Cuộc tiếp xúc của Thái với các anh công an thật ấm tình. Có lẽ tác phong người lính đã khiến cho Thái cảm thấy gần gũi thân thương. Hơn nữa anh trai Thái cũng đã, đang là lính. Mà cuộc đời lính của anh trai đã khiến cả gia đình Thái phải dồn tất cả tình cảm với những cung bậc tột cùng không bao giờ quên được.
Ra về rồi mà dư âm cuộc gặp cứ vương vấn trong lòng Thái mãi. Không thể gọi tên cụ thể, nhưng nó cứ râm ran trong lòng như ai đã thắp lên một niềm vui khôn tả, một hy vọng mơ hồ.
Chỉ ngày hôm sau, Vũ Hồng Quân đã xuất hiện ở cơ quan Thái. Họ trò chuyện không ra đâu vào đâu. Nhưng cái cách Quân sang chơi, nói chuyện, đi lại giống như người chiến sĩ, xác định được mục tiêu rồi thì quyết đánh, đánh tới cùng. Sau này, Thái thấy các anh bộ đội thường nói với nhau cách tán gái theo cách đánh của bộ đội Đặc công là phải “bám thắt lưng địch mà đánh”, “đánh từ trong đánh ra”, hay phải “đánh nở hoa trong lòng địch”.
Những ngày sau đó Quân tả xung hữu đột thật. Anh biết Hiệu phó Trương Đà có ý mai mối Thái với em trai, Quân lên chơi với các anh ở Hiệu bộ rồi đặt thẳng vấn đề với thầy Đà nhờ giúp đỡ tác hợp lương duyên với Thái. Anh biết trong trường có nam giáo viên định tìm hiểu Thái, anh cũng gặp tác động luôn. Rồi Quân chơi thân với các bạn nữ đồng nghiệp của Thái nhờ họ giúp đỡ. Quân biết trong trường có chị Ràng trước cùng đội vũ trang an ninh nay chuyển ngành về làm y tế của trường, anh coi đó là lực lượng hậu thuẫn quan trọng để đánh đổ đối phương.
Khi Trương Đà gặp Thái để thuyết phục, cô ngại ngùng thổ lộ:
- Nhưng mà... anh ấy nhiều tuổi... mà trông thiếu sức sống quá.
Trương Đà giải thích:
- Người ta đi chiến đấu vì dân vì nước, hy sinh cả tuổi xuân nên mới muộn xây dựng gia đình. Lính chiến đánh nhau thì lấy đâu ra mặt hoa da phấn hả em?
Thái lại nói:
- Biết đâu lại có gia đình rồi cũng nên.
- Cái cô này hay nhỉ. Công an người ta có lời thề danh dự. Họ quản lý con người chặt, kỷ luật nghiêm như gỗ lim. Lý lịch thế nào người ta chả biết. Cô cứ lo cá sấu không răng.
Thấy Thái vặn ngón tay, Trương Đà bồi luôn:
- Công an nhân dân vũ trang là nhất rồi. Anh ấy còn ít tuổi mà đã thiếu tá là chiến đấu tài giỏi lắm đấy. Dân Nghệ người ta có ý chí.
Vừa thân, vừa cả nể Trương Đà, hơn nữa lời nói của thầy gần như đã giải thích mọi nghi ngờ lấn cấn của Thái. Khi ra về, Trương Đà còn dặn:
- Thế nhé. Cứ thế nhé...
Trở về nhà, đêm ấy Thái suy nghĩ mông lung. Ngoài trời những ngôi sao cứ lung linh mờ tỏ, vừa xa lại vừa gần. Nó xa bởi vì tầm trí hiểu của con người chưa với tới. Nó gần vì nó có vẻ thân thương và cũng đang thắp sáng trong ánh mắt của con người. Thái kéo tấm đắp ngang ngực, bồi hồi nghĩ đến tương lai. Đất nước hoà bình thống nhất rồi thì người lính cũng đỡ vất vả, không còn chịu cảnh báo tử nhầm như anh trai mình nữa. Đàn bà cũng không còn lý do gì mà nguyện làm hòn Vọng Phu như chị Tường. Người lính mãi mãi là hình tượng trong nhà trường, trong cuộc sống của mỗi người dân Việt Nam.
