Quân trang trí lại gian phòng vừa làm việc vừa là chỗ nghỉ của mình. Gian ngoài làm việc và tiếp khách, lùi một chút là gian trong kê chiếc giường cá nhân, một chiếc rương đựng quần áo, trên tường một chiếc mắc áo. Đời lính chiến chỉ vỏn vẹn có thế.
Mạnh mang vào một lọ sứ cắm mấy bông hoa dành dành vàng hoe đặt bàn, miệng toe toét cười:
- Thủ trưởng chưa vợ cần phải lãng mạn một tý thì con gái nó mới thích chứ ạ.
Quân quay ra cười hề hề, giọng Hà Tĩnh nặng như kéo vó:
- Tau ế rùi chứ mi.
Thấy thủ trưởng cười nói, Mạnh ngồi xuống ghế sửa lại mấy nhành hoa rồi tiếp chuyện:
- Hôm qua em lái xe đưa thủ trưởng qua bên Trường Công nhân Khảo sát, tiện thấy bên phòng cô nhân viên Tài chính có bụi cây dành dành em hái về đây cho thủ trưởng... À mà thủ trưởng ạ, cô ý cùng quê Hà Tây với em đấy. Người xinh xẻo cũng chưa chồng. Em trêu: “Ở bên anh có thủ trưởng Quân - Thiếu tá Chỉ huy phó ngoài băm cũng chưa vợ, em có ưng thì anh giới thiệu”.
Quân vừa lau chiếc xe máy, vừa nói chuyện với cậu lái xe:
- Vậy à? Cô ấy tên chi?
- Tên Thái anh ạ. Nói chuyện có duyên lắm. Lấy danh nghĩa đồng hương em có mời cô ý sang chơi thăm bên mình đấy. Chẳng gì thì cũng đơn vị kết nghĩa mà thủ trưởng.
Quân đang muốn nghe tiếp câu chuyện thì tiếng chuông điện thoại reo vang. Anh cầm tổ hợp nói chuyện. Mạnh đứng dậy chào ra về. Phía bên đầu dây tiếng ông Hiệu phó Trương Đà người Quảng Ngãi:
- Bên tui còn chục bao xi măng thôi anh. Anh cứ cho chở về xây bể cho cơ quan. Kết nghĩa là phải kết cho chặt như xi măng đấy anh, heng!
Bỏ chiếc tổ hợp xuống, Quân cứ bâng khuâng bởi câu nói của chú lái xe về cái cô Thái nào đó bên Trường Công nhân Khảo sát. Đời lính mải mê chiến đấu, đã ngoài ba mươi tuổi mà chả có chút mối tình giắt lưng lại càng làm cho Quân thêm tự ti.
Một cơn gió từ ngoài biển lạc vào căn phòng nóng nực làm cho khuôn mặt sạm nắng của Quân giãn ra tươi tỉnh. Anh chợt nhớ tới quê nhà, nhớ tới người mẹ hiền từ còm cõi của mình suốt đời soi gương mặt ruộng để nuôi con.
Quân sinh vào cái năm mà miền Bắc là điểm nhớ hận thù khi quân phát xít Nhật bắt nông dân phải nhổ lúa trồng đay. Mạ Quân đói quá không đủ sức để rặn đẻ được. Dì ruột Quân đang nuôi con phải vạch vú đặt vào miệng em bú lấy ít sữa để có sức mà rặn. Nhưng mạ anh chỉ rặn ra một cái bọc trông như cái dạ dày con lợn. Cha Quân bê cái bọc ra giường lăn đi lăn lại định bỏ đi thì thấy trong bọc ngọ nguậy, ông bèn cấu ra xem thế nào thì hóa ra thằng con trai nằm trong đó. Bảy anh chị em, Quân là con út, chưa đầy hai tuổi thì mồ côi cha. Mẹ anh một nách bảy đứa con, bà tần tảo sớm khuya như con chim cuốc lặn lội bờ ao để nuôi các con trưởng thành ở mảnh đất cằn cỗi Hà Tĩnh. Cho đến tận bây giờ Quân không thể hình dung nổi khuôn mặt cha, bức ảnh đen trắng duy nhất ông để lại chỉ nhỏ bằng hai đầu ngón tay, không đủ để trí tưởng tượng của Quân vẽ nổi hình dáng của cha mình.
