Tôi ra đời trong một gia đình thuần nông. Bố mẹ tôi sinh được sáu anh chị em. Chị Thà là chị cả, anh Thu, chị Xuân rồi đến tôi, dưới nữa là em Mận. Mẹ tôi mất từ khi tôi mới hai tuổi, cái tuổi mà mọi hình ảnh tuổi thơ không thể lưu giữ. Bây giờ ký ức của tôi về người mẹ chủ yếu là do bố tôi và các anh chị kể lại. Sau này bố đi bước nữa, dì sinh được em gái tôi là Trần Thị Mận.
Quê tôi có nghề làm nón nổi tiếng - nón Chuông. Bây giờ mỗi lần vợ chồng tôi về quê, các anh chị đều mua nón Chuông để chúng tôi mang đi làm quà. Những chiếc nón trắng vừa xinh, vừa đẹp, kỹ thuật tinh xảo đến mức nghệ thuật, trông mê lắm. Không biết có phải vì thế mà con gái quê tôi hầu hết ai cũng có bàn tay đẹp và duyên dáng.
Làng Chuông, còn gọi là thôn Lương Hạ quê tôi, là một ngôi làng cổ còn rất nhiều những ngôi nhà xưa cũ, nghề làm nón có lẽ cũng từ khi ấy. Đất làng Chuông vốn khô cằn nên người làng đã làm thêm nghề phụ là làm nón. Xưa kia, làng Chuông sản xuất nhiều loại nón, dùng cho nhiều tầng lớp như nón ba tầm cho các cô gái, nón nhô, nón long, nón dấu, nón chóp cho các chàng trai và những người đàn ông sang trọng. Nhưng bây giờ làng Chuông chỉ còn làm duy nhất một loại nón.
Vật dụng làm nón gồm lá, chỉ và khung nón. Lá còn búp, chưa xòe ra được lấy từ hai loại cây giống như cây cọ, mọc ở những vùng đồi núi. Người ta cắt về phơi khô hai đến ba nắng, rồi dùng khăn nhúng nước, hơ trên lửa cho nóng đem ủi phẳng. Công đoạn làm khung nón được cho là khó nhất bởi nó quyết định đến độ tròn và sự bền chắc của một chiếc nón. Khung nón làm bằng tre ngâm kỹ vừa dẻo dai lại rắn chắc, gồm mười sáu vành. Các vòng tròn nhỏ dần đến chóp nón tạo ra khung nón. Thường mỗi mối buộc được dùng guột hoặc mây bện lại rất chắc chắn và đẹp mắt.
Lớn lên tôi nghe cha kể lại, chiếc nón ra đời và gắn bó với mảnh đất Chuông giàu văn hóa tự thủa nào. Những chiếc nón trắng đặc trưng của làng từ thời phong kiến đã từng được tiến cung dâng hoàng hậu. Cha kể, ông Hai Cát là người có công mang nón Xuân Kiều về làng sản xuất thay thế cho các loại nón cổ. Những năm ấy cái đói khiến cho dân làng Chuông không còn tha thiết với nghề làm nón.
Hai Cát cũng bỏ làng ra đi, lên chốn kinh kỳ, rồi lại vào xứ Huế. Trong đầu chàng trai trẻ Hai Cát đã lóe lên ý nghĩ “sao ta không làm nón kiểu Huế ngay tại quê nhà?”. Và rồi ông quyết thực hiện bằng được. Với đôi bàn tay của người thạo nghề cùng với chút sáng tạo của tuổi trẻ lại thêm cái đói thúc đẩy, Hai Cát dốc toàn bộ vốn liếng mua nguyên liệu về làm nón Huế. Lúc bấy giờ Bắc Kỳ không có lá gồi, ông dùng lá cọ, vốn làng Chuông vẫn dùng để làm nón quai thao. Sau bao lần thí nghiệm thất bại, chiếc nón ông làm tuy đã đẹp nhưng vẫn vàng khè so với nón Huế. Không ngần ngại, ông đã vào tận Quảng Trị để mua lá gồi mang ra làm lại từ đầu. Và lòng kiên trì đã dẫn tới thành công. Năm 1930, ở hội chợ Trường Đấu Xảo - Hà Đông, nón của ông Hai Cát đã được khách hàng hâm mộ và chính quyền sở tại đã cấp giấy hành nghề, Hiệp hội Hàng Nón chứng nhận chất lượng cao hơn nón Huế và ông đã trở về bản quán với nghề làm nón theo cách mới.
Làng Chuông bấy giờ đã điêu tàn lắm, người dân ly tán gần hết nhưng rồi nhờ tài năng và danh tiếng của Hai Cát sau một năm, số người làng quay về ngày một đông, làng Chuông được hồi sinh.
