Thời điểm đột phá đối với tôi, ít nhất về mặt thể chất, là cái ngày mà tôi ngất xỉu đến bất tỉnh nhân sự.
Tôi đã gặp phải các triệu chứng rối loạn điều hòa cảm xúc suốt nhiều năm. Tôi đã cố khắc phục từng vấn đề riêng lẻ khi nó trở nên nghiêm trọng, giống như chơi trò “đập chuột”. Tôi nghĩ phân ly là một chức năng trong tính cách của mình. Trí nhớ của tôi rất tệ! Tôi kết luận rằng nỗi lo lắng là do hoàn cảnh của tôi gây ra nên đã tự tìm cách lý giải hợp lý: Tôi đang sống một mình tại thành phố New York. Mẹ tôi thì bị ốm – vì vậy tôi đã đến gặp bác sĩ tâm thần để được kê đơn thuốc giúp vượt qua giai đoạn khó khăn. Chứng đau đầu là do di truyền. Sương mù não(*) là do làm việc quá sức. Tôi không biết tại sao mình lại bị táo bón, cho đến khi thấy mẹ và chị tôi cũng có triệu chứng tương tự thì không buồn nghĩ nhiều về nó nữa. Thay vào đó, tôi uống hết cả đống nấm men bia, nước ép mận và nhiều loại thuốc không kê đơn. Đó đều là những vấn đề riêng lẻ với các phương pháp điều trị riêng lẻ. Không có gì kết nối cả.
(*) Sương mù não (brain fog) là một dạng rối loạn chức năng nhận thức, có thể gây ra các triệu chứng khó chịu về tinh thần, chẳng hạn như thường xuyên mệt mỏi, kém tập trung hoặc thiếu minh mẫn. (BTV)
Khoảng thời gian đó, tôi chuyển từ New York đến Philadelphia để theo đuổi công trình nghiên cứu tâm động học sau tiến sĩ tại Trường Phân tâm học Philadelphia. Nhờ sống gần gia đình, tôi đã gặp người nhà thường xuyên hơn so với trước. Đồng thời, tôi đi khám tâm lý mỗi tuần một lần, đôi khi hai lần, để tăng cường việc trị liệu tâm lý và bắt đầu tìm ra những vết thương lòng thời thơ ấu mà tôi đã lãng quên từ lâu. Hoạt động trị liệu đã giúp tôi hiểu rõ rằng khuôn mẫu hành vi gia đình của tôi có vấn đề như thế nào – gia đình tôi “loại trừ” bất kỳ ai bên ngoài gia đình, cố hết sức thể hiện cho người ngoài thấy gia đình chúng tôi hòa hợp và đoàn kết, nhưng thực tế là chúng tôi lại sống trong một vòng lặp phản hồi đầy lo lắng và sợ hãi. Tôi nhìn ra rằng mẹ tôi không có khả năng thể hiện tình cảm và yêu thương thật sự, nguyên nhân là vì sự thiếu thốn – không chỉ về vật chất mà còn về tình cảm và tinh thần – do ông bà ngoại của tôi không bao giờ bày tỏ tình thương với mẹ. Tôi nhìn ra rằng các cơ chế phòng vệ của chính mình – ghét ràng buộc, cầu toàn, bị tê liệt – là phản ứng có điều kiện với sang chấn mà mẹ đã truyền lại cho tôi từ những sang chấn của chính bà.
Những nhận thức ấy thật trần trụi và khiến tôi đau khổ. Tôi không biết giấu chúng vào đâu. Thế là tôi bắt đầu tìm cách gây sự với Lolly – kiếm chuyện đánh nhau, xô cô ấy ra, rồi phát hoảng khi cô ấy bỏ đi. Đó là khuôn mẫu ứng xử mà tôi đã lặp đi lặp lại suốt nhiều năm với những người yêu cũ – tôi chọn những người không thể hiện cảm xúc và đẩy họ ra xa cho đến chỗ tan vỡ.
Sau đó tôi bắt đầu ngất xỉu.