Khi đế quốc Mỹ rang mảnh đất miền Nam bằng cái chảo chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, Quân chưa học hết cấp ba thì anh nhập ngũ vào Công an nhân dân vũ trang, rồi hành quân đi chiến trường B3. Anh tham gia chiến đấu ở các đơn vị an ninh vũ trang của Trung Trung Bộ từ ngày đó, trưởng thành từ người chiến sĩ đến đội trưởng đội an ninh vũ trang, với quân hàm đại úy khi kết thúc Chiến dịch Hồ Chí Minh, cũng không một ngày trường lớp. Gần đây Quân được trên bổ nhiệm Chỉ huy phó Công an vũ trang tỉnh và đề bạt quân hàm Thiếu tá.
Chiến trường B3 nổi tiếng ác liệt, nhưng điều nổi tiếng hơn là đói vì thiếu gạo, thiếu muối. Cả đời Quân chưa bao giờ có khái niệm cơm no, áo ấm. Ngay cả đến lúc này, khi đất nước đã hòa bình, Quân còn phải chạy lo từng bữa ăn cho bộ đội. Có thời kỳ phải ăn cả bo bo, củ mỳ để thay cho bát cơm. Nhưng Quân lại chỉ thương mạ, chưa bao giờ mạ được miếng cơm đúng nghĩa cơm. Hồi còn nhỏ, Quân nhớ mẹ lấy cám nuôi lợn dần lại cho nhuyễn rồi nấu cháo chia cho mỗi người mỗi bát. Đến mùa có hạt gạo, khi mở vung nồi cơm ra thì chỉ thấy khoai lang. Mẹ moi mãi được lưng cơm phần Quân, còn lại cả nhà chia nhau bát khoai ăn với nhút. Mà ngay cả bát khoai mẹ cũng nhường cho con, chỉ nhấm nháp qua quýt rồi ngồi nhìn các con và và húp húp. Người mẹ quắt lại trông như cành củi khô nhăn nheo cong queo. Mẹ vắt hết thịt, hết sữa nuôi các con thành người.
Có lần đi học, cuối buổi cả lớp ào ra sân, còn Quân thì gục trên bàn vì đói lả không bước đi nổi. Các bạn đã thay nhau cõng Quân về. Đến nhà Quân vật lên giường, mạ luống cuống xin bát cơm nguội hàng xóm giã nát trộn nước cho Quân nuốt.
Sau này Quân nhập ngũ, mẹ vuốt mái tóc bồng của Quân nước mắt lưng tròng, nói:
- Con đi đi, kiếm miếng cơm ăn con ạ. Con đừng có lo cho mạ ở nhà.
Nhưng Quân ra đi không chỉ vì miếng cơm, manh áo mà là vì những cái lớn hơn kia. Chính vì vậy mà sau mười năm xông pha nơi bom gầm, đạn réo, những chiến công vang dội anh mang đến chiến thắng cho đơn vị và được đề bạt Chỉ huy phó Ban chỉ huy Công an vũ trang tỉnh ở cái tuổi ba mươi.
Tiếng chuông điện thoại lại reo. Quân nhấc tổ hợp nói chuyện với Bí thư Tỉnh ủy:
- Vâng, kế hoạch bảo vệ Quy Nhơn và các mục tiêu trọng điểm đơn vị đã hoàn thành. Không có gì thay đổi, tuần sau chúng tôi sẽ báo cáo Thường vụ. Chỉ huy trưởng đi phép ngoài Bắc, mai sẽ có mặt.
Giọng Bắc của Bí thư Tỉnh ủy vang vang:
- Hòa bình rồi, cậu cũng quan tâm việc lập gia đình nhé. Lấy vợ cũng như người đi úp cá. Ngày còn ở nhà tớ hay đi úp cá. Cậu biết úp cá là thế nào rồi mà, nước mênh mông biết chỗ nào có cá, chỗ nào không. Cứ úp bừa, kịch một cái là nhấn cái nơm, rồi cho tay xuống mò. Cá bé thì thôi, cá to thì bắt lên. Thế là xong. Lấy ai cũng được, nhưng nhớ là đừng động vào con tư sản, con ngụy quân, ngụy quyền, tổ chức không cho cưới đâu.