Chợ nón làng Chuông họp theo phiên vào các ngày 4, 10, 14, 20, 24 và 30 âm lịch hằng tháng. Có sáu phiên một tháng và 72 phiên chợ trong một năm. Chợ làng Chuông họp từ rất sớm, sáu giờ sáng đã đông người. Chợ họp ngay trong sân chùa Chuông. Người người vui vẻ mang những sản phẩm của mình đến đây giao dịch. Chợ họp nhanh, ồn ào, náo nhiệt rồi nhanh chóng tan sau hơn ba tiếng đồng hồ. Người đi chợ phải đi từ rất sớm, kẻ muốn đến chơi cũng phải đến từ sớm tinh mơ, để hưởng cái không khí náo nhiệt của chợ nón.
Làng Chuông với nghề làm nón giờ đã nổi tiếng khắp trong và ngoài nước. Ngôi làng nhỏ bé luôn tấp nập khách ra vào. Khách đến làng không chỉ để đặt hàng mà còn muốn tham quan, tận mắt chứng kiến công việc làm nón. Bây giờ, cùng với xu thế cách tân nữ phục truyền thống, chiếc nón cũng được đa dạng hóa thêm, thị trường nón cũng được mở ra một hướng khác. Bất cứ du khách nào tới Việt Nam đều yêu thích chiếc nón. Chính vì vậy, người làng Chuông làm những chiếc nón đủ kích cỡ, phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của khắp mọi miền.
Dân làng tôi có một câu cửa miệng độc đáo mà những người ở xa đến thường ngạc nhiên.
Hỏi:
- Bà nhà ông đi đâu rồi?
Trả lời:
- Bà ấy đi ngồi!
Hoặc:
- Mai anh cho chị ấy ra tôi chơi nhé!
Đáp:
- Mấy hôm nay mấy mẹ con đi ngồi suốt, chắc không đi được.
“Đi ngồi” là đi ngồi khâu nón. Những năm ra Trường Trung cấp Thủy Lợi về chờ giấy gọi nhận công tác tôi cũng “đi ngồi” khá nhiều, vì vậy mà hình ảnh những người phụ nữ bên chiếc nón trắng kiêu sa thấm đẫm trong tâm trí.
Câu chuyện nón làng Chuông và ông Hai Cát thấm vào tôi tự thuở nào và hình thành trong tôi suy nghĩ, muốn làm giàu, muốn thành đạt không thể cứ núp trong lũy tre làng…
* * *
Quê tôi có con sông Đáy uốn lượn quanh co tuyệt đẹp, cùng với phụ lưu sông Nhuệ chảy trên địa bàn các tỉnh thành Hà Nội, Hòa Bình, Hà Nam, Ninh Bình và Nam Định.
Là một phân lưu của sông Hồng, sông Đáy nhận nước của sông Hồng ở địa phận Hà Nội giữa huyện Phúc Thọ và huyện Đan Phượng. Quãng sông này còn có tên là sông Hát hay Hát Giang. Chỗ sông Hồng tiếp nước là Hát Môn.
Lưu lượng của sông bất thường nên mùa mưa thì lũ quét lại thêm dòng sông quanh co uốn khúc dễ tạo ra những ghềnh nước lớn, chỗ đó quê tôi thường gọi là ghềnh Bàu. Bên cạnh ghềnh Bàu có một chiếc cầu phao để nhân dân qua lại. Đây cũng là chiếc ghềnh gắn liền với ký ức gia đình tôi vừa là kỷ niệm vừa đau khổ.
Đến mùa khô thì lòng sông chỗ ghềnh Bàu lội qua được. Và bãi sông với những triền ngô xanh rờn như chiếc khăn xanh trải dài trên thắt lưng người con gái đương thì. Xuôi đến Vân Đình thì lòng sông rộng ra, lưu lượng chậm lại có thể đi thuyền. Khúc sông men đến vùng chân núi nên phong cảnh hữu tình. Những buổi hát đối say mê với người đi thuyền trên sông vẫn còn vương vấn mãi trong tâm trí tôi.
Mẹ tôi làm nón rất giỏi. Bàn tay bà đặt lá, xỏ kim, uốn vành, chuốt lá thật tài tình, cứ như người nghệ sĩ làm xiếc vậy. Nhưng công việc chính của bà là buôn bán lá gọ ở chợ Chuông để cung cấp lá làm nón cho bà con trong vùng. Theo ký ức của các anh chị tôi kể lại thì mẹ tôi rất đẹp, dáng nền nã, đi lại duyên dáng. Bà có giọng nói ấm áp, thật thà khiến người nghe gửi gắm lòng tin vào đó.