Ngoài thời gian làm việc, rảnh rỗi là Quân sang chơi, anh còn viết rất nhiều thư đưa cho Bùi Mạnh chuyển cho Thái. Bùi Mạnh đúng là con bồ câu đưa thư mẫn cán nhiệt tình và trung thành của hai người. Có tuần Thái nhận được của Quân đến mấy lá thư. Rồi chị Ràng nói vào, mọi người vun vén. Không một ai, một khe hở nào bàn ra hoặc có ý phá đám. Toàn bộ tâm trí Thái bị cách đánh của người lính bao vây chặt.
Quân và Thái gặp nhau thường vào thứ bảy hay chủ nhật bằng những bức thư hẹn do Bùi Mạnh chuyển cho. Thái viết: “Muốn gặp em thì dễ thôi”. “Mai em ở nhà. Chủ nhật nếu có niềm vui nhỏ nhỏ thì vui nhỉ”. Còn Quân sang Thái thường ở bên phòng các bạn, chờ cho phòng Thái vãn khách thì anh mới sang. Sau này họ thường hẹn nhau ra quốc lộ ngồi trò chuyện. Anh em xe ôm thấy trai gái ngồi trò chuyện thường bấm đèn loạn xị, bấm còi kêu inh ỏi. Quân bảo “tình yêu trên từng cây số”.
Năm tháng trôi đi, những buổi hẹn hò, những bức thư có khi viết vội chỉ mấy chữ, có khi dài cả một tờ giấy, những món quà nho nhỏ nhân ngày nọ, ngày kia, những lo lắng, giận hờn vô cớ... dần dần đã dệt thành chuỗi kỷ niệm không bao giờ quên được giữa Quân và Thái. Rồi tình yêu cứ thế len lỏi lớn dần và hiện hữu như hạt mầm gieo trong hốc đá, chứ họ cũng không có cuộc đính hôn như bao người. Không hứa hẹn, không trả lời...
Một buổi tối, Quân hẹn Thái ra quốc lộ. Trời tháng năm nóng như cát rang. Nhựa đường hắt lên còn âm ỉ oi nồng cái nắng ban ngày. Quân lấy tờ báo lót lên chiếc dép rọ màu nâu để Thái ngồi. Phía sau lưng những chiếc xe lam, rồi xe đò đường dài hét còi inh ỏi, mặt đường rung lên như động đất.
Mấy câu thăm hỏi, rồi Quân nói đến tình hình chiến sự phía Tây Nam, bọn Pôn Pốt đưa quân sang biên giới Việt Nam giết hại dân lành. Lực lượng vũ trang lại sẵn sàng chiến đấu. Những người lính như anh lại tiếp tục cầm súng ra mặt trận. Anh ngẩng lên nhìn ra phía xa xa chân trời. Nơi đó có những chấm sao li ti nhấp nháy như những đoàn quân đang dàn trận. Thái hình dung anh đang tưởng tượng nơi đó là chiến trường máu lửa, sắp tới đây anh phải xông pha trước hòn tên mũi đạn. Anh rủ rỉ:
- Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang thành lập 7 trung đoàn công an vũ trang sang biên giới chiến đấu em ạ. Anh được Bộ Tư lệnh điều về làm Trung đoàn trưởng một trung đoàn.
Thái quay sang hỏi:
- Trung đoàn ở đâu vậy anh?
- Ngoài Đà Nẵng... và có thể sang chiến trường Cam-pu-chia giúp cách mạng nước bạn.
Thái chẳng biết nói gì. Trong đầu Thái thoáng nghĩ, chẳng lẽ từ nay không còn những buổi hẹn hò lãng mạn thế này sao? Từ nay không còn những bức thư viết vội mà anh Mạnh chuyển cho Thái nữa sao? Người đàn ông đầu tiên Thái có ý định đặt cược cả cuộc đời mình thì lại xa vắng thế này sao?
Phụ nữ miền Bắc thế hệ Thái lấy chồng phải xa chồng biền biệt, phải nuôi con một mình như chế độ mẫu hệ đã là một mặc nhiên mà mọi người chấp nhận. Chính vì vậy mà khi Quân thông báo đi Đà Nẵng về đơn vị chiến đấu cũng không làm Thái hoang mang lắm. Chỉ có sự trống vắng bắt đầu xâm lấn tâm trí cô. Có cái gì đó như mất mát, như đơn côi, nhẹ nhàng thôi nhưng lan tỏa cả cõi lòng.
