Sớm xuân.
Sương giăng mờ cả thung lũng.
Gió nhẹ khiến cho làn sương tan dần, để lộ cánh đồng Nà Lai, nắng thảm vàng hoa cải vàng mênh mông.
Nhớ quá nên vừa thi tốt nghiệp đại học xong Neo vù ngay về quê Nà Lai. Neo xách chiếc lồng chim theo ông Mùi đi đánh chim gáy đôi. Bất chợt đôi chim gáy từ cánh rừng chân núi Chúa bay sà xuống mép ruộng cải. Đôi bạn tình sát bên nhau. Con đực nghênh đầu, gáy cù-cù-cù-cù-cù, tiếng gáy “cù” cặp năm, ai dà, tiếng gáy thổ đồng nghe trầm ấm, rền vang như tiếng cồng chiêng, khiến con mái phải nao lòng. Một lúc, đột nhiên con gáy đực bay vù lên không trung, lượn mấy vòng, con mái nghênh đầu ngước nhìn, lưỡng lự, rồi cũng vụt bay lên, lượn vòng theo con đực và đôi bạn tình rủ nhau bay tít xa. Neo ngẩn người, tiếc, khẽ kêu: “Thế là mất hút đôi gáy rồi!”. Ông Mùi kéo mỏ chiếc mũ ra sau gáy, nheo mắt nhìn theo hướng đôi chim gáy, lẩm bẩm: “Hai chúng nó rủ nhau lên bãi soi Cà Lồ đây mà!”. Bằng kinh nghiệm nhiều năm đánh chim gáy, ông Mùi chắc chắn thế, liền rủ Neo, vác lưới với lồng chim, đèo xe đạp, gập ghềnh về tận Cà Lồ, cách Nà Lai mấy ngọn núi. Mới ngang buổi, mặt trời tỏa nắng ấm, bãi soi Cà Lồ ngả bóng tre xanh. Ô, kia rồi! Đôi chim gáy đang giao tình bên lùm tre xanh. Ông Mùi nhanh tay giăng cánh lưới trên bãi cỏ bên những thửa ruộng nhàu nát rơm rạ, lất phất hoa dại lẫn cỏ xanh. Ông buộc con chim mái mồi lên cành tre, còn con đực mồi buộc trong tầm cánh lưới. Ông Mùi và Neo núp vào lùm cây chó đẻ một lúc thì con chim đực mồi trổi giọng, gáy luôn vài hơi vang như tiếng chuông ngân, tiếp đó, nó gù tiền, nghĩa là gáy bo có ý khêu gợi, chọc tức con chim gáy đực đang theo mái ở đằng kia (còn gọi là chim bổi) khiến nó nổi máu yêng hùng mà lao tới. Khi con bổi bay đến gần, con mồi lập tức gù hậu kết hợp với giọng kèm liên tục như xúi bẩy con bổi lao vào với con mồi trong tầm cánh lưới. Nhưng lạ, con chim gáy vừa bay tới, cứ đi đi lại lại, nghển cái cổ vàng lấp lánh ánh cườm ngó nghiêng, có ý dò xét con chim mồi. Nó thoắt cái chân nhỏ xíu vào mép tấm lưới, rồi lại trở ra. Nó làm cho Neo hồi hộp, tim cứ đập thon thót! Như định mệnh, nghe tiếng chim mồi thúc giục đến không thể kìm nén, con chim gáy nhào vào với con mồi, thế là “rụp”, nó xõa cánh giãy giãy bất lực trong cánh lưới ma quái. Ông Mùi chạy lại tóm con chim gáy, bàn tay gầy guộc vẻ âu yếm vuốt ve mãi cái cổ cườm óng ánh của nó. Ông Mùi cười hì hì, mắt sáng ngời, vẻ kiêu hãnh, nhìn Neo, bảo hình như nó là con chim gáy thổ đồng tuyệt vời mà ông từng theo đuổi suốt mấy mùa xuân qua. Như muốn làm ngời thêm niềm kiêu hãnh của người chiến thắng, ông Mùi nói với Neo rằng, chim gáy gáy tiếng thổ đồng không đơn điệu chỉ mì-là-rề như người ta tưởng đâu mà kỳ diệu lắm cơ. Này nhé, giọng của chim cu gáy thường có bốn âm chính là âm thổ, âm đồng, âm son (còn gọi là âm chuông), âm kim (còn gọi là âm tiểu). Nhưng thực ra, có con gáy giọng âm thổ với bốn giọng khác nhau. Thổ đồng âm trầm thấp nhưng rền vang như tiếng cồng chiêng. Thổ bầu âm trầm, ồm ồm và vang vọng ra xa. Thổ sấm giọng rền như tiếng sấm ran. Thổ rê giọng nỉ non, êm ả như