Ông Mùi ra vườn, xách lồng chim gáy, đem treo trên hiên nhà, ngay chỗ đặt thằng Gâu trong cái cũi nhỏ. Ông Mùi chúm miệng gáy mồi: “cù-cù-cù...”, tức thì con chim gáy nghển cao cái cổ cườm xanh biếc, mắt long lanh, chặp chặp mỏ: “cù-cù-cù…”. Thằng Gâu nghe chim gù, tiếng gù thân thiết, gợi cảm làm sao, khiến nó tẫng lên, hai tay bám chặt vào thành cũi, đầu nghênh nghênh, mắt mơ màng, miệng a à vẻ thích thú. Ông Mùi nhìn thằng cháu nội mà ứa nước mắt. Lúc mới sinh ra, nó cũng bình thường, ông vui quá liền đặt tên nó là Gâu, cái con chim gáy còn gọi là chim cu hay chim gâu mà nó “gáy” hay gọi là “gù” bằng cái giọng thổ đồng thì hay tuyệt đỉnh, mà ông Mùi rất yêu quý loài chim Gâu gù giọng thổ đồng nên ông đặt cháu nội yêu là Gâu, nhưng càng lớn thằng Gâu càng không giống người bình thường. Khổ thân thằng bé! Năm nay Gâu hơn hai mươi tuổi mà chỉ như đứa bé lên năm, lên bảy. Người quắt queo. Chân tay khẳng khiu. Đầu to, lưa thưa tóc vàng. Mắt lố, không mi, không mày. Tai bé bằng tai chuột. Mấy cái răng thưa, nhọn như gai. Thằng Gâu không ra hình hài con người. Thương lắm!
Thằng Gâu là thế hệ thứ hai bị chất độc dioxin làm cho biến dạng. Bố nó - thằng Mừng, bị chất độc dioxin nhẹ, cũng mắt hếch, nói ngọng, tay trái hơi cong cong, nhưng còn lao động, sinh hoạt khá bình thường. Thằng Mừng nhìn con không chịu nổi, sau mấy năm buồn bã, đã cùng vợ bỏ nhà, bỏ cả thằng Gâu cho ông bà, theo người cùng làng vào tận trong Pleiku trồng cà phê. Bây giờ thằng Gâu trong vòng tay ông bà chăm sóc. Nó được ông bà nâng niu, chiều chuộng như đứa trẻ con. Tuy nó thế nhưng hình như nó cảm nhận được nỗi vất vả của ông bà, đặc biệt nó cảm nhận được tiếng gù của chim gáy thổ đồng, nên mỗi lần ông Mùi muốn dỗ nó, cho nó ăn, lại đem con chim gáy giọng thổ đồng ra cho nó gù “cù-cù-cù” để thằng Gâu vui. Mà lạ, mỗi lần nghe chim gáy thổ đồng gù là mắt thằng Gâu cứ ánh lên vẻ mơ màng. Hình như nó thấm được cái giọng thổ đồng thôn dã nồng ấm, bình yên của loài chim quê kiểng thân thương. Ông Mùi cầm bát cháo bón cho thằng Gâu từng thìa nhỏ. Nó vừa chọp chẹp miếng cháo vừa ngó lên lồng chim, thỉnh thoảng lại a à vui sướng. Ư, cháu yêu của ông! Ông Mùi thì thầm: “Ngoan nhé. Bao giờ tìm được tượng Đức Phật, tìm được hài cốt cụ nội thì ông sẽ đưa cháu lên núi Chúa của ông Sa Thổ, nhờ thần núi Chúa chữa trị cho cháu khỏe mạnh hơn, lành lặn hơn nhé. “Ư, ông hứa thật đấy!”. Ư, Gâu biết không? Thằng giặc Mỹ tệ lắm! Thằng giặc Mỹ ác lắm! Thằng giặc Mỹ đem bao nhiêu là chất độc hoá học rải xuống nước mình, làm hại bao nhiêu người dân mình, làm hại bao nhiêu bộ đội mình, làm cho bao nhiêu người sinh ra không giống con người như Gâu của ông đây. Thằng giặc Mỹ ác lắm!”. Ông Mùi nhìn đứa cháu nội không ra hình hài con người mà chảy nước mắt. Ông xúc thêm thìa cháo đưa vào cái miệng bé xíu của Gâu. “Chậc chậc! Nào, miếng nữa nào, miếng nữa nào, hai ông cháu mình cùng cố gắng nhé”. Ông Mùi chợt ngoảnh ra, nhìn ánh nắng chiều chiếu chéo mặt sân. “Ơ, chiều rồi mà mãi chưa thấy ông Sa Thổ đến nhà mình nhỉ?”. Ông Mùi thì thầm. “Ông Sa Thổ cũng là bộ đội đấy. Ông Sa Thổ cũng đánh giặc anh hùng lắm nhé. Ông Sa Thổ hứa sẽ cùng ông đi tìm cho bằng được hài cốt cụ nội, rồi sẽ đưa Gâu lên núi Chúa nhờ Thần núi Chúa giúp đỡ”. Chợt có tiếng xe máy rì rì vào ngõ.