Vào khoảng đầu năm 1954, một hôm bà ra ghềnh Bàu tắm. Lòng sông đang mùa cạn, nước lặng lờ trôi. Bỗng có một cây nứa nhỏ từ từ như một mũi tên lướt trên sông. Bà đón lấy và mang về nhà lấy dao bổ ra để làm chuồng gà. Lòng cây nứa toác ra một chiếc bùa nhỏ bằng hai đầu ngón tay. Tiện tay mẹ tôi nhặt vứt vào hố xí. Không biết có phải vì lá bùa định mệnh đó hay không, mà từ đó tính tình mẹ tôi đổi khác. Thời kỳ đầu còn quên quên nhớ nhớ. Sau khuôn mặt bần thần. Sau nữa cứ suốt ngày vẩn vơ trong sân ngoài vườn, rồi không thiết tha làm ăn, quên cả cho con bú mớm. Bà cứ lang thang khắp xóm, khắp làng, rồi ra bờ sông, nơi có ghềnh Bàu đứng ngắm hàng giờ.
Cha cùng bà nội nuôi tôi tìm thầy, tìm thuốc, tìm đến cả những ông thầy cúng để chữa chạy. Nhưng bệnh mẹ tôi mỗi ngày mỗi nặng. Chính vì vậy mà anh em chúng tôi đều do bàn tay bà nội nuôi chăm sóc.
Bà nội nuôi một tay bế tôi vừa nhai trầu vừa nhìn cha tôi chậm rãi nói:
- Bố nó cố mà tìm thầy chữa bệnh cho mẹ nó. Bà nghĩ bệnh của mẹ nó là bệnh âm thì phải. Bệnh âm thì tìm thầy cúng mà chữa.
Bố tôi, tay cầm con dao vót nan, đặt ngang đùi, mắt nhìn ra bờ giậu, tròng mắt lặng im, rồi như lặn tầm nhìn vào trong đầu, để nhường chỗ cho một làn nước mỏng và vồng ngực ông nhô lên, xẹp xuống. Một tiếng thở dài khiến không gian lặng như tờ. Ông đang nghĩ đến một phép màu nhiệm nào đó khiến mẹ tôi bừng tỉnh.
Lúc bấy giờ nhà tôi nuôi một con chó màu vàng nhạt. Con chó lớn như một đứa trẻ. Chó càng lớn càng khôn. Suốt ngày nó theo chân mẹ tôi không sót một nơi nào. Cái đuôi nó như chiếc chổi quét trần lúc ngoáy tít, lúc cong vọt, khi lại rung rung như bông lau theo chân mẹ tôi trong làng, ngoài bãi. Chính vì vậy mà cha tôi cũng yên tâm phần nào. Giữ mẹ trong nhà thì không đành, để mẹ đi lang thang thì không yên tâm.
Ấy rồi một hôm vào buổi sáng mẹ tôi xăm xăm ra sông Đáy. Bà đến ghềnh Bàu, đứng trên bờ nhìn dòng nước xe xé chảy, mắt thẳm sâu trong lòng nước. Con chó đứng bên cạnh nghển cổ, cong đuôi nhìn sang bờ bên kia, rồi lại quay đầu nhìn mẹ tôi để đoán ý chủ. Rồi bỗng dưng, như để gặp ai dưới lòng sông, bà để nguyên váy áo lội ào xuống nước, xăm xăm tiến ra cây tre cắm làm cột mốc dưới lòng sông.
Con chó duỗi thẳng hai chân trước nhìn mẹ tôi mà sủa. Dường như nó không yên tâm khi thấy chủ không đả động gì đến tiếng kêu của nó. Nó cào hai chân trước xuống đất, lồng lên sủa dữ dội. Mặc, mẹ tôi vẫn lội ra xa hơn, nước ngập đến bụng, rồi đến ngực. Con chó như thể quá lo lắng, nó bèn lao xuống nước, hối hả bơi theo và cắn áo mẹ tôi lôi lại. Nhưng mẹ tôi cứ ào ào lội tới cây tre, bám lấy, leo lên. Con chó nhất định không chịu, nó cắn gấu áo lôi xuống, cho đến khi mẹ tôi leo lên cao, nó đành bất lực bơi vào bờ, cuống cuồng trên bãi, rồi đứng nhìn mẹ tôi mà sủa tuyệt vọng.
Dòng sông quanh co, dòng nước vẫn xa xá chảy. Mẹ tôi cứ thế bám cây tre nhìn xa xăm như chờ đợi điều gì. Con chó sủa mãi không thấy mẹ tôi trở vào, nó đành chạy về nhà vừa sủa, vừa cuống cuồng chạy vào chạy ra. Bà nội nuôi đang bế tôi, thấy thế thì hốt hoảng vì không thấy mẹ tôi đâu nữa. Vừa lúc đó bố tôi về. Con chó nghển cổ nhìn bố tôi sủa, rồi nó cắn gấu quần lôi đi.