Buông chiếc tổ hợp, Quân thừ người ngồi tư lự. Ngoài sân, trên hàng rào dây thép gai những chùm hoa thiên lý khiêm nhường nở rộ. Màu hoa trắng nhã, hoa không rực rỡ muôn màu, nhưng nhờ nhụy của nó thơm ngát bởi những giọt mật lặng lẽ phát tán, nên đã quyến rũ đàn ong bướm dập dìu.
Quân nhớ đến việc tiếp tục sang bên Trường Công nhân Khảo sát liên hệ xin xi măng xây bể cho bộ đội.
* * *
Tháng sáu, miền Bắc năm ấy nắng như đổ lửa. Từ trong cổng trường nhìn ra quốc lộ 22 những sóng nắng chập chờn như vầng lửa. Không khí ngột ngạt, tay ai cũng không ngớt cầm chiếc quạt mo, hoặc quạt nan, quạt giấy phe phẩy. Mồ hôi trong người lúc nào cũng nhớp nháp. Ngồi trong nhà nhìn ra vườn cây của trường lặng im như những cột tiêu không chút lay động. Gió trốn đi, cái mát cũng trốn theo. Khái niệm ấm áp, đầm ấm không còn hiện hữu.
Thế nhưng thầy và trò chuẩn bị lên đường vào Nam thì lòng dạ lại tưng bừng náo nhiệt. Niềm vui hiện rõ trên từng khuôn mặt tuổi trẻ. Chuyến “di cư” vào phương Nam của trường đợt này gồm: Gia đình thầy Trương Đà - Hiệu phó, rồi cô Nga, anh Hợi, anh Tích và Nguyễn Thị Duyên cùng Thái. Thầy Đà vui nhất, cảm xúc của thầy khó diễn tả bởi vì quê thầy ở Quảng Ngãi và đã tập kết ra Bắc bao nhiêu năm nay, giờ đất nước thống nhất mới được trở lại quê nhà mang theo cả vợ và con. Niềm vui của thầy lan sang cả đoàn. Thầy kể, không biết người thân của thầy bao nhiêu năm chiến tranh loạn lạc và ác liệt bây giờ ai còn ai mất. Những kỷ niệm ấu thơ cứ từng đêm ùa về day dứt cắn cứa tấm lòng yêu quê hương dạn dày lửa đạn đến đau đáu. Và bây giờ, sắp tới đây thầy trọn niềm vui trở về để ùa vào vòng tay ấm của gia đình, của quê hương yêu dấu.
Mọi người vất vưởng trên chiếc xe tải ba ngày ba đêm thì bò được vào tới Trường Công nhân Khảo sát. Một ngôi trường được tiếp quản của một cơ sở của chế độ cũ. Cảm giác đầu tiên của Thái là nắng rát, khô và cát bỏng. Trong cái dải đất hình chữ S Việt Nam, một nhà thơ nào đã ví nó giống như một người đàn bà cong lưng gánh nặng, thì cái phần lưng cong lên gánh nắng gánh mưa, chịu nhiều cay đắng nhất của trời. Không dừng lại ở đó, trên đất nước chiến tranh liên miên thì cái phần lưng cũng hứng nhiều bom đạn nhất. Từ Quảng Bình, qua Trị Thiên - Huế, xuyên qua Quảng Nam - Đà Nẵng, rồi đến Quy Nhơn, Bình Định... mảnh đất Khu Năm dằng dặc như dải khoai lang bò trên bãi cát trắng, chỉ thấy cát và nắng. Làng mạc tiêu điều sau chiến tranh. Thi thoảng đi qua một vài thị xã, cảm giác của Thái là bảng hiệu loè loẹt quảng cáo. Khác với miền Bắc, đi tìm cơ quan cũng khó, trong khi khẩu hiệu thì rất nhiều. Lúc bấy giờ các thầy giải thích chế độ tư bản chỉ loè loẹt giả hiệu vậy thôi, chứ Thái cũng không hiểu đó là đặc trưng hình thức của nền kinh tế thị trường.