tiếng dế gáy. Giọng âm đồng thì pha các giọng như: Đồng pha thổ, nghĩa là giọng trầm và âm vang. Đồng pha son thì giọng rền và vang xa. Đồng pha kim, tức là giọng không lớn nhưng vang rền trong gió. Giọng âm son nghe như tiếng chuông rền vang. Nhưng son pha thổ thì giọng trầm ấm như tiếng sấm nổ rền vang từ xa. Son pha đồng thì giọng vừa to vừa vang rền như tiếng sấm. Son pha kim thì khởi đầu giọng to và vang xa nhưng cuối giọng lại nhỏ dần. Giọng âm kim cũng rất lạ. Kim pha thổ thì giọng vừa nhỏ vừa trầm như sấm rền trong mây. Kim pha đồng thì giọng trung bình nhưng lại có âm vang xa. Kim pha son giọng không lớn nhưng như tiếng chuông ngân trong gió sớm. Còn muốn chọn tìm con chim cu gáy khôn thì phải nhớ lời người xưa dạy: Nhất huỳnh liên, là chim có cườm đóng quanh cổ màu vàng. Nhì liên giáp, là thân chim săn chắc gọn gàng, như cái bắp chuối, lông sát chặt vào thân gọn gàng như người chiến binh xưa mặc áo giáp khi ra trận. Tam quá khóe, là vệt lông nhỏ màu đen kéo từ khóe miệng đến khóe mắt. Tứ chân khô, là chân chim không phải màu hồng tươi tắn, mà là màu xám của vỏ cây cổ thụ. Ngũ liên hoàn, là vòng cườm đóng giáp vòng khắp cổ của chim. Lục cườm rựng, là loại cườm lót, tức lớp lông đen mọc chen giữa vòng cườm ở cổ chim. Con gáy vừa bắt được đây là huỳnh liên, nhất đấy, vì có cườm đóng quanh cổ màu vàng. Nghe thế, mặt Neo cứ ngẩn ra. Neo chặc lưỡi khen, sao ông Mùi giỏi thế, hiểu chim gáy như hiểu con người ấy. Neo học đến cả đại học mà cũng chẳng biết được bao nhiêu điều kỳ diệu trong cuộc đời này. Ở núi Chúa, ở Nà Lai, ở Khau Sưa có biết nhiêu bao loài chim, mà Neo chẳng hiểu gì cả. Neo nhìn ông Mùi gầy hốc, mặt nhăn nhúm sẹo đỏ sẹo tím, ngón tay cứ vuốt ve con chim gáy thổ đồng huỳnh liên, nghĩ thương.
- A! - Ông Mùi chợt reo lên - Neo ơi! Tao nghĩ ra rồi! Mày lấy cái điện thoại chụp ảnh con gáy thổ đồng này, đưa ngay lên mạng. Có việc hay đấy! Làm ngay nhé!
- Ơ, bác lại có chuyện gì à? - Neo rướn mắt hỏi.
- Ừ, có chuyện hay mà lị!
- Vâng, thế thì bác cháu mình về ngay đi!
Thế là ông Mùi và Neo gập ghềnh xe đạp về nhà Neo. Trên đường về, Neo phấn khởi, một tay ghi đông xe đạp, một tay vung vẩy, giọng sôi nổi, khoe với ông Mùi rằng Neo đã xây dựng xong Dự án du lịch sinh thái cộng đồng núi Chúa. Neo không đi làm nhà nước mà về quê Nà Lai - Khau Sưa, sẽ xin phép chính quyền địa phương, tìm đối tác tham gia dự án, vận động dân các bản Nà Lai, bản Cò Nòi, bản Vèn, bản Phiêng, bản Bon, bản Thoong Sam, bản Cà Lồ cùng tham gia làm du lịch cộng đồng. Nhiều việc lắm. Vốn ban đầu chừng năm đến bảy tỷ đồng. Cũng khiếp! Tiền làm đường tốt từ Cà Lồ ngược lên Nà Lai. Tiền cho dân vay để sửa chữa, nâng cấp nhà sàn và mua sắm trang thiết bị nội thất. Tiền mở mới đường tham quan động cậu Cóc, đường tham quan rừng gỗ cổ thụ, rừng vầu, rừng nứa, rừng chuối. Tiền mở mới trạm nghỉ và tắm suối Be, câu cá thác Tu Mi. Tiền đầu tư cho các bản phục dựng lại những điệu dân vũ như: xòe Tày, tết nhảy, đâm luống, cầu mùa; các làn điệu dân ca như: hát then, hát cọi, hát pựt, hát khảm hải, hát quan làng; các lễ hội như: hội lồng