Linh tính mách bảo cho bố tôi biết có chuyện chẳng lành. Ông chạy theo con chó ra ghềnh Bàu. Từ xa bố tôi đã thấy bà con đang đi trên cầu phao chỉ trỏ, nhìn theo tay họ thì thấy mẹ tôi đang ôm cây tre dưới lòng sông như con bói cá. Ông hoảng hốt ào xuống sông, đưa mẹ tôi lên bờ và cõng về nhà. Từ đó bệnh mẹ tôi ngày một nặng, khi tỉnh khi mơ, giống như người nửa âm nửa trần vậy.
Một mình bố tôi bươn chải quần quật nuôi tám miệng ăn, lại thêm mẹ tôi đau ốm. Suốt ngày ông lầm lũi, người quắt lại như một cây gỗ sến, không đủ thời giờ chăm sóc đến từng đứa con. Chúng tôi lớn lên trong sự vất vả lầm lũi của cha, nhiều hôm chị em tôi chơi đùa ngoài đống rơm rồi đói quá ngủ quên luôn ở đó. Bà nội nuôi và cha phải đi tìm từng đứa bế vào nhà.
Nhà tôi có năm gian xây lợp lá cọ. Gian giữa thờ cúng và kê cái sập gụ ở đó. Hai gian đầu là hai buồng ngủ. Mẹ tôi nằm phía bên trái nhìn vào. Nhà rộng nên là nơi anh chị em du kích thôn thường tụ tập, họp hành.
Sáng đó, vào một ngày cuối tháng ba âm lịch, trời vẫn còn lành lạnh sập sùi như muốn khóc. Trên trời những vần mây trắng đục cuồn cuộn trông như những đụn bông, trong lúc anh chị em du kích ngồi chơi tú lơ khơ trên chiếc sập giữa nhà, mẹ dắt tôi đi chơi như thường lệ. Bà lang thang sang hàng xóm chuyện trò một hồi rồi dắt tôi về nhà, để tôi ngoài thềm và bước vào buồng.
Tôi loay hoay leo qua cái ngưỡng mà không được, bởi ngưỡng thì cao mà tôi thì còn nhỏ, đành ngồi ngoài thềm chơi với con chó.
Khoảng tầm buổi, mọi người trong nhà thấy vắng bóng mẹ tôi thì đổ xô đi tìm. Người thì bảo vừa thấy bà bế con Thái đi chơi hàng xóm. Sang hàng xóm thì được biết bà vừa bế con bé đứng nói chuyện ở đây. Mọi người lại chạy ra ghềnh Bàu, có người còn chạy dọc bờ sông Đáy theo hướng nước chảy. Cha đứng nhìn dòng nước xe xé chảy, cố tìm dấu vết của sự hy vọng, còn bà nội nuôi thì ngửa cổ lên trời. Trời thì cao, chỉ có từng đụn mây đen trắng vần vũ trôi theo hướng gió thổi bay mãi đến tận chân trời.
Mọi tìm tòi đều bất lực, lúc đó bố tôi mới vào buồng thì một cảnh tượng vô cùng kinh khủng hiện ra. Mẹ tôi quỳ giữa giường, hai tay chắp trước ngực, mắt vẫn mở trừng trừng lên trần, khuôn mặt bình yên. Nhưng bà đã ngưng thở từ lâu. Mọi cố gắng của người thân và thầy thuốc đều bất lực. Bà đã đi về thế giới bên kia rồi, bỏ lại đàn con thơ, cùng với người chồng nhuốm màu gian khó.
Đám tang thật buồn thảm. Cảnh đau thương nhất là trên đầu tôi quấn vòng tang trắng. Tôi chưa biết thương, biết khóc và biết mất mát, cứ ngơ ngác nhìn mọi người đến đông đầy nhà. Lúc vào quan, nhìn thấy mẹ, tôi đòi bú. Bà nội nuôi phải bế tôi sang hàng xóm để tránh. Chị Thà, anh Thu và chị Xuân khóc vật vã bên chiếc quan tài và lúc đưa mẹ tôi xuống huyệt. Bố tôi cắn môi, lặn nước mắt chảy ngược vào trong.
Từ đó bố tôi lầm lũi gồng mình lên để làm lụng nuôi đàn con thơ dại, phần nghĩa vụ làm cha, phần nữa thể hiện tình yêu với mẹ tôi. Một tay chăm sóc đỡ đần cha tôi là bà nội nuôi. Chúng tôi gọi là bà nội nuôi có lý do của cái cụm từ đó. Bà là một nhân vật đặc biệt. Bà không phải người đẻ ra bố tôi mà chỉ là người mẹ nuôi. Bây giờ bà đã sang thế giới bên kia lâu rồi, nhưng chúng tôi cũng không biết quê quán bà ở đâu nữa.