Đến khi Quân đi rồi Thái mới cảm thấy cô đơn và trống trải. Một khoảng trống rỗng roãng trong tâm hồn làm Thái hoang hoải mất một thời gian. Thái nhớ anh, nhớ giọng nói Hà Tĩnh ấm áp của anh. Thái nhớ cái nhìn trìu mến, nhớ cử chỉ vụng về sợ làm mếch lòng bạn gái thật đáng yêu, rồi nhớ cả nếp sinh hoạt giản dị đến thô ráp vừa là chất xứ Nghệ, vừa là chất lính chiến kết thành... tất cả đã hình thành như một phần đời của Thái?
* * *
Từ đó họ nuôi tình yêu bằng sự chờ đợi những bức thư qua đường bưu điện. Hoặc thi thoảng Quân tạt qua đơn vị cũ thì hẹn gặp nhau. Những lần như thế Thái cảm thấy tình yêu trong mình như nụ hoa đang hé nở.
Một hôm, trước lúc Quân đưa trung đoàn hành quân sang chiến trường Cam-pu-chia, anh cưỡi chiếc Hon-đa 67 về gặp Thái. Ngồi trong phòng Thái đem chuyện gia đình ở ngoài Bắc có mối mai cho cô một chàng công an vũ trang công tác ở Hà Nội. Anh quay sang hỏi:
- Em nói cái gì anh không hiểu?
Thái nói:
- Thì ý anh thế nào? Nghĩa là ở quê, gia đình em muốn em lấy cái anh công an vũ trang đó. Anh ấy cũng tốt. Nhưng em chưa quyết định.
Quân ngồi buồn xo suy nghĩ rất lâu mà không nói gì. Có lẽ Thái nói vậy là để thử thách mình đây chăng? Cũng có thể là Thái tìm lối thoát không muốn gắn đời mình với một người lính sắp ra mặt trận. Ông bà chả có câu, chim đậu chẳng bắt lại đi bắt chim bay. Dẫu gì anh chàng công an vũ trang cũng đang ở hậu phương an toàn, còn mình... Theo điều lệnh quân đội, Quân là cấp trên của người ấy, chả lẽ mình lại đi giành người yêu với cấp dưới. Nghĩ thế Quân đành nói:
- Thì em hãy quyết định theo tiếng gọi của trái tim.
Hôm sau Thái có cuộc họp về ngành ở Quy Nhơn. Quân đề nghị để anh chở Thái bằng chiếc xe Hon-đa 67 đi cho tiện và cũng là để thử lòng Thái xem sao. Thái cũng quyết định bằng tiếng nói của trái tim mình là đồng ý để anh chở đi. Đi từ chiều, đến nơi thì đã tối, nên cơ quan nơi họp đã đóng cửa, không tiếp. Họ buộc phải vào nhà trọ ở bến xe Quy Nhơn để ngủ qua đêm.
Trong một phòng trọ tại bến xe, có hai cái giường được ngăn cách bằng một tấm vải bạt. Đêm, không tài nào chợp mắt nổi, trong lòng họ cứ xốn xang những ý tưởng lộn xộn, vì sáng mai Thái thì ở lại họp, còn Quân phải sang chiến trường máu lửa, biết còn có ngày gặp lại... Đồng ý lấy người lính ra trận quả là một quyết định liều lĩnh của Thái. Mà cái đất nước này cũng đã trải qua mấy chục năm chiến tranh rồi, đã có biết bao người phụ nữ thành hòn Vọng Phu. Chị dâu Thái cũng đã là như thế. Nhưng sao trái tim Thái vẫn cứ nghiêng về nơi ấy. Nơi ấy là một người đàn ông dạn dày lửa đạn, đã chinh phục hoàn toàn trái tim Thái. Nơi ấy là một chàng trai đang nằm đây, chỉ cách Thái có một tấm vải bạt, cô nghe rõ tiếng thở ngập ngừng, nghe được cả tiếng trái tim yêu thương đang thập thình bên cạnh. Ước gì mình đã được làm vợ anh, ước gì mình đã là của nhau, để ngày mai anh ra nơi chiến trận được thanh thản.
Một lát dường như không thể, Quân rời chiếc giường đang nằm, gạt tấm vải bạt ngăn cách và leo sang giường bên. Theo phản ứng tự nhiên, Thái giãy nảy, nói như van xin:
- Anh về giường đi, em xin anh đừng làm thế!...
