Dân tộc vẫn gồng mình chịu đựng hai cuộc chiến tranh ở hai đầu đất nước. Người lính thì vẫn tiếp tục chiến đấu ở chiến trường biên giới phía Bắc và chiến trường biên giới Tây Nam. Chưa bao giờ đất nước lại gian lao đến thế.
Quân ngồi bó gối nhìn cậu công vụ đang nghiến răng kèn kẹt bởi cơn sốt rét ác tính, quay sang hỏi cậu y sĩ:
- Bó tay hả cậu?
Quân y sĩ người cao dỏng, quay mặt đi giấu giọt nước mắt bất lực trong nghề y của mình. Đơn vị đang tác chiến trong rừng sâu, thuốc chỉ còn một ống qui-nin duy nhất thì đã tiêm rồi mà cơn sốt vẫn không cắt. Biết làm sao bây giờ?
Không nỗi đau nào bằng nỗi đau ngồi nhìn đồng đội, người thân mình dần dần đi vào cái chết mà không thể làm gì được. Trong cuộc đời chinh chiến của mình, Quân đã chứng kiến biết bao nhiêu cái chết tức thì của đồng đội. Nhưng chứng kiến đồng đội dần dần tắt thở mà bất lực có lẽ đây là lần đầu. Người chiến sĩ cong người lên giống như chiếc bánh đa gặp lửa, răng nghiến trèo trẹo. Anh vội vàng lấy chiếc thìa găm vào miệng cậu chiến sĩ để tránh nhai phải lưỡi. Toàn thân người chiến sĩ nóng như hòn than. Liền sau đó, cả thân người cậu xẹp xuống như trái bóng xì hết hơi rồi lại nguội lạnh dần và bỗng run lên bần bật, da mặt tái xanh rồi vàng bệch. Quân gọi y sĩ lấy thêm chiếc tấm đắp của Quân phủ lên người cậu chiến sĩ, nhưng cậu vẫn rung lên. Quân ôm chặt lấy cả thân mình người chiến sĩ để chia sẻ bớt phần nào cái rét tự trong xương phát ra. Chỉ một lát, cả thân người chiến sĩ bỗng mềm nhũn, Quân hoảng hốt buông ra, nhìn xuống khuôn mặt bạc thếch đang lịm dần trong hơi thở hắt ra.
- Phải làm gì đi chứ?
Quân hét lên. Nhưng chính anh cũng bất lực. Mọi người đứng xung quanh cũng bất lực chỉ còn biết nhìn đồng đội mình đi vào cõi vĩnh hằng. Quân hiểu, chỉ cần thuốc và dụng cụ y tế, cậu y sĩ có thể cứu sống người chiến sĩ này. Vậy mà giờ đây... tất cả đều không thể làm gì được.
Cậu chiến sĩ cong người lên một lần nữa, đôi mắt bỗng trợn trừng, cơ mặt rung lên. Dường như có một làn hơi mỏng thoát ra từ cửa miệng. Toàn thân anh sập xuống, cơ mặt chùng hẳn, chiếc thìa trong miệng rời ra. Lòng đen đôi mắt lặn mất để lại một màu trắng đục và tay chân duỗi thẳng.
Quân cúi mặt để cho giọt nước trong mắt anh lặn vào đáy não. Cây cối xung quanh trận địa lặng phắc, đâu đấy trong rừng sâu có tiếng xạc xào của gió rừng. Quân từ từ ngẩng lên đặt ngón tay vào cửa mũi người đồng đội. Không còn một làn hơi thoát ra. Cậu y sĩ lấy ống nghe đặt vào ngực, rồi lặng lẽ lắc đầu. Quân vuốt xuôi hai mi mắt người chiến sĩ cho khép lại...
Từ xa tiếng súng cối 82 vọng về phá tan bầu không khí nặng nề, u buồn. Quân quay ra nói:
- Ai có đồng xu nào không?