“A, ông Sa Thổ đến kia rồi”. Thế là ông Mùi đẩy cũi, đưa thằng Gâu sang nhờ hàng xóm trông giúp, đợi bà nó về. Ông Mùi dẫn ông Sa Thổ vào nhà, pha ấm trà nóng, cùng bàn công việc. Thống nhất kế hoạch xong, ông Mùi đốt ba nén hương, cắm lên ban thờ, nhìn sâu vào ảnh thờ cha Thành, quỳ gối lạy, lẩm bẩm khấn nôm. Khấn xong, ông Mùi dẫn ông Sa Thổ ra cánh đồng Phiêng Cải. Mùa này, hoa cải vàng lịm cả triền sông Hồng. Lũy tre ngả ngả, rủ lá, soi bóng xuống dòng sông trong xanh, hiền hòa. Gió nhẹ thổi. Ông Mùi đưa chiếc xẻng cho ông Sa Thổ, bảo:
- Hôm nay trời đẹp, có bạn lính giúp sức, may ra tìm thấy cha tôi.
- Cầu mong là thế!
- Lạy Đức Phật! Lạy cha! - Ông Mùi nhìn mãi ra mênh mông cải vàng rải theo triền sông, gương mặt ông heo hóp, mấy vết sẹo đỏ sẹo tím cứ giật giật, vẻ cảm động, miệng lầm bẩm - Mong Đức Phật và cha phù hộ hai chúng con lòng thành, ngày đêm năm tháng chỉ mong tìm được cha, rồi đưa cha về với tổ tông, họ hàng.
- Này! - Ông Sa Thổ chợt hỏi - Bác Mùi đã đón thầy cúng về cúng chưa?
- Mấy lần rồi, chú ơi!
- Sao không nhờ mấy nhà ngoại cảm tìm cho?
- Tôi cũng nhờ rồi!
- Thế mà không tìm thấy à? - Ông Sa Thổ lẩm bẩm.
- Khổ lắm! Tôi đã nhờ thầy cúng kiêm thầy bói giỏi nhất vùng Mã Sơn này là thầy Khổng Xích Tồ trên núi Mã Sơn kia, cúng bói mấy bận, rồi đi tìm, đều không thấy. Tôi được bạn bè cho số điện thoại của nhà ngoại cảm Liêu Liêu, liền điện thoại, mời bà lên Phiêng Cải giúp một phen. Vào cuối đông rét mướt. Nhà ngoại cảm Liêu Liêu cũng thắp hương, khấn vái, rồi cầm một cái dây bạc có gắn ở đầu dây một cục kim loại gì đó to bằng quả nhót, trên đầu cục kim loại gắn một viên đá đen ánh lấp lánh. Nhà ngoại cảm Liêu Liêu tay trái cầm ba nén hương cháy đỏ dâng trước ngực, tay phải cầm dây bạc khua khua theo bước chân, đi ra ngõ, đi mãi ra triền sông, cái cục kim loại có gắn đá đen cứ quay vòng vòng ở chỗ nào thì đào bới chỗ ấy, có đến ba bốn chỗ, cũng chẳng thấy gì. Uất quá! Thương cha quá! Tôi đập đầu xuống đất, khóc cha, đến vỡ cả mặt.