Lần đầu tiên là tại bữa tiệc tân gia ở nhà cô bạn thuở nhỏ của tôi, Amanda. (Tức là xảy ra tại nhà một người gắn liền với tuổi thơ và có tác động lớn với tôi). Hôm đó là một ngày hè nắng ấm. Khu chung cư cô ấy sống có một hồ bơi, và cô ấy hào hứng muốn khoe với mọi người. Khi chúng tôi dạo quanh hồ bơi, tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu. Ánh nắng thiêu đốt sau gáy tôi. Tôi bắt đầu đổ mồ hôi. Rồi đột nhiên tôi cảm thấy đầu óc nhẹ bỗng, và trời đất như quay cuồng. Được rồi, Nicole, tôi nhớ mình đã nghĩ vậy. Mày chỉ cần thích ứng thôi mà.
Đến khi tôi mở mắt ra, Lolly và Amanda đang nhìn tôi với vẻ lo lắng.
“Cưng có ổn không?”, Lolly hỏi tôi trong khi Amanda, vốn là một kỹ thuật viên cấp cứu, đang đánh giá trạng thái nhận thức của tôi. Cô ấy thấy tôi đập đầu khá mạnh xuống nền bê tông nên lo rằng tôi bị chấn động. Nhưng tôi khăng khăng rằng mình vẫn ổn, dù cảm thấy chóng mặt và hơi buồn nôn.
Cú ngã đó không phải là một khoảnh khắc bừng tỉnh như lẽ ra nó phải như vậy. Tôi xem nó như một tai nạn quái đản. Tôi trở lại làm việc với tâm trạng bất ổn và tách biệt như mọi khi. Nhưng càng ngày, tôi càng bắt đầu nhận thấy những vấn đề khác xảy ra với nhận thức của mình. Tôi thường thấy khó tìm ra những từ ngữ thích hợp để nói. Trong một buổi trị liệu, tôi đã hoàn toàn lạc vào dòng suy nghĩ riêng của mình đến nỗi để không khí im lặng suốt vài phút và phải xin lỗi thân chủ vì sơ suất này.
Rồi tôi lại bị ngất. Trong kỳ nghỉ Giáng sinh năm đó, Lolly và tôi đã dành phần lớn thời gian cho gia đình. Chúng tôi ra ngoài để tìm mua vài con dao tách hàu. Tôi còn nhớ mình bước vào cửa hàng kim khí, cảm thấy chóng mặt và nghĩ ánh đèn chói chang trong cửa hàng sao lại nóng đến thế.
Một lần nữa, tôi ngước lên và thấy những gương mặt nhìn tôi đầy lo lắng.
Rõ ràng có điều gì đó không ổn với hệ thần kinh của tôi. Cơ thể tôi thực sự kêu gào để được tôi chú ý, và cuối cùng thì tôi đã chú ý tới nó.
CƠ THỂ SANG CHẤN
Thật không quá lời khi nói rằng mọi thân chủ đến phòng trị liệu của tôi để giải quyết các vấn đề sức khỏe tâm thần cũng đều phải đối mặt với các vấn đề sức khỏe thể chất tiềm ẩn. Những sang chấn chưa được giải quyết đã thật sự len lỏi vào kết cấu thể chất của chúng ta.
Như khung tham chiếu ACEs đã cho biết, sang chấn khiến chúng ta có nhiều khả năng phát triển hàng loạt tình trạng thể chất và tâm lý, từ trầm cảm và lo âu đến đau tim, ung thư, béo phì và đột quỵ. Các nghiên cứu đã chỉ rõ: Những người có sang chấn chưa được giải quyết sẽ ốm yếu hơn và chết trẻ hơn.