Trường Công nhân Khảo sát bắt đầu ở giai đoạn thành lập. Thầy Trương Đà được điều vào làm Hiệu phó đào tạo. Ngoài ngôi nhà Hiệu bộ, trường có hai dãy nhà cấp bốn. Bộ khung được bố trí hai người một phòng khoảng 12 mét vuông. Ăn bếp tập thể, nếu ai tự nấu thì bắc bếp ngoài hiên nhà. Học viên chủ yếu người miền Nam.
Cái nắng nóng ở miền Nam tuy vậy nhưng dễ chịu hơn miền Bắc. Vì độ ẩm cao, nên nóng nhưng không đến nỗi khô, hanh và oi như miền Bắc. Nóng nhưng buổi tối thì lại dìu dịu, không hừng hực suốt đêm ngày. Ra đường, có người cởi trần, nhưng lại cũng có người mặc áo len mỏng.
Khổ nhất là mỗi khi tiếp xúc với bà con. Tiếng Khu Năm đối với Thái thật khó nghe, cứ như giao tiếp với người khác quốc tịch, nghe mãi mà chẳng hiểu. Một lần mấy chị em Thái nói chuyện với một chị. Chị hoa tay múa chân nói:
- Néo béng kéo đéc. Tiu nèng xéng, séc bẻ đèo.
Về nhà hỏi thầy Đà. Thầy dịch:
- Nó bắn cái đốp. Tui nằm xuống, suýt bể đầu.
Mấy chị em nhìn nhau cười hề hề. Các anh chị trêu lại Thái:
- Chả khó bằng tiếng Hà Tây quê lụa nhà em. Ai lại: “Anh bô đôi ơi! Đéo em với” (Anh bộ đội ơi, đèo em với).
Thời kỳ đầu, nhà trường thiếu nhân viên kế toán nên Thái được phân công làm ở bộ phận kế toán. Công việc kế toán của nhà trường ổn định cũng không mấy vất vả. Lúc đầu còn bỡ ngỡ vì Thái chưa học kế toán ngày nào, giờ động vào con số và sổ sách thì cũng như trận đồ bát quái. Thái giãy nảy:
- Em học địa chất sao phân công em làm kế toán? Rồi lại nhầm lẫn hết.
Thầy Trương Đà giải thích:
- Làm được hết em ạ. Cứ làm đi, không biết thì hỏi.
Chồng con chưa có, không phải lo cơm áo gạo tiền; không phải lo gia đình nội ngoại. Một thân gái tuổi hai mươi - hồn quay trong gió bão, ăn cơm tập thể, nằm giường cá nhân. Tuổi trẻ thật vô tư và tươi sáng biết bao.
Học viên miền Nam nhiều người trình độ văn hoá còn rất thấp, chủ trương của nhà trường cần phải bổ túc văn hoá cho họ trước khi vào học chuyên môn. Vì vậy một số cán bộ, giáo viên phải chuyển sang giảng dạy văn hoá. Thái lại được điều sang tổ giáo viên văn hoá, khoa đào tạo. Con gái còn trẻ, đứng trên bục giảng, trước những học viên có người còn lớn tuổi hơn mình đã làm Thái lo sợ. Điều lo sợ nữa là kiến thức sư phạm có được học ngày nào. Dạy không nổi biết làm sao đây? Kế toán làm sai có người chỉ bảo, cùng lắm thì mấy người trong bộ phận biết với nhau. Đứng trên bục mà không dạy nổi, hoặc sai sót thì biết chạy đường nào? Thái phải đóng cửa phòng tập lên lớp, tập viết phấn bảng. Tập cả cách đối phó khi học viên lớn tuổi trêu cô giáo. Thái nghe các anh bộ đội bên Trường Hạ sĩ quan Quân khu 5 kể: “Cô giáo môn Lý dạy bổ túc văn hoá cho bộ đội lớn tuổi hơn mình. Cô hỏi một học viên lớn tuổi:
- Đồng chí cho biết: Một lít đổi ra bằng bao nhiêu mililít?