- Bao lần còn chẳng thấy, liệu hôm nay... - Ông Sa Thổ lo lắng.
- Cầu may mà lị! - Ông Mùi lẩm bẩm - Biết đâu, cha thương thằng lính còm mình đầy thương tật này? Nào, đào đi!
Ông Mùi nói, rồi đi lại gần một bụi tre gai. Ước lượng khoảng cách chừng năm bước chân, ông Mùi nâng nhẹ cuốc, bổ liền mấy nhát xuống nền phù sa mềm. Ông Sa Thổ cũng lấy xẻng xắn từng xẻng đầy. “Ô, phù sa đỏ lịm mà mềm thế!”. Ông Mùi và ông Sa Thổ đào một hố vuông, hố rộng bằng cái chiếu, đến cuối chiều thì sâu chừng hơn hai mét. Ông Mùi nhảy lên miệng hố, gạt mồ hôi, lắc đầu. Ông Mùi biết, đào sâu đến thế này mà không thấy gì, tức là không có gì, buồn quá. Ông Mùi ngồi ngẩn nhìn ông Sa Thổ hì hụi đào nữa. Ông Mùi không nỡ nói ra cái chuyện thật mà như bịa. Đấy là chuyện, thầy Khổng Xích Tồ nhất quyết bảo rằng, chỉ khi nào ông Mùi tìm thấy tượng Đức Phật bị mất thì tự nhiên sẽ tìm thấy mộ cha. Thật thế không? Ông Mùi cúi nhìn xuống cái hố sâu, nước mắt giàn giụa. Buồn nhưng không bỏ cuộc. Hì hụi lấp đầy cái hố vừa đào, ông Mùi lại dẫn ông Sa Thổ vào đầm Vạc, một cái đầm khá rộng nằm ngoài đầu làng Phiêng Cải. Nghe nói, mộ cha rất có thể được dân làng di dời vào đây, nhưng không ai nhớ rõ ngôi mộ nào, vì sau trận lụt lớn năm bảy mốt, dân làng vội vàng đào và di dời một loạt ngôi mộ ngoài bãi sông đưa vào góc đầm Vạc, chạy lụt mà, nên chẳng ai kịp nghĩ đánh dấu ghi danh gì, vì thế bây giờ vẫn còn mấy ngôi mộ thành ra không tên, nhưng ngày lễ tết vẫn có người làng thắp hương khấn vái. Ông Mùi xắn quần quá gối, áo đẫm mồ hôi, vẻ mặt buồn bã, tay run rẩy đốt mấy thẻ hương cắm xuống một ngôi mộ lùm xùm cỏ xanh, cũng nghe dân làng nói, có khả năng cha nằm đây, cứ đào lên, nếu thấy cái hộp gỗ đựng dây chuyền có đồng bạc trắng in hình đôi chim và hình âm dương, và tìm thấy đồng bạc trắng trong miệng hài cốt, là đúng, thôi thì cầu may, ông Mùi cúi đầu khấn vái: “Con lạy Đức Phật! Con lạy cha! Nếu phải cha nằm dưới nấm mộ này, thì con xin được đưa cha về với tổ tông, dòng họ...”. Khấn xong, ông Mùi cẩn trọng bổ từng nhát cuốc quanh ngôi mộ. Ông Sa Thổ cũng thận trọng nhấn từng xẻng đất trên nấm mộ. Mở đất xuống sâu, nước dâng tràn hố, cuốc, xẻng khua lũm bũm. Trời dần tối. Ông Mùi đốt hai ống đuốc dầu và mấy cái nến to cắm trên miệng hố, ánh lửa bập bùng, nhấp nhóa. Ông Mùi đưa cuốc cho ông Sa Thổ, rồi lấy xẻng lựa từng xẻng đất bùn, nhẹ tay đưa lên miệng hố. Cộp! Lưỡi xẻng chạm vào cái gì