tồng, lễ cấp sắc, lễ cúng cơm mới, lễ cúng thoong, lễ mừng nhà mới, đám cưới người Tày, đám cưới người Dao, đám cưới người Nùng. Tiền đầu tư cho các sản phẩm du lịch như: thổ cẩm, ớp, quẩy, nỏ, kèn, tù và, măng, miến, thuốc Nam, thịt trâu khô, thịt nai khô, cơm lam nếp cẩm, cơm lam gạo kén nương, vân vân. Ôi, nhiều thứ lắm!... Ông Mùi ngồi sau xe, nghe Neo nói thật tâm huyết, phải xuỵt xòa: “Ơ, cái thằng bé này thế mà giỏi! Mày nghĩ ra việc tốt, lại nghĩ cho dân bản, nghĩ cho quê hương, đã bảo phải học mới có tri thức, mới thành người tử tế, mới giỏi thế được chứ!”, Neo nói: “Bác lo cho cháu cái khoản chợ chim nhé?”, ông Mùi bảo: “Chim với cò, được rồi, nhưng mày đã nói chuyện này với cha Sa Thổ chưa?”, Neo nói: “Cháu nói rồi!”, ông Mùi hỏi: “Thế mày lấy đâu ra những bảy tỷ đồng, hả?”, Neo nói: “Thì Sở Du lịch thành phố Mã Sơn chủ đầu tư phải góp nhiều vốn nhất, đến các nhà đầu tư khác, như cháu chẳng hạn, góp chừng năm trăm triệu, bố cháu bảo sẽ cho cháu cả đàn trâu hơn hai chục con, bác nữa, vài chục triệu chẳng hạn, còn dân bản, rồi ông nào ở Khau Sưa nữa, có lòng thì chung vốn vào, cùng làm, cùng hưởng.”, ông Mùi bảo: “Cái thằng thế mà giỏi! Mà, mày quên mất ông Tử Pín? Ông ấy tiền nhiều như nước, phải mời ông ấy cùng tham gia đầu tư vào đây chứ?”, Neo nói: “Cháu cũng nghĩ đến ông Tử Pín rồi, chỉ lo ông ấy còn chuyện khó chịu với cha cháu, mới lại, ông ấy muốn mua tất núi Chúa làm du lịch cơ, không muốn chia sẻ với ai!”, ông Mùi bảo: “Mày nghĩ đúng, nhưng cứ để đấy, thế nào tao với cha mày cũng thuyết phục được ông Tử Pín, chờ đấy.”. Neo nghe ông Mùi khen thì âm ỉ sướng. Ông Mùi thầm nghĩ, việc lớn của thằng Neo có lẽ phải nhờ tới ông Tử Pín thôi. Ông ta nhiều tiền, có cả một hầm tiền cơ mà, lại máu làm ăn, đúng là chỉ lo mỗi chuyện ông ta không muốn chia sẻ? Ừ, cứ biết thế, rồi sẽ bàn với ông Sa Thổ giúp thêm cho thằng Neo. Ông Mùi sung sướng với cái dự án của Neo suốt đường về nhà. Vừa về nhà, Neo dùng điện thoại chụp ngay ảnh con gáy thổ đồng huỳnh liên, rất đẹp, rồi đưa lên Facebook kèm theo địa chỉ, số điện thoại cần liên hệ, rao bán luôn. Hai bác cháu hồi hộp chờ người ngỏ ý. Mãi gần tối, điện thoại của Neo bật chuông nhạc… Neo như vồ lấy điện thoại, nghe.
- Vâng, tôi là Neo đây! Vâng, Neo ở Nà Lai có con gáy thổ đồng cổ cườm vàng, tuyệt vời đấy... Vâng, anh có muốn xem thì xuống Nà Lai hoặc tôi sẽ mang đến tận nhà cho anh xem, được không? Tôi xin anh địa chỉ và thời gian gặp, nhé... Vâng, tôi nghe rõ! Xin cảm ơn!
- Này, bác Mùi, lại có chuyện hay đây. - Neo tắt điện thoại.
- Gì thế? - Ông Mùi chớp chớp mắt, hỏi.
- Gì nữa? - Neo lặng người, nói nhỏ - Cái tay ngỏ ý mua con gáy của mình chính là tay Tử Pín, hay chưa?
- Tử Pín? - Ông Mùi tròn mắt - Nhà tay này có cả một dàn chim họa mi, chim khiếu, chim sáo, chim vẹt, đâu có biết chơi chim gáy thổ đồng nhỉ? Tay này chỉ chăm chắm làm các công trình xây dựng lớn, kiếm tiền tỷ, lấy đâu thời gian mà chơi chim, mà chơi chim quý nữa? Hay là...? Mà hắn anh em nhà sếp Vương, rất có thể hắn chỉ mua để tặng cho ông anh rể kính mến thôi. Dù sao cũng cứ thử xem?