Quân cố ập xuống, nhưng đôi bàn tay Thái cũng cố đẩy ra. Chừng như câu nói “em xin anh” có sức mạnh kỳ lạ, khiến lòng quyết tâm của người lính chùng lại. Anh chỉ ập xuống cảm nhận tình yêu trong chốc lát, đóng dấu đôi môi mình vào đôi môi người yêu, vội vàng như sợ kẻ cướp lấy, ghì một cái tưởng như người Thái vỡ ra rồi trở lại giường mình.
Chừng như chưa thể thỏa mãn, Quân lại luồn bàn tay qua tấm bạt lần tìm bàn tay Thái. Họ cứ nắm thế mà thao thức mãi, cho đến khi không chịu nổi, anh vạch tấm bạt quay ngang người, thò đầu mình qua giường người yêu, để cho Thái cuống quýt gắn nụ hôn của mình vào đôi môi nóng bỏng... thế cho đến gần sáng.
Khi Quân rú ga chiếc xe Hon-đa 67, chạy về phía bắc, Thái đứng nhìn cái bóng màu xanh mờ dần mà cứ ngỡ mình như người vợ tiễn chân chồng ra mặt trận phía góc trời. Vừa thương anh lại vừa giận mình. Cô không thể làm được cái điều dù trong lòng rất muốn. Thái chỉ có thể làm được một chút để anh yên tâm ra chiến trường, rằng Thái sẽ chờ và dành cho anh tất cả. Thái đã làm được một cái điều mà không dễ ai lúc này làm được, nó giống như lời hứa của người chinh phụ đối với người đàn ông xông pha vào nơi binh đao khói lửa.
Chị dâu Thái ngày trước cũng đã hứa với anh trai Thái trước lúc anh vào chiến trường. Đi chiến trường thời bấy giờ, không nói ra nhưng trong thâm tâm ai cũng nghĩ đến ngày trở về mong manh lắm. Bởi đi vào chỗ nơi hòn tên mũi đạn, sống chết chỉ là gang tấc. Đã biết bao tác phẩm văn học để đời khắc hoạ hoàn cảnh này: Chinh phụ ngâm, Đoạn trường tân thanh, v.v... trở về được chỉ là may mắn. Vậy mà chị dâu Thái đã làm một điều mà ít người phụ nữ làm được. Đến khi người ta báo tử anh rồi, mà chị vẫn chờ đợi. Sự chờ đợi bằng lòng tin của tình yêu và tâm linh. Thực ra tình yêu của chị đủ lớn đến mức khước từ mọi hiện thực phũ phàng. Rất may, chị được đền bù xứng đáng. Nhưng thời ấy khác với bây giờ. Thời ấy cả nước trong lò lửa chiến tranh, còn bây giờ sau lưng người lính là phồn hoa đô thị, mọi người lo làm giàu, lo kiếm chác và không ít hiện tượng tiêu cực. Vậy mà Thái vẫn làm theo tiếng gọi của trái tim, đặt cược cuộc đời mình vào người lính ngày mai ra mặt trận. Nếu mang ra cân đong đo đếm, có lẽ Thái cũng có một tình yêu không kém gì chị dâu.
Bắt đầu từ đây Thái gửi hồn vào chiến sự ở biên giới Tây Nam. Những trận đánh giữa hai bên, những vụ tàn sát đẫm máu của quân địch với nhân dân vùng biên giới khiến Thái ăn ngủ không yên và không thể không liên hệ tới Quân, rằng quân địch chết như thế thì liệu quân ta sẽ hy sinh bao nhiêu? Trong đó có anh không? Viên đạn chiến tranh bắn ra có chừa một ai đâu. Những đêm dài Thái nằm mà tưởng tượng cảnh chiến trường. Cảnh lễ báo tử anh trai mình. Cảnh chị dâu mòn mỏi đợi chờ. Càng tưởng tượng càng căng thẳng. Có những đêm gần sáng mới thiếp đi được thì đã báo thức. Có lẽ hơn ai hết những người phụ nữ ở một đất nước chiến tranh liên miên, họ là người chịu đau khổ hơn ai hết, họ mới chính là người bị chiến tranh giày vò và nghiền nát nhiều nhất, bền bỉ nhất. Bà mẹ Nguyễn Thị Thứ ở Quảng Nam là một ví dụ. Những đứa con của bà bị chiến tranh cướp đi đã đau đớn, nhưng trời bắt bà sống hơn một thế kỷ để cảm nhận đến hết, đến tận cùng từng tế bào, từng hơi thở của nỗi đau đời người mới kinh khủng làm sao.