Không ai trả lời. Quân lại hỏi:
- Lấy nhúm gạo cũng được.
Làm gì còn gạo. Anh em phải ăn bo bo đánh giặc cả tháng nay rồi. Kiếm được mấy lon gạo đã nấu cháo hết cho thương binh. Mấy ngày nay, anh em phải đi bắt cá, đào củ rừng về chống đói.
Quân lại nói:
- Cố tìm đâu lấy mấy hạt cũng được.
Không biết bằng cách nào, cậu y sĩ có được hai hạt rưỡi gạo. Quân nhìn mấy hạt gạo trong lòng bàn tay mãi không chớp mắt. Nắng chiều chiếu vào đôi mắt anh làm long lên những hạt nước buồn. Anh từ từ lấy chiếc thìa cậy miệng người chiến sĩ, nhét mấy hạt gạo vào, rồi nói với linh hồn người đã chết:
- Em ơi! Em chết mà không có hạt cơm nào trong bụng!... Em tha lỗi cho anh...
Các chiến sĩ vây quanh, ai cũng sụt sùi. Họ quay đi lau mắt. Có người chạy ra gốc cây gục đầu nức nở.
Vừa lúc đó một tiếng mìn nổ từ phía Tiểu đoàn 3. Quân giật mình bừng tỉnh, nói với cậu công vụ:
- Hỏi tác chiến xem tình hình Tiểu đoàn 3 thế nào?
Chỉ trong giây lát, cậu trợ lý tác chiến trung đoàn vào báo cáo, bộ đội Tiểu đoàn 3 bị mìn, một hy sinh, hai bị thương, trong đó một bị thương rất nặng. Quân truyền lệnh:
- Báo cho các đơn vị hạn chế tối đa cho anh em ra khỏi trận địa tránh thương vong. Lệnh cho anh em công binh rà phá đường bảo đảm cho Tiểu đoàn 3 đưa thương binh và tử sĩ về trung đoàn!
Quân nhắc anh em ở bộ phận chính sách làm công tác tử sĩ cho người chiến sĩ vừa hy sinh, rồi trở về sở chỉ huy trung đoàn, vừa đi vừa suy nghĩ. Mấy tháng nay trung đoàn khó khăn quá. Gạo hết, địch bao vây tứ phía, mìn chúng rải khắp nơi, thương vong nhiều. Đặc biệt bệnh sốt rét hoành hành. Trong khi thuốc phòng, chống sốt rét khan hiếm đến mức như hôm nay ngồi nhìn anh em ra đi mà không làm gì nổi. Vì mìn, vì sốt rét và lại đói nữa...
Những năm tháng cam go của trung đoàn rồi cũng dần dần qua đi. Quân vẫn chỉ huy đơn vị chiến đấu và chờ đợi ngày về sum họp.
* * *
Tháng 2 năm 1979, Thái nhận được một bức thư của Quân. Trong thư anh lên kế hoạch có thể tháng năm này, nếu anh về nước được thì sẽ làm đám cưới.
Nhận được thư, Thái nửa mừng nửa lo. Chấp nhận lễ cưới nghĩa là mình đánh cược cuộc đời với chiến tranh, và rồi rất có thể mình sẽ góa bụa. Chiến tranh nó như một chiếc máy nghiền khổng lồ, nó không chừa thân phận nào cả. Cả cái làng Chuông của cô chỉ riêng cuộc kháng chiến chống Mỹ đã có đến trên 100 mái nhà nhuốm đầy nước mắt. Nghe nói cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam cũng tốn máu chẳng kém, trong số đó liệu rồi có anh không?
Nếu không nhận làm đám cưới với anh, thì mình sẽ lấy một anh chàng nào đó. Người ấy có thể là chàng sĩ quan Công an vũ trang đang sống ở Hà Nội, hoặc một đồng nghiệp ở ngôi trường này. Cuộc sống có vẻ sẽ êm đềm không mấy phải suy nghĩ. Chỉ cần Thái im lặng, cúi đầu là một đám cưới sẽ diễn ra tưng bừng náo nhiệt, cũng chẳng phải lo toan gì.