- Thì cứ thử xem! - Neo đồng ý.
Chờ tối, theo lời hẹn, Neo đèo ông Mùi trên chiếc Suzuki với con gáy thổ đồng, vù xuống thị trấn Khau Sưa, đến dinh Tử Pín. Ai dà! Ánh điện tỏa sáng lung linh, làm sáng bừng cả dinh thự mĩ lệ. Chiếc Suzuki vừa khừ khừ chớm cửa sắt dinh thự Tử Pín thì con Pốp nhào ra, vươn cao cổ, gừ-gừ-gừm. “Pốp! Pốp!”. Một người trong nhà quát ra. Nó nghe tiếng quát đầy uy quyền, liền im bặt, quay trở vào, nằm ệp xuống thềm nhà. Vệ sĩ Rô ra mở cổng. Ngay đấy, cậu Tử Pín dệnh dạng bước ra, mặt lạnh như đá.
- Chào!
- Vâng, chào ông Tử Pín! - Ông Mùi khiêm tốn.
- Ai mang cho tôi con chim gáy, hử? - Tử Pín hất hàm.
- Là tôi đây! - Ông Mùi nâng chiếc lồng chim trước mặt Tử Pín.
- Con gáy thổ đồng cổ cườm vàng, chắc chứ?
- Tôi là Mùi, làm nghề bẫy chim gáy đã hơn ba mươi năm, dám chắc mà!
- A, ông Mùi chim gáy! - Tử Pín có vẻ thân thiện hơn - Tôi nghe danh ông đã lâu, thật là “Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình”. Tôi tin ông!
Nghe thế, Tử Pín lại gần, ngó ngó vào trong lồng, lấy ngón tay gõ gõ vào cạnh lồng, thử độ nhạy cảm của con chim. Con gáy nhảy nhảy, cái đầu gật gù, cái mỏ nghênh nghênh. Ông Mùi bảo Tử Pín cho tắt bớt mấy bóng điện lớn cạnh sân, chỉ để mấy bóng điện ngoài ngõ cho ánh sáng bớt rực rỡ. Một lúc, ông Mùi treo lồng chim vào dãy lồng chim nhà Tử Pín, một lúc nữa, ông Mùi chúm miệng gù mồi cù-cù-cù..., tức thì con gáy gióng cao cổ cườm vàng, gù liền tiếp cù-cù-cù-cù-cù..., gáy cặp năm, giọng trầm ấm, rền vang như tiếng cồng chiêng, lạ thường. Nghe con gáy thổ đồng gù hay quá, Tử Pín ngây ra. Miệng lẩm bẩm. “Ôi giời! Cái con gáy thổ đồng mới tuyệt làm sao! Anh rể Vương ơi! Em tìm cho anh con gáy thổ đồng đây này. Nhất anh rể đấy! Thưởng to cho thằng em cậu, nhé”. Nghe Tử Pín lẩm bẩm, ông Mùi nhăn mũi. “Ơ, cái ông Tử Pín này, xem ra quý ông anh rể nhất đời nhỉ?”. Phải rồi, ông Mùi chợt nghĩ ra, nhà sếp Vương bao giờ cũng có cả một bầy chim hót vang, nhưng sếp Vương chỉ quý giống chim gáy thổ đồng thôi. Bởi vì, ông Lê Lang Quân, bố của sếp Vương ngày xưa chỉ chơi chim gáy thổ đồng, mê chim gáy thổ đồng đến nỗi bỏ cả phố đông lên rừng ở một mình với chim gáy, lạ thế. Cũng bởi vì - ông Trần Gia Thành kể cho con trai Trần Gia Mùi nghe - cái ngày xưa, ông Lê Lang Quân, bố sếp Lê Lang Vương đấy, làm thông ngôn cho Pháp. Một lần, ông Lang Quân đưa mấy lính Pháp và lính dõng từ Hạ Hòa, Phú Thọ lên làng Phiêng Cải, Sông Thao, bắt Việt Minh. Chưa thấy Việt Minh đâu, ông Lang Quân đưa mấy người lính vào nhà nghỉ tạm, lúc ấy cha Thành đương kim Chánh tổng Sông Thao. Gay rồi! Căn hầm bí mật giấu Việt Minh ngay chái nhà, biết làm sao? Cha Thành nghĩ cách, liền sai vợ con mổ gà, nấu cơm nếp, mang rượu ngon thết đãi mấy người lính và ông thông ngôn Lang Quân. Cơm no, rượu say, mấy người lính mơ mơ ngủ trong ngôi nhà ngói năm gian dưới bóng mít sum suê, treo hàng hàng lồng chim gáy. Buổi trưa hè gió Sông Thao thổi mơn man. Bỗng đàn chim gáy thi nhau gù cù-cù-cù-cù-cù..., nghe sao mà ấm áp, bình yên thế, như không hề có chuyện lính Pháp xâm lăng, như không hề có chuyện ông Lang Quân thông ngôn cho Pháp, đưa lính Pháp với lính dõng đi bắt Việt Minh, hại dân, hại nước. Cả dàn đồng ca chim gù. Quyện lẫn trong dàn đồng ca ấy, một nốt trầm xao xuyến cất lên