Có lẽ những lý giải ấy cứ ngày đêm thấm vào từng đường gân thớ thịt của Thái, rồi dần dần nó biến thành tình thương vô bờ bến của Thái đối với người lính mà cụ thể là Quân. Cuộc sống hàng ngày của Thái ngoài khi làm việc ở cơ quan thì mọi tâm trí bị xâm chiếm bởi tình hình chiến trường. Hình ảnh Quân mỗi ngày một hiện hữu không thể nào phai mờ trong cô.
* * *
Cuối năm 1978, trong trường có tin đồn Quân bị thương nặng. Thái hoang mang không biết phải làm thế nào? Hẳn anh đã là chồng Thái thì đi một nhẽ, đằng này chỉ là người yêu, nên bên ngoài Thái phải cười nói bình thường, nhưng trong lòng, nhất là đêm về thì như vò muối, ruột gan như trong chảo dầu. Thái dò hỏi, ra chị Ràng:
- Chị Ràng ơi! Chị có nghe tin anh Quân bị thương không vậy?
Chị Ràng đặt bàn tay lên vai Thái:
- Có chuyện đó sao em? Để chị hỏi coi thế nào? Nhưng nếu anh ấy bị thương thì phải điều trị ở bệnh viện Quân khu chứ?
Mùa đông năm ấy ảm đạm chưa từng có trong đời Thái. Nhìn lên bầu trời Thái hướng tầm mắt về phía biên giới. Xa xa những rặng núi mờ ám ảnh. Ở đó là đâu? Có anh đang hành quân? Hay bị thương nằm trên chiếc cáng? Nhìn lên bầu trời xanh, những mảng mây màu xám đục trôi lững lờ phía chân trời xa. Không biết anh ở đâu? Sống chết thế nào? Ở góc trời một mảng mây màu sáng vàng trồi lên trông giống như một vùng hy vọng. Thái lại nghĩ đến anh Thu, báo tử rồi mà vẫn trở về.
Chị Ràng nói:
- Để chị điều tra coi tình hình thế nào. Em cứ yên tâm, chắc là không sao đâu.
Cuối cùng thì bức thư Quân gửi từ bao giờ, lưu lạc cùng mây gió cũng về đến tay Thái. Hoá ra anh bị sốt rét nặng, được đơn vị đưa từ Cam-pu-chia về nước đang điều trị ở bệnh viện Quân khu. Thái tức tốc bắt xe đò đi gần 40 cây số vào viện thăm anh. Trời! Anh như một hình nhân nằm quắt queo trên giường bệnh. Người anh bé tý, da đen sạm như giun chết, môi thì thâm, mắt thì trắng. Lúc anh sốt nóng, lúc thì lạnh. Chất bao nhiêu chăn lên người mà anh cứ run lên bần bật. Anh bảo:
- Rét từ trong xương rét ra. Giờ mà em nằm đè lên anh thì đỡ.
Nhưng nào Thái có dám đè lên anh. Sau này Thái cũng bị sốt xuất huyết thì mới có cảm nhận nếu được vật gì đè lên người rất dễ chịu.
Trên cọc màn đầu giường, một bình huyết tương đang nhỏ từng giọt chảy vào cơ thể anh. Y tá mang một chiếc xi lanh to đùng, bên trong thuốc quinin đặc quánh màu vàng, nói anh nằm sấp, vạch mông rồi cầm ngược xi lanh cắm phập vào mông. Trời! Đến cả cách tiêm của lính cũng khác, cứ như là bắn súng.
Trong bệnh viện rất nhiều thương binh và bệnh binh từ chiến trường Cam-pu-chia về điều trị. Nhiều anh còn rất trẻ. Có anh cụt chân, cụt tay, có người mất mắt, lại có anh mất cả bộ phận sinh dục. Nhưng rất lạ là họ vẫn yêu đời, không mấy khi buồn bã hoặc bi quan yếu thế. Họ cười đùa và còn nói tếu đến vô cùng. Thái cũng lây cả cái tếu táo của họ.