Sang chấn tác động đến cơ thể theo những cách thức rất đa dạng và phức tạp, nhưng rối loạn chức năng thể chất tựu trung đều quy về một mẫu số chung: căng thẳng. Căng thẳng không chỉ là một trạng thái tinh thần; nó là một tình trạng bên trong thách thức sự cân bằng nội môi, tức là trạng thái cân bằng về thể chất, cảm xúc và tinh thần. Chúng ta trải qua phản ứng với stress sinh lý khi não nhận thấy chúng ta không có đủ nguồn lực để sống sót qua một chướng ngại hay một mối đe dọa (đó là tình trạng chung khi nói đến sang chấn chưa được giải quyết). Chuyên gia về nghiện ngập và stress, Tiến sĩ Gabor Maté, tác giả của nhiều cuốn sách bao gồm cuốn When the Body Says No: The Cost of Hidden Stress (Khi cơ thể nói không: Cái giá phải trả của tình trạng căng thẳng tiềm ẩn), gọi đây là “sự kết nối giữa stress và bệnh tật”36.
Khi chúng ta gặp stress, cơ thể chuyển các nguồn lực của nó từ sự cân bằng nội môi đang duy trì trạng thái hạnh phúc của khỏe mạnh và cân bằng sang trạng thái tự vệ. Stress là điều không thể tránh khỏi (chỉ cần cố gắng để tránh bị stress thì cũng đủ để bạn thấy căng thẳng). Ví dụ, stress bình thường là một phần tự nhiên của cuộc sống: sinh ra, chết đi, kết hôn, chia tay, mất việc – tất cả đều là một phần trong đời người. Như một phản ứng thích ứng, chúng ta có thể phát triển các chiến lược ứng phó để đưa bản thân trở về trạng thái cơ bản về tâm lý và sinh lý: tìm kiếm các nguồn hỗ trợ, học cách tự xoa dịu và hỗ trợ hệ thần kinh thường bị mắc kẹt của chúng ta trở lại trạng thái cân bằng nội môi. Quá trình mất cân bằng rồi trở lại mức cân bằng cơ bản được gọi là allostasis (sự ổn định thông qua sự biến thiên)(*). Nó cho phép chúng ta phát triển năng lực phục hồi về mặt sinh học.
(*) Khái niệm về allostasis đề xuất rằng để điều hòa cơ thể một cách hiệu quả, cơ thể phải dự đoán các nhu cầu và có sự chuẩn bị để đáp ứng nhu cầu đó trước khi nhu cầu kịp phát sinh. Nói cách khác, allostasis là sự duy trì trạng thái cân bằng thông qua việc thực hiện những thay đổi trong các hệ thống của cơ thể – sự ổn định thông qua sự biến thiên (stability through variation). Nó trái ngược với sự cân bằng nội môi (homeostasis), một quá trình có mục tiêu là duy trì sự ổn định thông qua sự bất biến (stability through constancy). (BTV)
Có lẽ bạn đã quen thuộc với phản ứng của cơ thể với stress, thường được gọi là cơ chế chiến hay biến. Chiến đấu và chạy trốn là hai trong số các phản ứng tự động, bản năng của cơ thể đối với sự căng thẳng (phản ứng thứ ba là bất động – tôi sẽ sớm nhắc tới). Khi chúng ta gặp phải một mối đe dọa, có thể có thật hoặc chỉ là cảm nhận, trung tâm sợ hãi của não – hạch hạnh nhân – sẽ bật lên và gửi thông điệp đến toàn bộ cơ thể rằng chúng ta đang bị tấn công, đồng thời thúc đẩy các hệ thống khác trong cơ thể huy động những nguồn lực cần thiết để giúp chúng ta sống sót.
Stress thông thường giúp chúng ta phát triển và thích nghi, còn stress mạn tính – căng thẳng thường xuyên và dai dẳng – lại khiến chúng ta suy sụp và gây hại cho mọi hệ thống trong cơ thể. Khi bị căng thẳng kinh niên và không thể trở lại trạng thái cân bằng nội môi – bởi vì chúng ta chưa bao giờ học hỏi hay phát triển được các chiến lược ứng phó thích ứng, hoặc vì cảm giác căng thẳng đã vượt quá khả năng ứng phó của ta – cơ thể chúng ta kích hoạt một số hệ thống nhất định một cách quá mức, đồng thời ức chế những hệ thống khác. Trong trường hợp căng thẳng mạn tính, tuyến thượng thận sẽ liên tục giải phóng cortisol và các hormone của stress khác, chẳng hạn như adrenaline.