như là tấm gỗ? Ông Mùi thấy gai gai sống lưng. Nhấn xẻng nữa. Cộp! Là tấm gỗ, có lẽ là nắp ván thiên? Đoán thế, ông Mùi bảo ông Sa Thổ dừng tay. Hai người đốt hương, cắm ngay miệng hố, quỳ xuống bùn đất, xì xụp khấn vái. Gió thổi nhẹ. Ánh đuốc chập chờn như ma trơi. Đầu làng, chó sủa gâu gâu. Dù đã từng chôn cất đồng đội, từng bốc cất hài cốt đồng đội nhưng ông Mùi vẫn cảm thấy thấy rờn rợn. Thở mạnh. Lựa lưỡi xẻng, ông Mùi bẩy bẩy tấm gỗ. Phựt! Lưỡi xẻng hình như cắm sâu dưới nắp ván thiên. Thở mạnh. Tim đập thình thịch. Ông Mùi định nhấn xẻng nhát nữa thì bỗng nhiên như có luồng điện giật sống lưng, lạnh toát người, tóa đom đóm mắt, trong đầu ù ù như có gió bão, thấy chao đảo, muốn ngã nhào. Ông Sa Thổ thấy rõ ông Mùi sắp ngã, liền túm tay ông Mùi. Ông Mùi giật tay ra, miệng ầm ừ gì đấy, co chân nhảy phốc lên miệng hố, cầm chai rượu tu một hơi dài, rồi nằm vật xuống cỏ. Ông Mùi lim dim mắt, một lúc lâu, cảm giác lơ mơ, tỉnh tỉnh, mơ mơ. “Ô ô, sao thế, ối ối, làm sao, ơ ơ, gì thế, ôi giời, gì thế, gì thế?”.
Ông Mùi cảm nhận như bị ai dìm xuống một cái hố đen ngòm, chợt xuất hiện một người đàn bà quần áo nâu sồng, xõa tóc dài, mặt đen, mắt xanh lét. Ông Mùi sợ hãi, trợn mắt, há mồm ú ớ, muốn kêu cứu mà không kêu được. Người đàn bà nhào lại, xỉa mấy ngón tay xương xẩu vào ngực ông Mùi, quát: “A, thằng này hỗn! Người cùng làng mà mày dám phá nhà tao, hử? Nhà tao đang yên đang lành mà mày dám phá nhà tao, hử? Cả làng này không ai dám phá nhà tao mà mày dám phá, hử?”. Ông Mùi run rẩy, cãi: “Tôi đi tìm bố tôi chứ?”. Người đàn bà nói lừ gừ: “Bố mày không ở đây! Lâu lắm rồi tao không thấy bố mày. Mày ra ngoài bãi sông mà tìm, nghe chưa?”. Ông Mùi khóc lóc: “Tôi tìm mãi rồi mà không thấy bố tôi đâu, khổ thân tôi quá, khổ thân bố tôi quá!”. Người đàn bà xõa tóc, xỉa mấy ngón tay xương xẩu vào mặt ông Mùi, quát: “Mặc đời mày khổ! Ai bảo để mất tượng Đức Phật? Không có Đức Phật thì mày không bao giờ tìm thấy cha mày đâu, nghe chưa!”. Ông Mùi run rẩy, hỏi: “Thế bà có biết tượng Đức Phật của cha tôi ở đâu không?”. Người đàn bà nói: “Làm sao ta biết nó ở đâu chứ?”. Ông Mùi nói: “Bà không nói thì tôi sẽ đào nữa!”. Người đàn bà quát: “A, Thằng hỗn! Tao sẽ cho mày một trận nhớ đời! Này thằng hỗn này! Này thằng hỗn này!”. Người đàn bà nhảy bổ vào ông Mùi, quào quào những ngón tay xương xẩu, ông Mùi hãi quá, rúm người, bật đứng dậy, co chân chạy mất hút vào đêm đầm Vạc.