cù-cù-cù-cù-cù..., cặp năm, nghe trầm ấm, rền vang như tiếng cồng chiêng, cái trầm ấm như quyện mùi đồng đất ngọt lành của làng Phiêng Cải. Những người lính mơ mơ, mơ về quê hương xa vời. Mình ông thông ngôn Lang Quân không mơ ngủ. Ông nghiêng đầu nghe con chim gù giọng lạ. Giọng của nó khiến ông xao xuyến lắm. Ông nhỏm dậy, nhẹ chân bước ra hiên nhà, hỏi cha Thành, mới biết đấy là con chim gáy giọng thổ đồng. Ông Lang Quân không giấu được niềm phấn khích nghe chim gù, ông đi quanh dãy lồng chim gáy, rồi nhẹ bước vào nhà. Ô, một bàn thờ lớn, cổ kính, nào đỉnh đồng, hạc đồng, âu đồng, vạc đồng, đĩa đồng, cây nến đồng, chuông đồng, lư hương sứ cổ, mõ, bao nhiêu là hoa, quả, kim tiền, giấy vàng, giấy bạc. Ông ngó lên ban thờ, chợt chạm gương mặt Đức Phật nhắm mắt thiền định trên tòa sen. Hình như Đức Phật muốn hỏi Lang Quân, ngươi làm gì ở đây thế? Ông Lang Quân đến gần bàn thờ, ngắm mãi Đức Phật, lòng ông bồi hồi, cảm giác lạ. Ở nhà cha Thành đến tối, không thấy có dấu vết Việt Minh, chỉ huy Pháp lệnh cho rút lui. Ông thông ngôn Lang Quân gặp cha Thành, ngỏ ý xin con gáy thổ đồng. Vâng, tôi biếu ngài! Cha Thành mặt tươi, khúm núm vái chào các ông lính Pháp, lính ta và ông thông ngôn Lang Quân. Vái chào! Vái chào! Cha Thành vội vào nhà, thắp hương, quỳ gối khấn: “Con lạy Đức Phật từ bi đã cứu chúng con!”. Cha Thành ngẩng lên: “Ô ô, thôi chết rồi, không thấy Đức Phật ngồi tòa sen đâu? Ô, Đức Phật! Ngài? Hình như... lúc đêm về, ông thông ngôn Lang Quân có xách lồng chim và ôm một gói nhỏ bên người? Thôi chết! Lão thông ngôn Lang Quân cuỗm mất pho tượng Đức Phật của ta rồi! Lão thông ngôn khốn kiếp!”. Uất ức, sợ hãi, cha Thành ốm cả tháng. Vẫn sợ lão thông ngôn Lang Quân đưa lính Pháp trở lại bắt Việt Minh, cha Thành liền bí mật đem chôn giấu bộ tràng kỷ gỗ lim với cái hòm gỗ mít dùng quyên góp tiền, vàng trong “Tuần lễ vàng” dưới hõm đầm Vạc... Nghe thế, ông Mùi mới biết cha Thành là một cán bộ cách mạng, nhà mình là một cơ sở cách mạng, cha Thành từng giữ chức Ủy viên Mặt trận Việt Minh Sông Thao, phụ trách cả mấy tổng ven Sông Thao. Ngày “Tuần lễ vàng”, cha cùng cán bộ cách mạng cơ sở đứng ra quyên góp được mấy chục cân vàng cùng với mấy vạn đồng tiền Đông Dương cho cách mạng. Cha còn nuôi giấu cán bộ Việt Minh trong nhiều năm, từng cứu thoát nhiều cán bộ cách mạng mà sau này làm đến tướng, tá, làm đến bộ trưởng. Công lao lớn lắm! Bao năm dân làng Phiêng Cải và một số cán bộ trong vùng không biết, cứ nghi ngờ cha làm chánh tổng cho chế độ xấu xa. Mãi sau này kháng chiến thành công, năm 1954 giải phóng miền Bắc, cha mới lộ diện, được Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, được công nhận là “Lão thành cách mạng”, có chế độ hưu trí đàng hoàng. Đấy là chuyện về người cha thân yêu của ông Mùi, đã rõ. Còn nỗi khổ thân cho ông Mùi là bao năm nay không cách nào tìm được tung tích tượng Đức Phật, một pho tượng đồng đen, rất quý. Chuyện là, năm Bốn chín, tình cờ một buổi chiều tà cha Thành ra sông Thao, bơi thuyền nan vớt củi mùa nước lũ, bỗng nghe tiếng kêu rên tắc nghẹn đâu đây, ngoảnh ra, cha Thành chợt thấy một cái đầu tóc rũ nhấp nhô bên khúc gỗ trôi giạt cùng rều rác, cha Thành vội lao thuyền tới, túm đầu tóc, túm hai tay, lấy hết sức lôi lên, ôi cha, một người đàn ông nhão