Stress cũng kích hoạt hệ miễn dịch của cơ thể, khiến nó trở nên quá cảnh giác và sẵn sàng phản ứng ngay khi chỉ mới nghi ngờ là có rắc rối. Hệ miễn dịch học hỏi từ hành vi và thói quen của chúng ta từ khi còn trong bụng mẹ. Một khi hệ thống miễn dịch bắt được tín hiệu rằng chúng ta đang sống trong tình trạng gần như bị đe dọa liên tục, nó sẽ không ngừng tiết ra các hóa chất gây viêm khắp cơ thể. Những hóa chất này hoạt động như một loại mồi lửa gây ra hàng loạt triệu chứng mất cân bằng và rối loạn chức năng, làm tăng nguy cơ phát triển các bệnh tự miễn, chứng đau mạn tính và các bệnh khác từ bệnh tim đến ung thư37.
Cytokine – các phân tử đóng vai trò điều phối sự giao tiếp giữa các tế bào – là một trong số những hóa chất gây viêm này. Cytokine kích thích hệ miễn dịch hoạt động khi đối mặt với thương tích hoặc những kẻ xâm nhập độc hại. Chúng là nguyên nhân gây ra các triệu chứng viêm nhiễm mà tất cả chúng ta đã từng trải qua khi bị ốm sốt, sưng, tấy đỏ, đau – nhưng khi chúng phản ứng quá mức hoặc “dồn dập tấn công” cơ thể thì chúng ta có thể tử vong.
Nếu hệ miễn dịch liên tục phân bổ sai các hóa chất gây viêm của nó, như cytokine, thì khả năng phản ứng của cơ thể đối với những căn bệnh thật sự sẽ giảm đi. Đồng thời, tình trạng viêm nhiễm xảy ra khắp cơ thể, thậm chí còn có thể ảnh hưởng đến não. Tác động của stress và sang chấn lên hệ miễn dịch và não bộ của chúng ta lớn đến mức các nhà khoa học đã cho ra đời một lĩnh vực mới nghiên cứu về mối liên hệ giữa tâm trí và cơ thể, gọi là tâm lý thần kinh miễn dịch học (psychoneuroimmunology). Tình trạng viêm ở não đã được nhận diện bằng nhiều dạng rối loạn chức năng tâm lý và bệnh tâm thần – từ trầm cảm và lo âu đến rối loạn tâm thần hoàn toàn.
Với những hậu quả nghiêm trọng này, điều cấp thiết là phải giải quyết phản ứng chiến hay biến đang diễn ra thái quá kia. Nếu bị bất động hoặc mắc kẹt trong phản ứng này, hệ miễn dịch của chúng ta sẽ tiếp tục kích hoạt phản ứng viêm toàn thân. Tiến sĩ Bessel van der Kolk viết trong cuốn The Body Keeps the Score: “Chừng nào sang chấn còn chưa được giải quyết, thì các hormone của stress được tiết ra để tự vệ sẽ vẫn tiếp tục lưu thông trong cơ thể”38, 39, 40, 41. Cơ thể cũng phải dành rất nhiều năng lượng để “ngăn chặn sự hỗn loạn bên trong” do sang chấn gây ra, hoặc phản ứng chiến hay biến đã được kích hoạt, điều này càng đẩy chúng ta vào trạng thái rối loạn sâu hơn. Đó là một cái vòng luẩn quẩn, một vòng lặp sinh lý liên hồi.