Ở vào một thời điểm khi tôi chưa ra đời, chợ Chuông bỗng xuất hiện một người đàn bà phúc hậu, hiền lành đến buôn bán xẻng, cuốc, dao, rựa... Buổi tối bà tá túc ngoài chợ. Cơm nước, gặp đâu ăn đấy. Thương người đàn bà côi cút nên ông bà nội tôi đưa bà về nhà cho trọ. Hỏi quê quán ở đâu bà nhất định không nói. Cho đến cuối đời, những ngày chuẩn bị sang thế giới bên kia, bà vẫn giữ bí mật để đưa xuống mồ.
Khi ông bà nội tôi qua đời, bà ở với gia đình tôi và trông nom bố mẹ tôi như con đẻ của mình. Đến lúc mẹ tôi qua đời thì bà trông nom chúng tôi như cháu nội của bà.
Cuộc đời bà là cả một bi kịch. Quê bà ở đâu đó. Bà có chồng và một con trai. Nhưng chồng bà ăn chơi, cờ bạc rồi gán hết gia sản, gán cả đến vợ. Không được thì đánh đập vợ con. Không chịu cảnh cơ cực, gán vợ đợ con, bà trốn nhà để lánh nạn. Nhớ con thi thoảng bà gửi tiền về. Người chồng tìm tung tích lại mò đến bóc lột. Bà lại trốn nơi xa hơn, rồi ông chồng lại tìm đến. Cho đến khi đứa con trai lớn lên lại cũng theo con đường của bố. Bà đi đâu họ cũng tìm được, lột đến cả cái thắt lưng để uống rượu, đánh bạc. Chính vì thế mà bà đành phải chọn con đường tha hương cầu thực để nương thân cho đến hết cuộc đời. Bà lấy niềm vui nỗi buồn của gia đình tôi làm niềm vui nỗi buồn của bà. Sau này bố tôi đi bước nữa với dì Thuận. Mỗi lần chúng tôi hư là dì Thuận lấy roi vút dạy bảo, bà nội nuôi xót lắm thì mắng:
- Mày có đẻ ra chúng nó đâu mà mày được quyền đánh chúng nó hở?
Dì Thuận tôi chỉ cười hề hề.
Tôi kém chị cả Thà một giáp. Chị Thà sinh năm 1940, tuổi Canh Thìn. Canh biến vi cô và biến vi cải, nên tính cách chị luôn muốn biến cải, không chịu yên một bề. Lên chín tuổi - năm 1948 chị đi lấy chồng. Năm ấy anh chồng mới sáu tuổi. Đến năm hai mươi tuổi thì chị bỏ nhà chồng trốn theo một đoàn đi xây dựng kinh tế ở Tây Bắc. Chị đẹp gái lại hát hay nên được biên chế vào làm ở Đài phát thanh Khu tự trị Tây Bắc. Yên ổn công việc chị về xin ly dị chồng. Anh chồng không chịu, cứ khóc hoài.
Cuộc cải biến sắp đặt số phận của chị thành công. Cuộc đời chị Thà vì thế mà sau này sáng sủa, tốt đẹp.
Anh Thu tôi sinh năm 1943, tuổi Quý Mùi. Anh hiền lành chịu thương chịu khó. Năm 1963 anh tòng quân rồi xung phong vào miền Nam chiến đấu. Chiến trường quen thuộc của anh là miền Tây Nam Bộ. Trước khi lên đường đi chiến đấu anh hứa hẹn với chị Tường. Chị Tường chỉ có một bố một con, mẹ mất sớm. Chị một mực chờ đợi anh tôi, cả khi địa phương đã báo tử. Tình yêu của chị đối với anh tôi đóng băng thành một khối đá mang hình Vọng Phu cho đến trọn đời.
Mãi sau này, khi không còn một chút hy vọng, anh Thu mắt trắng, môi thâm, người nhỏ như con nhái lù lù trở về, lại nói tiếng Nam Bộ. Cả nhà vỡ oà trong nước mắt. Người sung sướng nhất là chị Tường. Hòn đá Vọng Phu đã vỡ ra thành nước và họ đã tan vào nhau thành vợ thành chồng sau bao tháng năm chờ đợi, thất vọng.
* * *
Tôi lớn lên dưới bàn tay chăm sóc của bà nội nuôi, cha, dì và các anh chị. Những chiều hè gió nam rười rượi thổi, chúng tôi kéo nhau ra sông Đáy, trút quần áo ào xuống ngụp lặn, nô đùa. Con sông quê hương thật sự đã tắm mát cuộc đời anh em tôi. Tâm hồn tôi lớn lên bằng những câu chuyện cổ tích đầy ma muội của bà nội nuôi, của cha và người thân. Có lẽ vì vậy, cho đến bây giờ thế hệ chúng tôi già rồi mà vẫn còn sợ ma quỷ.