ướt, da tím tái, mắt trắng lờ đờ, thoi thóp thở. Người đàn ông được cha Thành đưa về nhà chăm sóc chu đáo, hỏi ra mới biết ông ta tên Nguyễn Khá người Bạch Hạc chuyên buôn bè sông Thao. Không may bè va ghềnh Cóc bị vỡ mới nên nông nỗi. Ông Nguyễn Khá ở nhà cha Thành cho đến khi lại sức thì về quê, được cha Thành chu cấp tiền, lương thực ăn đường đầy đủ. Một thời gian sau, ông Nguyễn Khá ngược tàu hỏa, tìm đến nhà cha Thành để tạ ơn. Cũng không ngờ, ông Nguyễn Khá đem tặng ân nhân Gia Thành pho tượng Đức Phật ngồi tòa sen, pho tượng bằng đồng đen. Cha Thành đã mời Pháp sư về cúng khấn mấy ngày đêm nhập hồn thiêng cho pho tượng Đức Phật. Bây giờ pho tượng mất khiến ông Mùi đau khổ, lo lắng, chịu lỗi với người cha đáng kính, khiếp nhất là, thầy Khổng Xích Tồ bảo, chỉ khi nào tìm lại được pho tượng Đức Phật thiêng thì ông Mùi mới tìm lại được mộ cha đã mất dấu mấy chục năm qua, khiến cả nhà, cả dòng họ Trần Gia làng Phiêng Cải lo lắng, buồn bã. Sự thực thì ông Mùi đã nhắm nhà sếp Vương mấy lần, hỏi dò dân hàng phố, lại thuê mấy đứa trộm vặt đi dò xét, nhưng đều không thấy gì. Hay là? Tự dưng ông Mùi nghĩ đến cái điện thờ trên tầng cao dinh Tử Pín. Biết đâu? Tử Pín là em vợ sếp Vương? Ai cũng gọi cậu Tử Pín, trọng vọng lắm. Biết đâu?
Đang nghĩ ngợi vẩn vơ thì ông Mùi nghe Tử Pín nói rõ rành: “Tôi mua con gáy thổ đồng. Ông phải đích thân mang con gáy lên lầu thượng treo và thắp hương lên điện thờ nhà tôi, khấn vái tổ tiên, ông bà, cha mẹ tôi cẩn thận”. Thật là giời xui khiến! Ông Mùi nhận lời, nhẹ bước, xách lồng chim lên lầu thượng, treo bên hiên điện thờ. Ô, lầu thượng dinh Tử Pín mới hoành tráng làm sao, xem ra chẳng khác gì điện thờ trong một ngôi chùa lớn, mấy dãy tượng thánh thần, tượng Phật được giăng chùm điện quả nhót nhấp nháy xanh đỏ tím vàng, và di ảnh ông, bà, cha, mẹ, kia lư đồng, hạc đồng, đỉnh đồng, đĩa đồng, hai chiếc độc bình lớn, ba bát hương sứ nhấp nháy hương điện, nải chuối điện vàng nhấp nháy, mấy quả dứa điện vàng nhấp nháy, ngồn ngộn là vàng, hương, tiền, hoa, quả, bánh, kẹo... Ông Mùi ngước lên. Ôi, tượng Đức Phật! Ông Mùi thầm nghĩ, có lẽ nào tượng Đức Phật của cha mình lại ngự trên điện thờ dinh Tử Pín? Có phải sếp Vương tặng em cậu Tử Pín không? Mà có phải tượng Đức Phật đồng đen không chứ? Nếu là tượng quét nhũ thì chẳng có ý nghĩa gì? Ông Mùi ngó quanh không thấy Tử Pín, liền kiễng chân với lấy pho tượng, thấy nặng, ông Mùi đưa cả hai tay nâng pho tượng xuống, ôm sít vào ngực. Trái tim ông Mùi bỗng rung lên, đập thình thịch, hình như có giao cảm lạ lùng. Ông Mùi nhìn quanh pho tượng, thấy rõ những hoa văn giống như trong di chúc cha kể lại. Đây rồi, pho tượng Đức Phật của cha đây rồi! Nhưng làm sao lấy lại được pho tượng? Dinh của Tử Pín kín cổng, cao tường, lúc nào cũng có mắt của vệ sĩ Rô và Báo ngó nghiêng, lại một lũ chó săn dữ dội với con Pốp khôn ranh ghê gớm. Ừ, phải rồi, ông Mùi nghĩ ra kế, chỉ còn cách nhờ cô Mê ô-sin thôi. Ông Mùi chợt nghe tiếng chân bước lên cầu thang, vội đặt lại pho tượng vào chỗ cũ, vờ cúi đầu, lầm rầm khấn vái. Tử Pín dệnh dạng bước vào điện thờ, lên giọng:
- Tôi muốn ông trực tiếp báo cáo với thần linh, Đức Phật và tổ tiên, cha mẹ tôi rằng, ông có con chim gáy thổ đồng quý hiếm, đem dâng lên các Ngài, cúng bái chân thành.
- Ông Tử Pín thật có lòng hiếu thảo! - Ông Mùi khen.
- Người họ Vũ Tử nhà tôi vốn thế mà! - Tử Pín tự khen - Bây giờ ông làm sao cho con chim gáy cất tiếng, thật mĩ mãn nhé.
- Vâng!
Ông Mùi đi lại phía lồng chim gáy, cất tiếng gù mồi: cù-cù-cù..., tức thì con chim gáy nghển cái cổ cườm vàng, mắt tròn long lanh, giương chiếc mỏ bé xíu, cất tiếng gù cù-cù-cù-cù-cù..., tiếng gù “cù” cặp năm trầm ấm, rền vang như tiếng cồng chiêng, nghe nồng nã, ấm áp, cứ khơi gợi về nơi thôn dã với khung cảnh đồng quê nồng nàn hương lúa chín, mơ màng khói lam chiều, vi vu gió trưa hè, mênh mang lời ru ngọt ngào, lịm lịm hoàng hôn tím, cảm nhận sự thân thương và bình yên vô cùng. Ông Mùi nghênh mặt vẻ tự hào, hỏi:
- Ông Tử Pín thấy con gáy thổ đồng thế nào?
- Tuyệt vời! - Tử Pín khen.
- Nếu ông Tử Pín cần con gáy thổ đồng nữa, tôi xin hầu!
- Tôi muốn mấy con nữa!
- Vâng! Nhưng tôi cũng nói thật lòng ... - Ông Mùi thăm dò - Loài gáy thổ đồng rất quý hiếm, khó bắt lắm. Nếu ông mua để chơi hay đem biếu tặng các sếp bề trên thì tôi mới cố công đi tìm, còn không thì...
- Tôi biết mà! - Tử Pín thật lòng - Tôi mua là để chơi cho vui. Nếu có tặng thì tôi chỉ tặng anh rể Vương của tôi thôi.
- A, thế thì tôi cố gắng!
Ông Mùi nghĩ ngay, pho tượng Đức Phật kia chắc chắn là của sếp Vương tặng cho thằng em trai của người vợ yêu quý. Và như thế, chắc chắn, pho tượng kia là tượng đồng đen, gia bảo của nhà mình. Nhưng làm sao lấy lại được pho tượng Đức Phật kia chứ? Ừ, ta chỉ trông vào cô Mê ô-sin thôi.
Ông Mùi được Tử Pín tin cậy, lại nhận ra tượng Đức Phật trên điện thờ dinh Tử Pín, lòng tràn ngập niềm vui. Chia tay Tử Pín, ra ngoài cổng, ông Mùi bàn ngay với Neo về chuyện tìm cách lấy lại tượng Đức Phật. Neo đồng ý, hai người ngồi uống nước ở quán lá ven đường, chờ cô Mê ô-sin đi chợ thị trấn Khau Sưa về.
Chiều muộn.
Cô Mê đạp chiếc xe đạp cà tàng, phía trước là chiếc lồng sắt đầy ắp củ, quả, thịt, cá, còn treo lủng lẳng mấy mớ rau ở hai ghi đông nữa. Đợi cô Mê đạp xe đến khúc đường quanh có hàng tre dài ngả bóng râm mát, Neo và ông Mùi ra chặn xe.
- Chào cô Mê! - Neo giữ ghi đông xe cô Mê, giọng tốn - Cô còn nhớ cháu với bác Mùi hôm giỗ mẹ ông Tử Pín chứ? Bác Mùi muốn nói chuyện với cô một tí.
- A, cậu Neo, tôi nhớ chứ! - Cô Mê xuống xe, vẻ mặt tươi tắn.
- Cô hỏi dò chuyện về pho tượng Đức Phật cho bác Mùi chưa? - Neo vẫn giữ ghi đông xe cô Mê.
- Thì tôi đã phôn cho bác Mùi đây rồi!
Cô Mê vừa nói vừa nhìn ông Mùi như ý bảo có đúng thế không? Ông Mùi nhìn cô Mê, gật đầu, thấy ngại quá, tự biết mình già, xấu xí, vô duyên, còn cô Mê thì..., ngại quá. Cô Mê đứng bên đường, dáng vâm váp, áo sơ mi hoa cà tím trễ cổ, nước da nâu, tóc đen buộc vểnh đuôi gà, mắt sáng long lanh, mũi dài thẳng, miệng tươi như hoa đào, ngực căng nức, người quê mà đẹp hồn hậu, chứ không như hôm thấy cô ở trong bếp ăn. Nhìn cô Mê một lúc như muốn dò xét thái độ, ông Mùi chân thành nói:
- Cô Mê thông cảm! Chiều nay chúng tôi đến bán chim gáy cho ông Tử Pín, cô xem có cách nào cho tôi lên điện thờ nhà ông Tử Pín được không?
Ông Mùi không giấu được sự xúc động, nói ngập ngừng, nước mắt rưng rưng. Ông đã kể với cô Mê qua điện thoại di động về chuyện người cha thân yêu có pho tượng Đức Phật bằng đồng đen, bị ông Lang Quân bố của sếp Vương lấy trộm từ lúc ông ta còn làm thông ngôn cho Pháp, pho tượng có liên quan đặc biệt đến phần mộ của người cha bị mất dấu đã mấy chục năm, nay bỗng thấy trên điện thờ dinh ông Tử Pín, chuyện thật mà như mơ, không thể tưởng tượng được, bây giờ muốn lấy lại pho tượng, biết làm sao? Nghe xong câu chuyện lạ thường, cô Mê đã hứa sẽ tìm cách cho ông Mùi lấy lại pho tượng Đức Phật nhưng phải chờ cơ hội nào may mắn mới được. Chiều nay bất ngờ gặp ông Mùi và Neo ở đây, thông cảm lắm nhưng biết làm sao chứ? Cô Mê nhìn ông Mùi, giọng ấm nhẹ:
- Bác Mùi ơi! Tôi nghĩ, hay là bác cứ nói thẳng với cậu Tử Pín, xin lại pho tượng?
- Giời ạ! - Ông Mùi khẽ kêu lên - Cô không biết pho tượng Đức Phật quý giá thế nào đâu, mà tượng đồng đen vô giá, lại có liên quan đến bố con sếp Vương, thì làm sao ông Tử Pín trả lại bức tượng? Chỉ còn mỗi cách... nhờ cô...
- Tôi thì giúp được gì chứ? - Cô Mê ngại ngần.
- Cầu xin cô nhận lời, hễ có cơ hội thì báo tin qua điện thoại cho tôi, rồi mở sẵn cái cổng, được không?
- Tôi sợ lắm! - Cô Mê lo lắng - Nhà cậu Tử Pín kín cổng cao tường, vệ sĩ với lũ chó canh gác đêm ngày, nhỡ lộ chuyện, tôi không thể sống được đâu!
- Vâng, tôi hiểu mà! - Ông Mùi nói chắc - Tôi không muốn cô bị liên lụy vì chuyện nguy hiểm lắm, nhưng tôi sẽ chờ cơ hội, may ra, nhất định sẽ có cơ hội tốt cho chuyện này, chỉ xin cô thật lòng giúp đỡ.
- Cô Mê ơi! - Neo chen vào - Bác Mùi với bố cháu cùng là bạn bộ đội, rất thân nhau. Hoàn cảnh bác Mùi đáng thương lắm! Bác ấy bị chất độc da cam, con cháu sinh ra chẳng giống người, khổ vô cùng, lại bị mất mộ cha nên sinh ra bao nhiêu chuyện chẳng lành, mong cô giúp bác ấy nhé!
- Tôi biết rồi, nhưng sợ lắm! - Cô Mê ngại ngần.
- Tôi cầu xin cô!
Ông Mùi quỳ xuống đất cầu xin, cô Mê vội đưa tay đỡ ông Mùi đứng dậy, và cô Mê gật đầu, rồi đạp xe thật nhanh như muốn dứt bỏ ý nghĩ nguy hiểm...!