Học viên:
- Thưa cô... một lít là bốn xị. Mỗi xị là bốn ly. Vị chi là mười sáu ly.
Cô giáo chỉ vào con số trên bảng:
- Đồng chí có nhìn rõ không?
Học viên:
- Thưa cô, cô đứng thế tôi chỉ thấy lờ mờ ạ.
Cứ nghe các anh ấy thêu dệt mà Thái sợ. Thành ra suốt ngày đóng cửa tập cho thuần thục. Ấy rồi mọi việc đều qua, và xuôi bè mát mái. Cô giáo và học viên quấn quýt, có những lúc còn nhớ lớp nữa.
Những kỷ niệm theo năm tháng cứ chất đầy dần. Ngôi trường heo hút, nghèo khó ngày nào được giàu lên bởi kỷ niệm tình người, tình đồng nghiệp, tình thầy trò. Tình yêu khoả lấp tất cả những thiếu thốn, khó khăn, nó làm cho cuộc sống nở hoa, kết trái. Giống như cái dây bầu Thái trồng trên cát trắng ngoài hàng rào dây thép gai, mới ngày nào mà bây giờ nó vươn lên leo trên hàng rào đầy gai nhọn và sớm hôm nay, một bông hoa trắng muốt, rung rinh nhuỵ phấn nở bung. Chao ơi! Không có hạnh phúc nào không xây đắp, chắt chiu bởi khó khăn nhọc nhằn, đau khổ.
* * *
Gần Trường Công nhân Khảo sát có cơ quan Ban chỉ huy Công an nhân dân vũ trang tỉnh. Đó là đơn vị của Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang1 được thành lập sau giải phóng miền Nam làm nhiệm vụ an ninh chính trị. Cán bộ, chiến sĩ hầu hết từ các đội biệt động, đội an ninh vũ trang, một số điều động từ ngoài Bắc vào, một số chuyển từ quân đội sang, hầu hết được rèn luyện qua chiến đấu và công tác. Đội ngũ cán bộ hầu hết là người Bắc. Chiến sĩ thì lẫn Bắc và Nam, nhưng người Nam đông hơn.
Trường Công nhân Khảo sát kết nghĩa với Cơ quan Ban Chỉ huy để giúp đỡ nhau trong quá trình xây dựng, học tập và công tác. Bên này cần gì thì bên kia sẽ hỗ trợ nếu có.
Một hôm vào một buổi sáng Thái đang ngồi trong phòng kế toán làm việc, ngẩng lên thấy một anh công an đứng ở cửa phòng nhoẻn miệng cười:
- Chào cô!
- Em chào anh! Anh có việc gì đấy ạ?
Anh công an vẫn tựa cửa nói:
- Tôi tên là Mạnh, Bùi Mạnh lái xe cho thủ trưởng bên công an vũ trang. Hôm nay tôi chở thủ trưởng sang gặp hiệu phó trường cô “mượn” mấy bao xi măng về xây giếng lấy nước cho cơ quan. Cô làm ở phòng kế toán à?
Thái đặt cây bút xuống bàn niềm nở:
- Anh vào nhà uống nước đã.
Mạnh vui vẻ cám ơn và nói rằng chỉ đứng nhờ một chút chờ thủ trưởng làm việc xong là đi ngay.
Cùng là người Bắc lại sống xa quê khi gặp nhau thì tình cảm rất quý mến. Hơn nữa Mạnh đứng đó thì làm sao Thái ngồi làm việc được. Thế là Thái bắt đầu trò chuyện:
- Vâng em làm kế toán.
- Cô làm kế toán lâu chưa?
- Em làm cũng được mấy tháng rồi anh ạ. Anh Mạnh ngoài Bắc quê ở đâu vậy?
- Tôi ở Hà Tây - huyện Chương Mỹ, còn cô?
Vừa nghe Chương Mỹ, lòng Thái đã rộn lên như gặp được người thân của mình. Thái nói như reo:
- Em cũng quê Hà Tây đây. Em huyện Thanh Oai.