Từ nhà tôi đi men theo bờ tre đến cái ao nhà ông Trương Ba Đen rộng và rất sâu, kín bèo cái. Ở đấy theo lời kể của mọi người thì rất nhiều ma. Ma đã dìm chết biết bao nhiêu người. Đi tiếp nữa vào trong xóm có một đoạn đường dài đến mấy trăm mét, hai bên đường rậm rì cây cối, ở đó cũng có nhiều ma trú ngụ.
Sợ nhất là đoạn đường đến nhà ông Ba Định, hai bên đường cũng cây cối um tùm. Họ kể ma hay ở trong bụi rậm, có khi ngồi trên cây xoã tóc dài tận xuống đất. Khổ nỗi tôi lại thân với cái Là con ông Ba Định, nên hay đến chơi. Nhiều đêm vì sợ ma quá, nên tôi vừa đi vừa hát toáng, có khi còn múa nữa cho đỡ sợ.
Cơ thể con gái của tôi phát triển chậm. Lớn tướng rồi mà cũng không hề biết khái niệm yêu đương là gì. Một hôm về mùa hè, chị bạn rủ lên nhà anh Bình chơi vì mai anh ấy nhập ngũ. Nhà đông người, họ hàng làng xóm và bạn bè đến chơi đông như hội. Những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hễ đến đợt nhập ngũ thì các đoàn thể tổ chức liên hoan, bà con làng xóm, bạn bè đến thăm hỏi đưa tiễn rất chu đáo thanh niên trúng tuyển nghĩa vụ.
Hai chị em ngồi chơi cho đến khi vãn khách thì xin phép ra về. Anh Bình đưa hai chị em ra ngõ, rồi bảo:
- Để mình đưa hai chị em về nhà.
Tôi vô tư nói:
- Không cần đâu anh Bình ạ. Đường cũng không xa lắm lại có hai chị em rồi. Anh cứ về tiếp khách đi.
Nhưng anh Bình không chịu. Thế là ba anh em chúng tôi vừa đi vừa nói chuyện. Qua ngõ nhà tôi, đi một đoạn mới tới ngõ nhà chị bạn. Khi chị bạn đã lặn vào nhà, thì anh Bình đưa tôi trở lại nhà tôi. Đi được một đoạn, anh Bình dừng lại, vịn cành cây run run, bịn rịn:
- Thái à... anh mến Thái mà sao Thái không để ý...
Vì tôi chưa có khái niệm yêu đương, nên khi nghe câu yêu thật bất ngờ. Tôi còn đang bàng hoàng lẩn tránh bóng tối, thì đột nhiên anh Bình ôm lấy tôi hôn. Tôi hoảng quá lùi né tránh. Không ngờ phía sau là một chiếc hố cá nhân tránh máy bay. Thế là tôi lộn nhào. Khi anh Bình lôi lên được, tôi chỉ kịp vuột chạy về nhà. Một vết xước nhẹ ở má khiến tôi lo quá chỉ sợ ai biết, suốt đêm lấy khăn lau cho sạch. Ai ngờ lau nhiều quá thành vết đỏ bầm. Sáng ra nhìn ai cũng thấy ngượng.
Thật không ngờ, anh Bình nhập ngũ vào Công an vũ trang và vào tận Khu 4 luôn, không một lần về phép thăm nhà. Sau này đồng đội anh kể lại, trong một trận pháo kích của hạm đội Mỹ từ ngoài Biển Đông dội vào, đồn của anh bị pháo địch cạo sạch không còn một cây cỏ. Anh Bình mãi mãi ở lứa tuổi đôi mươi trong tư thế nằm ngửa trên mặt đất, dang rộng hai chân hai tay, mắt mở trừng nhìn lên trời, toàn thân anh như ngôi sao dán trên mặt đất. Tay trái vẫn nắm ốp che tay trên khẩu súng AK, bàn tay phải xòe ra năm ngón.
Tôi khóc âm ỉ suốt bao nhiêu ngày, rồi cứ tự vấn lương tâm, trách giận mình. Ở thế hệ chúng tôi, phụ nữ đã khổ, nhưng những người đàn ông còn thiệt thòi hơn nhiều. Họ đi vào cõi vĩnh hằng khi tuổi đời còn quá trẻ, có người chưa một lần được nụ hôn của người con gái...
Anh chị em chúng tôi lớn lên ở cái thời đất nước chiến tranh liên miên. Hạt gạo phải xẻ làm ba. Một cho chiến trường, một cho đồng bào miền Nam, phần còn lại cho mình. Đói khát, thiếu thốn là âm hưởng đậm nhất ghi dấu ấn cho cuộc đời mỗi người thời bấy giờ. Nồi cơm bê ra có hạt cơm nào dính hết vào mỳ hay sắn, còn lại là cháy, moi mãi được chút cơm chia cho cả nhà, mỗi người được lưng bát. Dì Mận nhỏ nhất nhà cứ sắn, mỳ, rau ăn trước. Tôi hỏi:
- Sao em không ăn cái ngon trước mà toàn ăn cái không ngon?