Nhưng rồi, không hiểu làm sao, cứ nghĩ đến điều đó trái tim Thái dường như giận dỗi, những giọt nước mắt ri rỉ ngấm dần vào chiếc gối trắng. Hình ảnh người lính trận mạc đầy bụi đỏ giống như ngọn lửa thiêu cháy tất cả những gì ngoài hình tượng người mà trái tim cô đã chọn. Dù cháy lên một lần, cháy hết thành than, còn hơn cả một đời âm ỉ dở cháy, dở khói.
Mặc dù vẫn còn rất phân tâm, nhưng Thái âm thầm chuẩn bị cho cuộc sống của một gia đình nhỏ bằng đồng lương ít ỏi, dù với ai thì cũng phải lấy chồng. Gia đình Thái rất nghèo, không thể dựa dẫm được, phải tự lập thôi. Thái lặng lẽ tạm ứng mấy tháng lương mua lại một chiếc giường cũ gỗ tạp của anh phụ trách hành chính trường, cái thứ mà những đôi trai gái cưới nhau phải lo trước tiên và cũng khó khăn nhất. Mua một chiếc xoong, một chiếc nồi, rồi bát đĩa, con dao, chiếc thớt, v.v... và mấy cây thuốc lá, kẹo bánh. Thái bí mật sắm, không để ai biết.
Khoảng đầu tháng 5, Quân gửi một bức thư nữa về cho Thái sắp xếp một kế hoạch đám cưới khá chi tiết. Ngày cưới định vào ngày 28 tháng 5 năm 1979. Cũng liền đó Quân viết thư cho gia đình ngoài Bắc lên kế hoạch để chuẩn bị tàu xe vào dự đám cưới.
Nhận được tin con gái chuẩn bị kết hôn, bố Thái viết một bức thư dài khuyên con không nên xây dựng gia đình với người lính đang ngoài mặt trận. Bài học anh Thu như một vết thương sâu khiến gia đình Thái không thể nào quên nổi. Nói là khuyên nhưng ông rất quyết liệt. Những lời nói thấu tình đạt lý của bố khiến Thái không thể không suy nghĩ. Cùng lúc đó anh sĩ quan công an vũ trang cùng làng cũng viết thư vào cho Thái, với những lời lẽ thấm đượm tình cảm.
Thái cầm bức thư bố đọc đi đọc lại biết bao nhiêu lần, bố chỉ khuyên Thái ở xa nhà, thân gái dặm trường, lại lấy chồng bộ đội thì làm sao trụ nổi, bên nhà Quân lại cũng rất xa. Khó khăn quá liệu Thái có đủ sức trụ vững không? Nếu không trụ vững thì sẽ đứt gánh giữa đường, rồi tương lai con cái ra làm sao?
Một số bạn bè cũng khuyên Thái nên thực tế một chút, người ta bắt chim đậu ai dại gì mà bắt chim bay. Tốt nhất là nên đồng ý lấy anh chàng giáo viên trong trường là hợp lý nhất. Vợ chồng gần gũi, chăm sóc con cái, xây dựng gia đình chả mấy khi mà ổn định. Cùng lắm thì lấy anh sĩ quan Công an vũ trang, cùng quê lại công tác gần nhà. Chỉ có điều, Thái phải xin chuyển ra ngoài Bắc, thế cũng được vừa gần chồng lại vừa gần bên nội bên ngoại. Đằng này cứ nằng nặc lấy Quân, người đang chiến đấu trên chiến trường ác liệt. Ừ thì cứ cho là còn sống trở về đi, nhưng suốt đời cứ thui thủi một mình, chém cũng mình, vác cũng mình khổ vô cùng.
