.
Hạnh phúc của người làm vợ lính thật đơn sơ. Cái “vạn sự khởi đầu nan” đến nay coi như đã có thành quả trên cả sự mong đợi. Cũng như mọi gia đình trong đơn vị, nhưng khác với nhiều người là từ cái cơ ngơi ban đầu đó, với sự năng động, sáng tạo, có khi là liều lĩnh... mà Thái đã tạo dựng được một khối tài sản không nhỏ bằng chính mồ hôi công sức của mình.