Thái chỉ ở và chăm sóc Quân được một ngày, không dám ở thêm. Tối khuya Thái ra chị Ràng ngủ lại, rồi sáng hôm sau về trường cũng đã bị người ta dị nghị, hỏi đủ điều nên phải giải thích.
Quân điều trị ở viện được một thời gian, và Thái cũng tranh thủ những ngày nghỉ chăm sóc anh, đến đầu năm 1979 thì xuất viện trở lại chiến trường.
Tin chiến thắng ở chiến trường Cam-pu-chia dội về. Ngày 7 tháng 1, Phnôm Pênh được giải phóng. Liền sau đó, khoảng hơn một tháng, ngày 17 tháng 2 chiến sự phía Bắc nổ ra. Cả nước sôi sục không khí chiến tranh. Đầu Bắc, đầu Nam đều có chiến tranh như ngôi nhà hai đầu hồi bén lửa. Anh chị em ở trong trường công nhân khảo sát đứng ngồi không yên. Lệnh Tổng động viên được ban bố. Sinh viên rồi cả một số giáo viên lên đường nhập ngũ. Đài truyền hình, Đài Tiếng nói Việt Nam suốt ngày đưa tin chiến sự hai đầu đất nước. Lòng căm thù giặc được hun lên đến tột độ. Trong bữa cơm, trong tất cả mọi sinh hoạt của giáo viên, học viên trong trường, ở đâu cũng đưa tin, loan tin chiến sự. Gương chiến đấu của các anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh, Hoàng Thị Hồng Chiêm, Nguyễn Bá Lại,... đã làm dấy lên trong lòng mọi người niềm tự hào dân tộc, tự hào về những người thân của mình đang cầm súng trong hàng ngũ Quân đội nhân dân. Hình tượng anh Quân ngày một đậm nét trong lòng Thái.
Khoảng tháng 3 năm 1979, Thái nhận được tin đơn vị Quân hành quân lên Bát Tam Boong, nơi vùng núi Pailin giáp biên giới Thái Lan chiến đấu. Thư Quân viết anh cùng bộ đội làm nhiệm vụ truy quét bọn Pôn Pốt ở Cao Mê Lai, chốt giữ ở Phnôm Mê Lai. Nơi đây nổi tiếng rừng thiêng nước độc. Nhân dân Cam-pu-chia có câu: “Khoẻ như voi đến Phnôm Mê Lai cũng quay đầu trở lại”. Vậy mà Quân vừa mới qua trận sốt rét thừa sống thiếu chết, lại phải quay trở lại nơi này. Thái nhớ, hôm ở bệnh viện Quy Nhơn y tá lấy máu anh để xét nghiệm. Giọt máu nặn từ ngón tay thâm tím như máu con đỉa bởi đã gần hết hồng cầu.
Bây giờ chỉ còn biết cầu trời khấn Phật cho anh và đồng đội của anh lành lặn trở về. Hàng tuần, hàng tháng Thái như hòn Vọng Phu chờ những bức thư anh gửi, rồi lại hý hoáy tạc từng chữ trên tờ giấy trắng để gửi lòng thương nhớ tới Quân. Những bức thư anh gửi về vẫn roi rói niềm vui của người lính. Quân kể những trận chiến đấu mà anh tham gia. Anh viết ở Cam-pu-chia rất nhiều cá, nhiều đến nỗi mang dao chém cũng có cá ăn. Đánh một trái mìn chống tăng xuống sông cũng vớt được vài tạ cá. Đọc thư Quân thì chỉ thấy niềm tin, thấy chiến thắng. Quân nói dân Khơ-me bị lính Pôn Pốt tàn sát, những hố chôn người đào lên có đến hàng trăm xác. Những hố như vậy ở Cam-pu-chia nhiều vô kể. Có những phum trắng xương người. Múc nước giếng khơi ăn mãi khi cạn cũng đầy xương người dưới đáy. Một đất nước toàn số không: Không tiền tệ, không chợ búa, không trường học... Cả nước chỉ mặc duy nhất bộ quần áo màu đen do Ăng ka cấp phát.
Thái mang những bức thư như vậy đọc cho anh chị em trong tổ giáo viên nghe như một buổi sinh hoạt chính trị. Ai cũng hình dung một đất nước kỳ quái và hình tượng một đội quân tình nguyện Việt Nam như quân nhà Phật sang cứu, mà cụ thể là Quân được tạc vào trí não bạn bè đồng nghiệp.