Nghe thì rất phải, nhưng tình yêu nó có lý lẽ riêng của nó, giải thích thì không nổi, nó phủ nhận tất cả những điều có lý, chỉ giữ lại một điều riêng của nó là tiếng gọi của trái tim. Hễ cứ nghĩ đến người đó là mọi giác quan, mọi tế bào cảm giác dựng dậy, hướng tới.
Suy nghĩ đắn đo mãi, Thái tâm sự với chị Ràng - người chị thân thiết và cũng đã qua đời lính, Thái lại xin ý kiến anh Báu, cấp trên của anh Quân trước đây. Và cuối cùng Thái viết về cho bố một bức thư dài, xin phép bố cho Thái tự lựa chọn và quyết định việc hạnh phúc của mình, sau này trái chín Thái hưởng, trái xanh thì Thái chịu.
Thư về cho Thái rồi, Quân ngóng thư trả lời. Nếu Thái khước từ thì sẽ có thư biện lý do gì đó để trì hoãn ngày cưới. Nếu Thái đồng ý thì chắc chắn sẽ có thư hồi âm cho Quân. Một tuần, hai tuần, hai tuần rưỡi khi cậu công vụ tươi cười hớn hở cầm trong tay lá thư có hình chiếc máy bay đưa cho Quân. Anh run run vào trong phòng bóc vội. Trời! Quân không thể tin được, Thái thông báo đã sắm được cả chiếc giường cho hai người. Thế này thì nhất định Quân phải tranh thủ về nước cưới vợ cho bằng được. Chỉ lo, đến lúc đó tình hình chiến trường thay đổi. Đời lính mấy ai làm chủ được riêng tư của mình đâu.
Thật may mắn đúng dịp ấy, Bộ Tư lệnh triệu tập một cuộc họp sơ kết chiến dịch tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cán bộ từ cấp Tiểu đoàn trở lên đều về dự họp. Họp xong Quân xin phép cấp trên về Quy Nhơn cưới vợ. Đơn vị ở bên chiến trường xa nên cũng không thể có người về dự được, chỉ điện thông báo cho anh em ở hậu cứ còn lại ở Đà Nẵng về mừng đám cưới của Trung đoàn trưởng.
Chiếc xe com-măng-ca đầy bụi đỏ chở Quân từ Thành phố Hồ Chí Minh đi miền Trung. Trên xe vỏn vẹn có 50 ki-lô-gam gạo Quân mang từ Cam-pu-chia về để sử dụng sau ngày cưới. Tiền lương gom góp được 500 nghìn đồng. Nửa đường Quân tạt qua nhà bạn, thấy vợ bạn có nghề làm bánh, lại được anh chị bàn bạc đám cưới là phải có bánh kẹo, thế là Quân nhờ anh chị đổi luôn 50 ki-lô-gam gạo thành bánh cưới, tiện xe chỉ một ngày đường là về tới Quy Nhơn.
Được tin Trung đoàn trưởng cưới vợ, anh em ở hậu cứ của trung đoàn bắt một con heo 30 ki-lô-gam, mua hai cây thuốc lá, đánh một chuyến xe tải mang về mừng. Trên đường đi, lúc giải lao, chả hiểu thế nào con heo vuột chạy mất. Cậu lái xe cười hề hề nói:
- Nó cũng muốn lấy vợ đấy thủ trưởng. Chửa biết chừng nó đang cưới.
Thế là quà của đơn vị cưới vợ cho Trung đoàn trưởng chỉ vỏn vẹn có hai cây thuốc lá.
Quân đưa cho vợ 500 nghìn đồng:
- Anh chỉ có vậy thôi em.
Rồi anh cười hề hề giọng Hà Tĩnh.
Thái cười động viên Quân:
- Cả đời chỉ có một lần, mình cố gắng anh nhé!
Trước hai ngày, đại diện gia đình nhà trai và nhà gái đều có mặt. Thấy vậy Thái đùa với Quân:
- Công an có khác, hiệp đồng tác chiến quá chặt chẽ.
Một cuộc hội ngộ giữa hai bên nhà trai nhà gái rất rôm rả. Mọi người chưa một lần biết nhau, nay nhờ đám cưới mà gặp mặt. Ai cũng nói chuyện vui như ngày tết. Khổ nỗi, tiếng Nghệ Tĩnh quê anh làm họ hàng bên nhà gái cứ căng tai ra cũng không nghe nổi. Ngược lại tiếng Hà Tây nhà gái cũng rứa. Hai bên cứ nhìn nhau ớ ra.
Để chuẩn bị cho đám cưới, mọi người bàn ra bàn vào về quần áo cho cô dâu. Người thì bàn phải mặc áo dài cho sang, cho đẹp; người thì bảo thôi cứ quần xa tanh áo phin nõn trắng như gái nông thôn miền Bắc lại giản dị và đẹp. Thái cũng thích một bộ áo dài truyền thống, cũng đã có lần cô mặc thử, soi gương quả là đẹp thật. Nó nền nã, mềm mại và quyến rũ. Đời người con gái lên xe hoa có một lần thôi, nghĩ vậy nhưng Thái lại nói:
- Áo ngắn còn chả có, lấy đâu ra áo dài.
Một cô cùng tổ giáo viên bảo:
- Ra nhà, tao cho mượn. Mày mà mặc, đẹp long con ngươi!
Đến khi Thái mặc thử, đẹp thì có đẹp nhưng cứ thấy nó thế nào. Ngường ngượng, ngại ngại. Có lẽ mình mặc tuềnh toàng, đơn giản quen rồi, giờ khoác cái sang trọng thì cảm thấy không hợp.
Thế là Thái diện quần phíp đen, áo trắng, còn Quân vẫn bộ quân phục chiến trường.
Đám cưới được tổ chức rất giản dị ở hội trường Trường Công nhân Khảo sát. Có bánh kẹo, thuốc lá, hạt dưa, nước ngọt. Có chủ hôn vài lời thưa gửi, mấy lời chúc tụng, bạn bè cười đùa vui vẻ, ấm cúng, nửa tiếng thế là kết thúc.
Trở về căn phòng 12 mét vuông nhà trường cho mượn. Thái cười nói với chồng:
- Em như cho không anh ý.
Quân cũng cười:
- Anh cũng biếu không em một lão trung tá, còn gì!
Thái lườm chồng:
- Gớm! Công an các anh chỉ có trên răng dưới cát tút.
Tình yêu đúng là món quà vô giá mà con người dành tặng cho nhau. Quân cũng lớn tuổi lại đánh nhau suốt khắp chiến trường vô cùng gian khổ, bệnh tật sốt rét liên miên; vì vậy nên những giây phút hạnh phúc bên vợ, bên gia đình đối với người lính chiến thật hiếm hoi và quý hơn vàng. Bên anh, Thái cảm nhận được điều đó. Người lính thời chiến, hôm nay sống hạnh phúc bên vợ con, nhưng ngày mai ra mặt trận có khi ngã xuống mãi mãi không về nữa. Vì vậy mà Thái nâng niu và bồng bế giây phút hiếm hoi hạnh phúc của mình, không nỡ để xảy ra điều gì dù chỉ một cử chỉ, một lời nói làm chồng phân tâm, mếch lòng. Cốt sao để chồng tận hưởng thật mãn nguyện những ngày giờ hoà bình, hạnh phúc nơi hậu phương, bên gia đình. Vài ngày nữa anh lại phải ra đi nơi gian khổ, đối mặt với cái chết. Chiến tranh, người phụ nữ sống và chờ đợi đã là một kỳ tích, nhưng người lính sống và chết là một thiên anh hùng ca về đàn ông của nhân loại. Họ như những nhân vật huyền thoại của một thời đại huyền thoại mà chắc có lẽ đời cháu chắt sau này khó mà hiểu nổi, chúng sẽ xếp vào kho tàng chuyện thần thoại hay cổ tích.
Khoảng hơn tuần sau cưới, Quân lại rục rịch lên đường, bởi bên chiến trường đang mùa chiến dịch. Anh lại là người chỉ huy cao nhất của một trung đoàn. Nhưng hơn tuần ấy cả hai vợ chồng vay mượn lo sốt vó việc chu toàn cho hai họ còn ở lại sau đám cưới. Lo ăn uống, lo tiền tàu xe trở về quê. Vợ chồng rất muốn cha mẹ, người thân đôi bên ở lại thêm một ít ngày để thăm thú đây đó một chút, nhưng khổ nỗi gia đình người lính không có tiền để chu toàn.
Họ hàng về quê thì cũng là thời điểm Quân trở lại chiến trường. Thành ra kể như hai vợ chồng không có tuần trăng mật. Nhưng mà thôi, đã xong một việc lớn. Vừa bén hơi một chút thì họ phải bứt nhau ra mỗi người mỗi ngả. Trái táo tình yêu mới nếm được một chút, thì lại phải buông ra, bởi tiếng súng ngoài biên giới vẫn đang nổ, chiến sĩ của đơn vị Quân đang đổ máu.
Buổi sáng, Thái đưa chồng ra Quy Nhơn để đón xe vào Sài Gòn. Xe vừa trờ tới, anh xách chiếc ba lô để lên xe, bỗng dưng trong lòng Thái trào lên một cảm giác chưa từng có bao giờ, mà chính cô cũng không chủ động nổi. Giống như người ta bứt đôi họ ra, cắt lìa, chia sớt... Thái bỗng lao đến ôm chầm lấy chồng và khóc tức tưởi, giống như người ta giật mất, cướp mất báu vật quý giá của mình một cách bất công mà Thái thì bất lực. Người Quân cũng rung lên, một chút yếu mềm trước tiếng nấc của vợ. Rồi ngay đó, có một luồng máu từ trái tim xối lên trí não, anh định vị chỗ đứng của mình, rồi gỡ tay vợ bước lên xe trong bối rối. Khi Thái tiễn chồng vào trong xe, cô bước ra nhìn thấy nhiều người cũng đưa tiễn đứng ngồi mới thấy mình vô duyên và mắc cỡ quá.
* * *
Trở về, cảm giác trống trải cô đơn xâm chiếm cõi lòng Thái. Thế là chồng cô đi rồi. Anh đi vào nơi bom gầm, đạn réo. Còn cô thì lại vò võ sớm khuya một mình mòn mỏi đợi chờ. Ở một đất nước chiến tranh tàn khốc, đàn ông thì tốn máu, và đàn bà thì tốn nước mắt.
Thái quờ quạng tìm hơi ấm của chồng. Tấm bạt trắng trải trùm lên chiếc chiếu trên chiếc giường cũ gỗ tạp vẫn còn hơi ấm của anh. Chiếc khăn mặt nhỏ Thái sắm cho chồng để dùng những ngày ở nhà anh để lại, còn đó phơi bằng bặn trên mắc. Duy nhất chỉ còn chiếc áo quân phục Thái treo đó để nhắc nhở căn phòng này có đàn ông, và Thái đã có chủ nhân.
Đêm đêm, trên chiếc giường gỗ tạp, Thái trằn trọc không làm sao khép mi được. Thái nhớ chồng, nhớ những kỷ niệm vợ chồng những ngày đầu của nhau.
Cuộc sống khốn khó của một gia đình lính thời chiến lại càng khắc khổ hơn. Dãy nhà “đúc” được dành cho những gia đình mới, bên cạnh vợ chồng họ ríu rít chở nhau đi làm, chở nhau về, chủ nhật đi chơi, bận rộn nấu nấu nướng nướng, chăm sóc con cái, thì Thái sớm hôm đi về thui thủi một mình. Nấu cơm xong cũng chẳng buồn sắp ra mâm. Một chiếc bát, một đôi đũa, một chiếc thìa thế là xong. Không tiếng khua khoắng bát đũa; không tiếng rộn ràng thìa muôi; không tiếng quát tháo, hò hét con cái như những căn phòng bên cạnh. Lặng lẽ, âm thầm, chỉ có tiếng gió rít, tiếng tắc kè nhát một...
Có những đêm tiếng con mọt đục khoét thang giường kêu ken két. Nó giống như con quái vật chiến tranh đang ngấm ngầm đục vào eo lưng người chinh phụ. Hết lật mình bên này, không ngủ được, lại lật mình bên kia, cũng không chợp mắt nổi. Trên trần nhà tiếng con thạch sùng tặc lưỡi, ai oán nghe giống như tiếng đời: “Chết chưa! Ai bắt lấy chồng chinh chiến!”.
Ai đã từng làm vợ lính trong cái thời đất nước binh đao lửa đạn mới thấu hết cái cô quạnh đến rợn lòng như Thái. Mỗi tin chiến thắng mà báo đài reo lên thì trong tim người mẹ, người vợ lại nhói lên một nhịp. Chiến thắng đấy, liệu rằng quân ta phải đổi bằng bao nhiêu xương máu, trong đó có chồng, có con mình không? Nếu có thì cuộc đời mình sẽ ra sao? Con mình sẽ thế nào?
Hồi còn chiến tranh chống Mỹ, Thái nghe người ta nói ngày Bắc đêm Nam cũng chỉ hiểu đó là một khái niệm. Nhưng để hiểu khái niệm đó bằng chính tâm can mình thì có lẽ bây giờ Thái mới cảm. Ban ngày lên lớp vui thì vui vậy thôi. Đêm về một mình trên chiếc giường rộng mênh mông, đưa hết tâm trí mình ra biên cương tưởng tượng cuộc sống của chồng mà ứa nước mắt.
Quân và Thái cứ sống xa nhau, đợi chờ nhau đằng đẵng và gặp nhau chỉ bằng những bức thư như thế. Đến khoảng tháng 8 năm 1980, nghĩa là sau ngày cưới gần một năm, nhà trường tổ chức đưa học sinh vào Đồng Nai thực tập. Thái cũng được cử đi để phục vụ.
Thật may mắn, cùng thời điểm đó Quân về Sài Gòn công tác. Trong căn phòng ở tạm, Thái lao vào lòng chồng muốn tan biến vào anh. Bao nhiêu tháng kể từ ngày thành vợ thành chồng, chất chứa thương nhớ đến cháy lòng, nay thỏa ước mong, Thái không còn xấu hổ gì nữa, cô vùi vào ngực anh, xuýt xoa, nhấm nháp thân thể anh:
- Em nhớ anh quá! Nhớ quá!
Cho đến khi họ tan vào nhau, trút thương nhớ cho nhau, lúc ấy Thái mới buông chồng nằm mơ màng mãn nguyện, rồi cô lại rúc vào nách chồng, ôm chặt lấy chồng như sợ chiến tranh cướp mất.
Ngoài sân, bóng đen tràn ngập đêm thu. Ngoài trời xa, ngôi sao Hôm lấp lánh ngó khuôn nhìn qua khe cửa sổ. Tiếng thu rơi thánh thót như giọt nồng tình rót cho nhau. Quân ôm ghì lấy vợ, hạnh phúc hiếm hoi sau những trận đánh dài trên chiến trường khiến anh cảm nhận tình yêu đến từng hơi thở nhẹ.
- Cho em sang chiến trường cùng anh?
Thái nói thế khi nghển lên vuốt mớ tóc dày cứng như rễ tre của chồng. Quân bảo:
- Liệu em có xin được mươi hôm không?
- Để em xin trưởng đoàn xem nhé.
Có lẽ mọi người thương cảm tình yêu của họ, nên hùa vào nói hộ, thế là trưởng đoàn đồng ý cho Thái theo chồng sang Cam-pu-chia hai tuần.