- Ăn cái ngon trước lát nữa no rồi ăn cái không ngon sao nổi hả chị.
Có hôm đi học về đến nhà hoa cả mắt, bê nồi cơm ra vét đến mòn cả nồi.
Đối với tôi thời bao cấp còn lại bây giờ có ba nỗi sợ: Đói, ma và xếp hàng.
Chúng tôi đi học giống như kẻ tranh cướp cái chữ với máy bay Mỹ. Người thì bé mà đội cái mũ rơm thì to và nặng. Có thời kỳ còn đeo cả cái nùn rơm bằng cái mẹt sau lưng để chống bom bi. Trường học thì đắp luỹ đào hào xung quanh như địa đạo. Tý tý lại có kẻng báo động, thầy trò lại chui xuống hầm. Có lần không kịp xuống hầm thì nằm phơi trên bờ khoai, lấy dây khoai lang che lấy mặt, nghĩ rằng làm thế phi công Mỹ sẽ không phát hiện được. Nghe người lớn nói, thằng Mỹ nó sẽ đưa miền Bắc - Việt Nam về thời kỳ đồ đá. Đá thì chưa biết nhưng có lẽ gần đất sét. Khổ ơi là thậm khổ!
* * *
Cuối năm 1972, tôi vào học Trường Trung cấp Thủy Lợi - khoa Địa chất ở Hà Nam. Cha tôi chở tôi trên chiếc xe đạp đến tận trường cách nhà 90 cây số. Khi trở về mắt cha rớm lệ dặn dò:
- Con gái chăm học, giữ gìn sức khỏe con nhé!
Tôi hiểu nỗi lòng cha thương con gái mồ côi mẹ từ rất nhỏ. Tôi cũng hiểu mong ước của cha mãi mãi muốn gần con để được chăm chút bù đắp những thiệt thòi về tình cảm. Nhưng tôi chỉ thấy mủi ở trong lòng, rồi lí nhí thưa:
- Vâng! Bố về đi…
Những năm trước và sau ngày thống nhất Bắc - Nam, cuộc sống nhân dân miền Bắc càng lúc càng khó khăn. Sinh viên ở các trường được Nhà nước bao cấp nhưng cũng sống rất khổ. Cơ sở vật chất vô cùng thiếu thốn, cơm không đủ no, áo chẳng đủ mặc. Nhiều hôm phải uống thêm nước rau muống luộc cho cái bụng đỡ rỗng roãng, lúc nào cũng ước mơ được bữa cơm no, được bộ quần áo lành lại cộng thêm với nỗi nhớ nhà quay quắt. Nhưng chủ nhật mà về nhà cũng đâu có dễ. Đường sá xa xôi, tiền không có. Năm chị em chúng tôi bàn cách để tháo gỡ. Cái Sâm nói:
- Tau bàn thế ni… năm chị em mình báo bốn suất cơm thôi, dành lại một suất thanh toán lấy tiền cho mỗi tuần một đứa về thăm mạ.
Nghe thì cũng có lý, nhưng bụng đang đói thế mà lại còn bớt khẩu phần ăn nữa thì chịu sao nổi. Nhưng không còn cách nào khác, ít ra mỗi tháng cũng được ngày chủ nhật về nhà.
Thương con gái mồ côi, mỗi tuần chiều thứ bảy cha tôi lại gò lưng đạp xe ra bến xe đợi con gái để chở về nhà, rồi chiều chủ nhật lại đèo con bằng chiếc xe cà tộc ra bến. Bây giờ hình ảnh người cha ngồi bên gốc cây cạnh đường với chiếc xe đạp màu xanh, khi thấy con gái bước ra thì cha đã quên hết mệt mỏi cứ găm vào từng giấc ngủ của tôi. Cha đứng dậy vẫy tay, rồi cái giọng trìu mến vang lên:
- Con gái! Thái ơi, bố đây, con!
Cái Thìn người Thái Bình tâm sự:
- Tao ao ước có được bộ quần áo đẹp mặc mỗi khi ra phố quá. Ngày còn ở nhà, đến Tết mẹ tao mua cho mỗi đứa một cái gì mới. Đứa có quần thì không áo, đứa có áo thì thôi quần…
Chúng tôi ngước nhìn ra đường thấy hai cô bộ đội người cân đối dong dỏng đi sóng đôi. Hai cô mặc hai bộ quân phục đông trông lịch sự và đẹp quá. Tôi để ý nhiều người dõi mắt theo, ngưỡng mộ. Trong lòng tôi ao ước… và rồi chủ nhật tuần ấy về nhà, gặp anh Thu, lúc đó anh đang là sĩ quan quân đội làm ở ngành Hậu cần, tôi nài nỉ anh phải sắm cho tôi một bộ. Có lẽ đó là món quà lớn nhất và tôi thích nhất ngày ấy. Sau này đi thực tập ở Quảng Ninh tôi đã mặc bộ quân phục, người tôi cân đối nên mặc cũng thấy hay hay. Không ngờ cái thích trẻ con ấy mà sau này thân phận người lính đã khoác vào cuộc đời tôi.