Stress ảnh hưởng đến mọi hệ thống của cơ thể, bao gồm cả đường ruột – không phải ngẫu nhiên mà vấn đề về dạ dày-ruột lại nằm trong số các vấn đề mà những người mắc chứng lo âu thường nhắc đến nhiều nhất. Khi chúng ta căng thẳng, sợ hãi hoặc lo âu, cơ thể chúng ta khó tiêu hóa thức ăn và có thể lưu giữ thức ăn quá lâu – dẫn đến táo bón, hoặc thải ra quá nhanh – dẫn đến hội chứng ruột kích thích hoặc tiêu chảy. Stress cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn thức ăn nạp vào cơ thể và cấu tạo của hệ vi sinh trong ruột chúng ta, vốn không ngừng giao tiếp với não (chúng ta sẽ thảo luận chi tiết trong Chương 5). Trong những trường hợp này, cơ thể của bạn từ chối các chất dinh dưỡng thiết yếu – vì nó không phân hủy thức ăn mà bạn ăn vào đủ nhanh hoặc thải ra ngoài trước khi bắt đầu quá trình xử lý. Nếu hệ tiêu hóa hoạt động không tốt, mọi bộ phận trên cơ thể chúng ta sẽ trở nên ốm yếu hơn.
Mối liên hệ giữa stress và bệnh tật đặc biệt gây tổn hại cho những nhóm người bị áp bức42. Môi trường áp bức tạo ra trạng thái sang chấn gần như vĩnh viễn ở các cá nhân, gây ra phản ứng stress mạn tính. Không có gì ngạc nhiên khi có các tài liệu nói về mối liên hệ giữa tình trạng áp bức với tỷ lệ bệnh tật thể chất và đau khổ tâm lý cao hơn. Nghiên cứu cho thấy rằng những người BIPOC (da đen, bản địa, da màu) có tỷ lệ trầm cảm, lo âu cao hơn và có nhiều khả năng mắc chứng tăng huyết áp, vôi hóa động mạch, đau thắt lưng, ung thư. Trong một nghiên cứu, một nhóm phụ nữ da đen đã được theo dõi trong 6 năm sau khi nhóm phụ nữ này thực hiện một khảo sát về mức độ phân biệt đối xử mà họ phải đối mặt trong cuộc sống hằng ngày43. Những người trải qua nhiều biến cố có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao hơn những người trải qua ít biến cố. Chúng ta đang ở buổi bình minh của công cuộc khám phá về những ảnh hưởng rộng lớn của sự áp bức có hệ thống. Rất may là ngày càng có nhiều tài liệu điều tra tác dụng phụ của tình trạng này. Mặc dù chủ đề này nằm ngoài phạm vi chuyên môn của tôi, nhưng có một số cuốn sách mà tôi nghĩ bạn nên đọc, vì vậy tôi đã đưa vào phần Tài liệu đọc thêm ở cuối sách. Cuối cùng, tất cả các nghiên cứu đều xác nhận sự thật rằng: Phân biệt chủng tộc, định kiến và niềm tin mù quáng sẽ xâm nhập vào các tế bào của cơ thể, thay đổi cơ thể theo những cách mang tính hủy hoại từ nền tảng, và nó truyền lại qua nhiều thế hệ. Tác hại của sự phân biệt chủng tộc sẽ tồn tại trong xương máu.
GIỚI THIỆU THUYẾT ĐA THẦN KINH PHẾ VỊ
Như chúng ta đã thấy, sang chấn không được giải quyết cùng với các chiến lược đối phó kém hiệu quả sẽ ảnh hưởng đến cơ thể về mặt sinh lý. Căng thẳng gây biến đổi thực tại của bạn. Không có nơi nào trong vũ trụ của bạn mà căng thẳng lại không chạm tới. Mùi cỏ mới cắt có thể đưa bạn trở về một sang chấn thời thơ ấu. Khuôn mặt của một người lạ có thể khiến bạn cảm thấy phòng thủ hoặc sợ hãi mà không rõ nguyên nhân. Nghe một nhạc hiệu phim truyền hình từ thời thơ ấu có thể khiến bạn đột nhiên cảm thấy buồn nôn. Nếu bạn là một người BIPOC ở Mỹ, chỉ cần xuống phố hoặc xem tin tức hằng ngày về tình trạng bạo lực với những người có cùng màu da với bạn là cũng đủ để kích hoạt phản ứng sang chấn. Một số người không bao giờ cảm thấy an toàn; bạn có thể luôn cảm thấy như thể trời sắp sập tới nơi.