Đôi mắt Mạnh ánh lên như cười. Xa quê gặp được người cùng huyện thì kể như là người nhà rồi. Họ ríu rít đủ mọi thứ chuyện về quê hương không biết chán. Thái lấy ghế cho Mạnh ngồi, rót nước cho Mạnh uống. Khi vãn chuyện Thái hỏi:
- Thủ trưởng anh Mạnh tên là gì?
- Tên là Thủ trưởng Báu, cô ạ.
Vừa nghe tên Báu, Thái giật thót mình. Thái nghĩ ngay đến Lê Thị Son quê Quốc Oai, cùng cái nhóm năm đứa báo bốn suất cơm ở trường trung cấp ngày nào. Nhưng Son không được điều động vào Nam cùng Thái mà nhận công tác ở miền Bắc. Son kể cô có yêu một anh công an vũ trang người miền Nam. Anh này tên Báu, cao to đẹp trai lắm. Sau khi giải phóng miền Nam anh Báu đã rút vào Nam. Biết đâu có thể là anh Báu thủ trưởng này. Nghĩ thế nên Thái nói:
- Anh Mạnh về hỏi Thủ trưởng Báu xem có quen cô nào ở Quốc Oai - Hà Tây không nhé?
Câu chuyện cũng kết thúc, bởi thủ trưởng đã làm xong việc và lái xe Mạnh phải chở thủ trưởng về. Thái đứng dậy tiễn chân Mạnh và hẹn nhau rảnh rỗi thì sang chơi cho đỡ nhớ quê nhà.
Sáng hôm sau, Thái đang ngồi làm việc thì Mạnh xuất hiện tươi cười:
- Chào cô Thái! Thủ trưởng Báu sai tôi sang mời cô quá bộ qua cơ quan chơi.
Thái ngỡ ngàng:
- Ôi, em đâu dám sang chơi với thủ trưởng của anh.
Mạnh nài nỉ:
- Không mà, thủ trưởng bảo tôi sang nói thủ trưởng mời chị sang chơi. Tôi đánh xe sang đây rồi.
Mấy anh chị em trong bộ phận cũng giục Thái đi mau. Đó là mối quan hệ hai cơ quan với nhau. Đó là công việc, là nhiệm vụ...
Thái sửa sang lại một chút “mặt tiền” rồi vui vẻ chào mọi người ra xe.
Vừa bước vào nhà, hình ảnh một anh Báu cao to đẹp trai qua lời kể của Son đã hiện ra. Cùng phòng còn có một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi, đeo quân hàm thiếu tá, dáng người nhỏ bé, da khô, đen sạm, tiếng Khu Bốn.
Anh Báu mời Thái ngồi xuống ghế, rót nước mời Thái uống và giới thiệu người cùng cơ quan là Thiếu tá Vũ Hồng Quân, Chỉ huy phó, quê Hà Tĩnh. Anh Báu sắc nét, nổi bật bao nhiêu thì anh Quân khiêm nhường mờ nhạt bấy nhiêu.
Anh Báu hỏi Thái rất nhiều chuyện và rồi thổ lộ anh chính là người yêu của Son. Anh kể lại bao nhiêu kỷ niệm của anh với Son một cách thú vị và trân trọng, hứng chí anh còn mở rương lấy ra những bức thư của Son đã gửi cho anh. Anh chọn đọc những câu anh cho là thú vị và tình cảm vô bờ bến. Thái thầm ghen tỵ với Son đã có một mối tình rất đẹp.
Ngồi bên cạnh, Quân thi thoảng chêm vào một câu và giúp anh Báu pha trà, rót nước. Hôm ấy Thái được các anh giữ lại ăn bữa cơm lính tráng. Bữa cơm tuy nấu còn vụng, nhưng rất dễ ăn. Mọi người trò chuyện thoải mái. Một phần Báu coi Thái như người thân của Son, phần nữa hình như là tác phong của người lính giống như nước, ở môi trường nào nước cũng thấm được vì thế mà kéo gần con người lại.
Ra về theo phong cách xã giao, Thái cũng mời các anh rảnh rỗi thì sang trường chơi cho vui thôi. Cả Báu và Quân đều tiễn chân Thái ra xe.
1. . Nay là Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng.