Chiến sự bên chiến trường Cam-pu-chia đang ác liệt. Nói là tàn quân Pôn Pốt, nhưng thực ra đại quân của chúng gần như còn nguyên vẹn. Chúng giỏi đánh du kích, khả năng chịu đựng gian khổ, hơn nữa chúng thông thạo địa hình, nên gây cho bộ đội ta và quân cách mạng Cam-pu-chia nhiều tổn thất. Chúng thường xuyên tổ chức đánh trả, và đặc biệt là gài mìn, phục kích khắp nơi. Bộ đội Việt Nam và quân cách mạng Cam-pu-chia cũng vì thế mà suốt bao nhiêu năm vẫn chưa tiêu diệt tận gốc bọn chúng.
Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang được điều về trực thuộc Bộ Quốc phòng. Trung đoàn Công an vũ trang của Quân trở thành Trung đoàn Bộ đội Biên phòng, chiến đấu trong đội hình Mặt trận 479. Chiến trường biên giới phía Tây nước bạn vẫn ác liệt. Ngày nào trung đoàn cũng có bộ đội hy sinh. Đang ngồi họp nghe tiếng mìn nổ, thế nào cũng có tin báo về bộ đội thương vong. Đi hái rau, ầm một tiếng, mìn nổ; đi lấy hàng, oàng một tiếng đạn B-40 nổ. Nguy hiểm nhất là xe di chuyển trên đường. Địch cài mìn chống tăng, rồi phục kích xông lên dùng súng AK bắn những người bị thương. Nhưng có lẽ vì tò mò xem cái đất nước này thế nào, mặt khác ham muốn gần chồng, hơn nữa cũng muốn biết cuộc sống người lính ngoài mặt trận sinh sống ra làm sao nên Thái quyết tâm theo chồng ra mặt trận.
Lần đầu tiên Thái đặt chân sang đất nước Chùa Tháp và theo chồng hành quân đến tận Xiêm Riệp, Bát Tam Băng giáp biên giới Thái Lan. Trên chiếc xe Jeép, Mạnh cầm lái, Quân ngồi ghế trước, Thái ngồi ghế sau, hai bên hai cậu vệ binh, súng lăm lăm trong tay sẵn sàng nhả đạn. Lúc nào khuôn mặt họ cũng đăm đăm căng thẳng. Thế nhưng Thái vẫn tỉnh bơ, đúng là “điếc không sợ súng”, lại còn:
- Anh Quân ơi! Cho em mượn một khẩu súng.
Sang tới đơn vị của Quân, toàn cảnh nơi ăn chốn ở của chồng và đồng đội được hiện ra. Chao ơi! Vậy mà bao đêm Thái không ngủ mường tượng thế nào cũng không được. Anh bảo:
- Đây là Sở chỉ huy trung đoàn. Còn anh em thì phải nằm trên chốt em ạ. Nước không có để tắm. Hàng tuần phải thay nhau về phía sau tắm rửa.
Đang mùa khô, tại chiến trường, Quân đi đâu cũng đem theo vợ, cốt là để cho Thái biết đây biết đó. Quân đưa vợ lên tận cua chữ “V” trên đường số 10, huyện Pai Lin, tỉnh Bát Tam Băng. Đây cũng là nơi ác liệt nhất của chiến trường.
Thái nói với chồng:
- Anh cho em mượn một khẩu súng và cho em lên chốt với bộ đội.
Lần đầu tiên Thái chứng kiến cuộc sống chiến đấu của bộ đội nơi biên cương. Hầu hết những người lính trên chốt tóc rậm bù xù, quần áo bụi bẩn, lại có những chiếc áo đến hơn chục miếng vá. Không có chỉ, các anh lấy nhựa cây cao su dán vào. Da anh nào cũng vàng bủng vàng beo, mắt trắng, môi thâm bởi sốt rét. Họ sống dưới chiến hào, dưới hầm trông giống như người nguyên thuỷ.
Thường thì có những chuyến xe gửi quà ở hậu phương đến trung đoàn. Quà là những chai xì dầu, kẹo bánh, cá mắm, đến cả cái kim sợi chỉ; đồng thời kèm theo những bức thư của các cháu học sinh, sinh viên, đoàn thanh niên, hội phụ nữ gửi cho các anh chiến sĩ biên cương và hải đảo. Cơ quan trung đoàn chia cho các tiểu đoàn. Tiểu đoàn chia cho các đại đội. Những lá thư cũng được chia như vậy. Đơn vị ít ác liệt thì cử từng tốp bộ đội về hầm đại đội nghe Chính trị viên đọc thư. Đơn vị đang chiến đấu ác liệt thì chia thư xuống chốt các trung đội, lúc ngớt tiếng súng bộ đội lấy thư ra xem, coi đó là niềm động viên an ủi.
Thái xuất hiện ở trung đoàn giống như bông hoa rừng lạc đến vùng sa mạc. Các anh trong cơ quan trung đoàn quý Thái vô cùng. Họ có bắt được con thú rừng cũng mang đến cho. Có anh đi công tác dưới phum sóc mua được chiếc khăn croma, hay thỏi đường thốt nốt cũng mang về cho cô. Có đến đây mới thấy một cộng đồng mà tình người thật đặc biệt. Họ vui cũng hết mình, mà chiến đấu hy sinh cũng hết mình. Họ thương nhau đến độ người thân cũng không sánh nổi. Họ chia ngọt sẻ bùi, cả đến những bức thư vợ chồng, người yêu cũng mang ra đọc cho nhau nghe đến thuộc. Chứng kiến đời sống người lính chiến mới soi rõ những bần tiện, tiểu nhân nơi phồn vinh đô hội.
Có một lần Mạnh cho Thái thưởng thức món mắm bò hóc của dân tộc Khơ-me. Thái không thể nào chịu nổi cái mùi khó chịu của nó, suýt ói. Quân giải thích:
- Nhân dân Khơ-me rất thích món này, cũng giống như người Việt Nam ta thích mắm tôm. Dân tộc nào cũng có món mắm của mình và hầu như đều làm bằng cá tôm cả, nhưng mỗi dân tộc đều tạo ra một cái mùi riêng của mình, nó là đặc sản của mỗi dân tộc.
Nghe anh nói Thái cảm thấy đỡ sợ món mắm bò hóc và một hôm Thái chứng kiến một bà mẹ người Khơ-me làm món này cô mới thấy hết sợ.
Bà chọn những con cá tươi to bằng cổ tay, hoặc gần cổ tay, cắt đầu, đánh vảy, bỏ vây, mổ ruột và rửa sạch để cho ráo nước. Sau đó cho vào cối giã trệu trạo, rồi lấy ra cho vào chiếc rá, lấy bao tải sạch phủ kín ủ hai ngày, rồi lại lấy ra rửa sạch, để ráo nước, rồi lại cho vào cối giã trầy ra một chút rồi lại ủ thêm khoảng hai ngày, cho đến khi được cái mùi như mắm bò hóc thì lấy ra rửa sạch, giã tiếp rồi cho muối, thính, riềng trộn đều cho vào hũ đậy kín ngâm cho đến vài tháng.
Nhìn thấy họ làm thì rõ ràng sạch sẽ hơn dân mình làm mắm rồi, chỉ có điều họ tạo ra cái mùi đặc chủng không hợp với mình mà thôi.
Rồi Quân cho vợ đi xem đồng bào làm đường thốt nốt. Có lẽ dân tộc nào trên thế giới cũng có đường. Nhưng đường làm bằng nước cây thốt nốt thì chắc là hiếm. Quân bảo:
- Cây thốt nốt trồng khoảng 10 năm mới có bông và cho nước. Đó là một thứ nước rất tuyệt, có thể uống rất bổ và mát. Bộ đội thường lấy rồi cho vào bi đông, cho thêm chút men rượu vào, để hai ngày lên men thì thành bia. Người Cam-pu-chia gọi đó là bia “pô-chen-tông”.
Thái hỏi:
- Vậy họ làm thành đường thì làm như thế nào?
Quân ngồi giảng giải:
- Họ lấy những đoạn ống tre luồng, rồi trèo lên kẹp các bông hoa thốt nốt như bông dừa vào trong ống. Sáng ra thì lấy xuống, ống tre đã đầy nước, đổ vào chảo nấu như nấu đường mía.
Mỗi cây thốt nốt mỗi vụ cho đến 25 ki-lô-gam đường. Đây là nguồn thu khá lớn của Cam-pu-chia. Đường thốt nốt ngọt thơm, và có điều rất lạ nó chỉ được gói bằng lá thốt nốt thì mới không chảy nước.
Thái bíu một miếng đường thốt nốt đưa lên miệng, vị ngọt thơm mát tan ra đầu lưỡi. Vị thơm của đường thốt nốt lạ lắm, nó ấm, nồng dịu rất khó tả.
Cây thốt nốt giống như cây dừa, nhưng thân thẳng hơn, lá tung ra như mái tóc dài người con gái, trái nó tròn nhưng nhỏ hơn trái dừa, chín vàng như trái cam, bột nó thơm mùi đường thốt nốt mà người Sóc Trăng mình lấy làm bánh bía.
Cây thốt nốt được trồng ven những bờ sông, trên những bờ ruộng, khắp các bãi để hoang trở thành một nét đẹp riêng biệt rất trữ tình, rất Khơ-me.
Mấy ngày Thái sống ở đơn vị chồng đã hết. Người và đất đã đóng đinh trong trí nhớ của Thái thành một kỷ niệm khó phai. Bây giờ tính đến chuyện về nước. Muốn về nước phải chờ chuyến máy bay quân sự của mặt trận. Thực tình Thái chẳng muốn về. Được gần chồng, được sống với những người lính chan chứa tình người. Nhưng nếu quá thời hạn nhà trường cho phép thì rắc rối to.
Năm ấy Thái bị cắt “Lao động tiên tiến” bởi mắc khuyết điểm chấp hành kỷ luật không nghiêm, chỉ vì mình cố tình ở lại chiến trường để gần chồng thêm mấy ngày, thôi cũng được, chấp nhận.
* * *
Ở miền Nam vào những tháng cuối mùa mưa thời tiết bắt đầu nóng dần lên. Những cơn mưa theo định kỳ trong ngày lệch đi và thưa dần. Cái nắng bắt đầu ổn định. Nhìn lên bầu trời, những mảng mây xám mang theo hơi nước cũng loãng ra. Gió chướng bắt đầu xuất hiện, thổi ràn rạt từ biển vào. Thời tiết giao mùa thường gieo vào người những hạt bệnh, rồi tiếp đó là nẩy mầm thành cây ốm yếu.
Cuối tháng 8 năm ấy Thái được phân công cùng đoàn công tác đi tuyển sinh ở các tỉnh: Phan Rang, Phan Thiết và Lâm Đồng. Công việc cũng không đến nỗi vất vả. Trên đường về khi còn ngồi trên xe, Thái đã thấy váng vất trong đầu, người mệt mỏi, khó chịu, nhai miếng cơm thấy không ngon, cổ họng có cảm giác khô khát. Rồi cơn sốt từ đâu ập xuống. Về tới trường Thái thất thểu vào phòng y tế của chị Ràng kiểm tra. Thấy Thái có triệu chứng của mầm bệnh nặng, chị Ràng đưa Thái vào ngay bệnh viện huyện Phù Cát. Lúc này nhiệt độ cơ thể vụt lên 40 độ C. Toàn thân Thái nóng như bô xe máy vừa dừng. Nóng đấy rồi lại rét; rét run cầm cập, thân người cô mềm như con sứa. Bệnh viện huyện chẩn đoán là sốt rét và quinin - một loại thuốc điều trị sốt rét được tiêm ngay. Ngày hôm sau Thái bỗng ói ra máu, đi đại tiện cũng ra máu. Thấy nguy hiểm, khó cứu chữa, Bệnh viện Phù Cát vội chuyển Thái lên Bệnh viện Quy Nhơn. Tại đây Thái được các bác sĩ chẩn đoán là sốt xuất huyết. Sốt xuất huyết mà tiêm quinin vào cơ thể thì thôi rồi... kể như cho con người ta đi gặp ông bà ông vải!
Không tiền, không người thân chăm sóc, toàn thân Thái rũ rượi, quắt queo như tàu lá chuối hơ trên lửa. Năng lượng cơ thể cô gần như bị triệt tiêu, miệng khô khốc, thở ra hơi nóng như lò than, đôi mắt đờ đẫn hết thần sắc, môi khô nứt những vảy màu trắng đục. Thái đã nghĩ đến cái chết.
Bệnh viện Quy Nhơn báo về y tế trường rằng Thái chắc không qua khỏi. Chị Ràng vội điện báo cho trung đoàn nơi Quân chiến đấu: “Vợ sắp chết về ngay!”.
Thái cứ sống lắt lay trên giường bệnh lúc tỉnh lúc mê. Tỉnh thì nghĩ đến cái chết. Mê thì ú ớ chẳng biết gì nữa, lơ mơ thấy tà áo trắng lượn đi lượn lại. Không thiết nghĩ, không thiết ăn, không thiết uống. Cảm giác không thiết gì hết, buông xuôi, khiến thân thể sõng sượt; một mình Thái bé tẹo, mỏng dính trên chiếc giường con.
Ấy rồi một hôm trong tâm thức Thái lơ mơ thấy bóng chồng người đầy bụi đỏ bên giường bệnh. Thái cố nâng mi mắt nhìn cho rõ. Nghĩ mình sắp chết, nên Thái nói một câu giống như lời trăng trối không biết có thành tiếng:
- Sao anh về trễ thế? Em sắp chết rồi!
Mặc dù Thái không nói, không thở than, không giãi bày nhưng không biết vì sao nước mắt cứ thế ứa ra. Quân thương vợ quá, ngồi xuống ôm lấy ghì chặt vào lòng. Thái lọt thỏm trong bộ quân phục dính đầy bụi đỏ và cảm nhận thấy người Quân rung lên. Trong lòng Thái chỉ thoi thóp lơ mơ phận là vợ lính.
Quân kiểm tra bệnh án, gặp thầy thuốc hỏi han và quyết định đưa vợ sang Bệnh viện 13 Quân khu 5 điều trị với lý do ở đó các bác sĩ quen điều trị sốt rét cho bộ đội.
Thái phó thác số phận cho chồng và bệnh tình cho thầy thuốc. Nếu có chết thì cũng chết trong tay chồng, không có gì phải ân hận. Nhưng số Thái cũng cao thật, sốt xuất huyết mà đã tiêm kháng sinh thế mà không chết. Suốt mấy tuần các thày thuốc quân đội tập trung hội chẩn, tìm mọi biện pháp giành giật Thái từ tay thần chết. Những ánh mắt tuyệt vọng chuyển dần sang hy vọng, rồi Thái tỉnh dần, bệnh tình cũng lui. Thần chết bất lực trước tay nghề của các thầy thuốc vừa cầm kim tiêm vừa cầm súng. Miếng cháo chồng bón cho đã khiến các nụ nếm trong lưỡi bật dậy, tiếp nhận. Các tế bào bắt đầu cựa quậy, sự sống đã hồi sinh trên cơ thể, đôi mắt đã bắt đầu có sinh khí, đôi môi đỡ nhợt nhạt và mềm dần, nụ cười đã treo lại trên đôi môi tuy vẫn còn mếu méo. Các thày cô, đồng nghiệp ở trường đến thăm ai cũng bảo:
- Anh Quân chữa thế nào mà chị Thái chóng khỏi bệnh thế?
Chị Ràng thì cứ nắn bóp xuýt xoa:
- Chị cứ tưởng không cứu được em. Chị lo quá. Lần sau ốm qua loa thì hãy vào bệnh viện huyện nhé. Bệnh nhẹ nó chữa cho nặng; bệnh nặng là nó làm cho chết đấy em ạ. Chả thế mà bên cạnh bệnh viện huyện có cái cửa hàng bán hòm là gì.
Thái bắt đầu đi vào thời kỳ hồi phục và điều dưỡng. Bệnh viện xếp cho Thái một phòng riêng có hai chiếc giường. Giường bên cạnh để Quân nằm chăm sóc.
Cơ thể hồi phục được thì tự nhiên cái ngủ trốn đi hẳn. Cả ngày lẫn đêm mắt cứ trơ không khốc không ngủ được một giây. Bác sĩ cho Thái uống thuốc ngủ, vẫn không ngủ được. Rồi lại tiêm thuốc ngủ cũng vẫn trơ khốc. Kết hợp cả tiêm, cả uống vẫn vô hiệu. Cơ mặt đơ ra, mắt cũng trơ, khuôn mặt dài dại, mệt mỏi. Bên cạnh, Quân thì vẫn ngáy pho pho, còn Thái thì tuyệt nhiên bảy ngày, bảy đêm không một giây chợp mắt.
Quân lên Viện trưởng phàn nàn:
- Khéo nhà tôi nó chết mất. Một tuần nay cô ấy không ngủ được tý nào ông ạ, người thì bé tẹo. Ông có cách nào cứu tôi với!
Vốn là bạn thân thiết, anh Viện trưởng hỏi rõ ngọn ngành chi tiết bệnh tình của Thái. Nhấp chén nước xong, Viện trưởng giọng thân tình:
- Tớ hỏi thật nhé. Từ hôm ông về, bà ấy cắt sốt, hai người đã “chiến” lần nào chưa?
Quân ngạc nhiên:
- Ông nói sao? Sốt xuất huyết vỡ mạch máu, “chiến” có mà chảy hết máu. Vừa mới thoát chết xong, người như xác ve, “chiến” là toi đấy ông ạ.
- Ông buồn cười nhỉ? Nằm giữa bệnh viện mà ông còn sợ chết. Ông cứ về đả thông cô ấy rồi “oánh nhau” một trận đi, tôi đảm bảo sẽ ngủ như chết cho mà xem. Chết tôi chịu trách nhiệm.
Hôm ấy là ngày 22 tháng 12, kỷ niệm ngày thành lập Quân đội. Buổi chiều cả bệnh viện tập trung dự lễ kỷ niệm. Quân “đả thông” cho vợ, Thái cười:
- Chết cũng được! Chết như thế người ta gọi là chết sướng phải không anh?
Không hiểu sao, liền sau đó Thái ngủ tít mít một ngày rưỡi. Quân gọi, lay, rồi đập Thái vẫn không hay biết gì. Ngủ như chưa bao giờ được ngủ, mãi đến chiều tối hôm sau Thái mới tỉnh. Quân cho vợ ăn bát cháo, ăn xong Thái lại lăn ra ngủ. Ba ngày ba đêm, đến bữa thì Quân lay vợ dậy ăn, ăn rồi lại ngủ.
Phải nói, anh Viện trưởng bác sĩ quân đội tài thật!
Lần đi viện này đã không chết lại lãi thêm một đứa con. Xuất viện, Thái đã mang bầu. Chị em trong trường cứ đùa:
- Đi viện như mày thì ai cũng muốn đi viện. Lãi một gấp đôi. Sướng nhỉ?
Các anh thì trêu: “Ba năm du kích nằm kề, không bằng chủ lực nó về một đêm”.
* * *
Thái xuất viện. Thấy sức khoẻ vợ đã ổn định, công việc bên đơn vị Quân cũng tạm ổn, anh quyết định hai vợ chồng về quê, bởi từ ngày cưới, chưa một lần về. Bây giờ Thái lại mang bầu, nếu không về thì biết đến bao giờ về được.
Về quê chồng là cụm từ mà văn chương đã viết nhiều từ xưa đến nay, bởi nó miêu tả thật sâu sắc cảm xúc của một người phụ nữ đến cái mảnh đất mình không sinh ra, mình không lớn lên, nhưng rồi cuộc đời mình, con cháu mình sẽ gắn bó mãi mãi; cái nơi mà ở đó đã sinh ra người phối ngẫu, gắn bó với mình, cùng mình chia vui, xẻ khổ tận cùng suốt đời; cái nơi mà ở đấy người dưng của mình trở thành máu mủ ruột rà của con mình...Vì vậy mà tất cả mọi cung bậc tình cảm của người con gái đều có thể diễn ra khi về quê chồng lần đầu tiên.
Giống như phụ nữ làm dâu thời xưa, Thái đi đứng, nói năng sinh hoạt khép nép. Ngồi ăn cơm Thái cũng tranh ngồi đầu nồi. Nhà mười người, Thái chỉ mải xới cơm, nên ăn chưa được lưng bát đã thấy mọi người ăn xong đứng dậy, vì vậy mà không dám ăn nữa: “Dạ, con no rồi”. Buổi tối thấy chị em giã gạo, Thái cũng đứng vào giã cho hoà đồng. Được ba ngày như thế thì Thái muốn khuỵu gối, hoa mắt.
Lợi dụng lúc vắng người Thái nói với chồng:
- Anh Quân ơi! Em đói xỉu sắp chết rồi.
Quân hỏi:
- Sao em không ăn?
- Em đâu dám... vì ngồi đầu nồi mà... Anh ạ, ở lâu thế em đói em chết mất.
Quân biết vợ đang mang thai cần nhiều dinh dưỡng mà không được tẩm bổ, lại đói và vất vả thế thì cũng không tốt, anh quyết định lên đường về quê ngoại.
Chuyến đi của hai vợ chồng vậy là rất tốt đẹp. Trong điều kiện Quân đang chiến đấu ở chiến trường, Thái đang công tác, lại vừa qua trận ốm chín chết một sống, trong bụng thì đứa con hình hài chưa đầy hai tháng, tàu xe vô cùng khó khăn của cái thời bao cấp, lại chiến tranh hai đầu đất nước mà họ đã làm được một việc quan trọng của một đôi vợ chồng sau cưới là cả một vấn đề nan giải. Về đến căn phòng “đúc”, bụng dạ yên ổn kể như hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc.
Quân lại khoác ba lô ra mặt trận. Ở lại gian phòng bé nhỏ bây giờ có thêm một sinh linh trong bụng Thái. Hàng ngày Thái có bé để trò chuyện, có bé để hướng tới tương lai, có bé để khoả lấp nỗi buồn trống vắng xa chồng, xa quê hương họ hàng. Kỷ niệm của Thái với đứa con đầu lòng từ khi hoài thai cho đến sau này là những kỷ niệm đặc biệt mà cuộc đời dù có thế nào cũng không bao giờ phai mờ được. Thái hoài thai từ sau cõi chết trở về. Thực ra thì chồng cô cũng tương tự. Sang chiến trường rồi mới biết, những người lính trở về sau một cuộc chiến tranh là thực sự còn sống sót. Ở mỗi một cửa khẩu sang nước bạn, người ta đặt một nghĩa trang. Mỗi nghĩa trang có một trung đội dân quân làm nhiệm vụ mai táng. Họ phải đào huyệt trước đến cả chục cái. Không làm thế mặt trận đưa tử sĩ về làm sao kịp.
Để cải thiện thêm cuộc sống, nhà trường có một khu tăng gia ở Cát Sơn. Giáo viên, học viên phải thay nhau xuống Cát Sơn lao động. Mặc dù Thái mang bầu nhưng cũng không được miễn, vẫn đi, vẫn cấy, vẫn làm cỏ, bỏ phân... như mọi người. Giải lao còn vào rừng chặt củi bó lại, vác ra hàng cây số đưa lên xe mang về bê cả bó lên mái nhà phơi để chuẩn bị cho ngày sinh nở.
Rồi khi xe gạo của trường về thì tất cả ra vác gạo cho vào kho. Thái bụng to không vác được cả bao thì lấy thau xúc.
Bụng càng lớn thì càng đói. Đói nhưng không đủ cơm ăn, thức ăn cũng không có. Mỗi buổi khi lên lớp về, qua hàng rào dây thép gai Thái hái những nắm lá giang nấu với muối làm canh. Chờ chủ nhật ra chợ mua mấy lạng tôm con về tẩm muối rang cho kỹ, muối nhiều đến nỗi tôm vàng thành tôm trắng để ăn cả tuần. Bữa nào ăn cơm tiếng vét xoong cũng kêu ran cả dãy, vét đến trắng cả đít nồi. Cứ cái kiểu này cho đến khi sinh con khéo chiếc thìa chỉ còn cái cán. Chín tháng mang bầu thực đơn của Thái cơ bản trong ngày là: một lon gạo, nắm lá giang nấu muối, tôm rang và một quả trứng. Mọi người nhìn vợ một sĩ quan quân đội cấp tá thì ái ngại. Không sao, bây giờ Thái nghèo vì đất nước có chiến tranh, chồng Thái đi xa, rồi mai sau chưa biết “mèo nào cắn mỉu nào?”.