Đời sinh viên rồi cũng kết thúc, ngày ra trường đã đến. Không biết mọi người có suy nghĩ gì về tương lai sau khi tốt nghiệp, ra trường, nhưng đối với tôi, được vào miền Nam là niềm khát khao cháy bỏng. Qua đài, báo chí và một số người trực tiếp từ miền Nam ra cho biết cuộc sống trong Nam dễ thở hơn, ít khó khăn và cứng nhắc như chế độ bao cấp mà chúng tôi gồng mình chịu đựng. Hơn nữa, tôi có anh Thuần cũng đã chiến đấu tại chiến trường miền Tây Nam Bộ nhiều năm. Tôi lại cũng thích đi xa cho biết đây biết đó. Tôi muốn bay nhảy như tính cách của một phụ nữ mang cái tên “rất đàn ông”. Nhưng gia đình lại lo lắng, nhất là cha tôi, ông cho rằng đàn bà con gái lúc xa gia đình biết dựa vào ai khi trái gió trở trời, và một cái lo của các cụ ngày xưa khi con gái gần đến tuổi “lo toan về già”, trong lúc ở quê, lớp người như tôi thì đã có nơi, có chốn, có người đã làm cha, làm mẹ rồi. Thực ra tôi muốn đi xa cũng là một đức tính tự lập, có lẽ đã hình thành còn nhỏ, từ sau ngày mẹ tôi qua đời, cha phải một mình gà trống bới đất nuôi đàn con. Sau này làm cha làm mẹ rồi, tôi mới hiểu nỗi lòng của cha tôi khi thả đứa con gái vào lòng biển mặn.
Những năm sau 1975, đất nước thống nhất. Đội ngũ cán bộ miền Nam đang thiếu. Vì vậy các trường cũng như các ngành điều động sinh viên và cán bộ từ miền Bắc bổ sung cho miền Nam. Ở trường tôi cũng thế. Trừ những sinh viên con liệt sĩ, phụ nữ đã có chồng ở miền Bắc thì phải ở lại, hầu hết được điều động đi miền Nam. Thế là tôi hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ tung cánh bay vào đất trời phương Nam. Chờ mãi đến tháng 6 năm 1976, tôi được Bộ Thủy lợi điều vào Trường Công nhân Khảo sát Thủy lợi, đóng tại huyện Phù Cát, tỉnh Quy Nhơn (bây giờ là Bình Định).
Tôi cầm tờ quyết định mà lòng tưng bừng rạo rực, chạy về khoe với bà và cha tôi:
- Bà ơi, bố ơi, con có quyết định nhận công tác rồi!
Nét mặt bà thì giãn ra hùa theo cái vui sướng của tôi. Còn cha lại ngồi yên lặng lẽ, nhìn con gà trống đang bới đất trước sân. Một lát ông chậm rãi:
- Đưa bố xem…
Ông trả lại tờ giấy cho tôi rồi đứng dậy đi ra ngoài. Em gái tôi là cái Mận cũng vui như chị sắp đi lấy chồng. Ngày lên đường, cả nhà đi bộ đưa tiễn tôi ra tận đầu làng.
Từ nay tôi không còn được trong vòng tay che chở của bà và bố mẹ nữa, không còn được cha đèo bằng xe đạp về nhà, không còn được chị em gái chí chóe giành nhau chỗ nằm… Bà nuôi chuẩn bị cho tôi nhiều thứ, từ hộp cao sao vàng, đến cái kim sợi chỉ và đồ ăn trong ngày. Cha tôi chỉ dặn: “Con cố gắng giữ gìn sức khỏe, công tác tốt… còn con gái như cái bèo sa đâu ấm đấy. Vào tới nơi gửi thư về cho bố mẹ con gái nhé”.
Con chim đã ra ràng và tung cánh bay một chuyến rất xa, rất xa vào phương Nam. Nơi ấy có thể là mảnh đất định cư của tôi, là tổ ấm mới của người con gái. Thế là tôi xa cái làng Chuông, xa dòng sông Đáy quanh co... Xa bãi cát bên bờ sông, xa vạt ngô xanh rờn, từng chùm hoa rung rinh phấn trắng và mỗi buổi chiều chúng tôi thả diều trên sườn đê, đuổi chim bắt bướm, chơi trốn tìm... và ghềnh Bàu, nơi có cây tre trụ dưới lòng sông mà mẹ tôi đã bám vào đấy như con nhái gặp lũ... Tuổi ấu thơ chính thức xa lắc từ đây, cả một trời tuổi thơ bắt đầu đi vào dĩ vãng.