Trong thời gian tôi hay bị ngất xỉu sau khi chuyển đến Philadelphia vài năm, tôi hiểu rằng mình đã rất căng thẳng, nhưng vẫn cảm thấy bối rối, không biết tại sao mình lại ngất. Tôi không thấy có sự căng thẳng nào có vẻ đủ đáng sợ để gây nên phản ứng mạnh mẽ đến vậy trong cơ thể mình. Tại sao cơ thể tôi lại ở trong trạng thái hoạt hóa cao độ dù không có bất kỳ mối đe dọa nào trước mắt?
Sau đó, khi bắt đầu nghiên cứu thuyết đa thần kinh phế vị (polyvagal theory) của bác sĩ tâm thần Stephen Porges, một lý thuyết cung cấp những hiểu biết mang tính cách mạng về sang chấn và phản ứng với stress của cơ thể, tôi đã phát hiện ra lý do tại sao tôi lại ngất xỉu. Thuyết đa thần kinh phế vị đã giúp tôi hiểu được rằng sang chấn sống trong cơ thể và tiếp tục định hình thế giới của chúng ta.
Thuật ngữ đa thần kinh phế vị nói đến thần kinh phế vị, đóng vai trò kết nối não và ruột. Thần kinh phế vị có nhiều nhánh sợi cảm giác chạy khắp cơ thể – từ thân não đến tim, phổi, bộ phận sinh dục, v.v. – kết nối mọi cơ quan chính với não. Vị trí và chức năng của các dây thần kinh này giúp chúng ta hiểu được lý do cơ thể lại phản ứng nhanh như vậy khi chúng ta căng thẳng: Tại sao tim ta đập loạn xạ khi gặp người yêu cũ; tại sao cảm giác hoảng sợ khiến chúng ta thấy khó thở; và tại sao tôi bắt đầu ngất xỉu (hoặc mất ý thức) một cách đột ngột.
Khi chúng ta ở trong trạng thái cân bằng nội môi, thần kinh phế vị sẽ hoạt động như một “dây nguội”, giữ cho chúng ta bình tĩnh và cởi mở, giúp chúng ta trở thành con người hòa đồng nhất. Nhưng khi dây thần kinh phế vị bị kích hoạt và nó xâm nhập vào hệ thống phòng thủ của cơ thể, thì các phản ứng chiến hay biến có thể tự biểu lộ gần như lập tức.
GẮN KẾT XÃ HỘI
Hầu hết các thân chủ của tôi đều sống trong chế độ chiến hay biến gần như liên tục. Phản ứng với stress là chức năng tự động của hệ thần kinh thực vật (còn gọi là hệ thần kinh tự chủ), một phần của hệ thần kinh điều hòa các chức năng cơ thể mà không cần sự chủ ý của chúng ta như nhịp tim, hô hấp và tiêu hóa.
Hệ thần kinh thực vật tập trung vào việc phân bổ hợp lý các nguồn lực của cơ thể chúng ta. Nó liên tục quét qua môi trường của chúng ta để tìm các dấu hiệu: Mình có nên cẩn thận ở đây không? Đây có phải là một tình huống nguy hiểm không? Người này là bạn hay thù? Mình có đủ thức ăn nước uống để đối phó với bất kỳ mối đe dọa nào không? Hệ thần kinh thực vật sử dụng một thứ gọi là sự nhận thức thần kinh – một kiểu “giác quan thứ sáu” hoạt động bên ngoài nhận thức có ý thức của chúng ta – để đánh giá môi trường và xếp tất cả con người, địa điểm và vật thể vào một trong hai loại: an toàn hoặc không an toàn.
Khi hệ thần kinh thực vật xem một tình huống là an toàn, thần kinh phế vị của chúng ta sẽ ra lệnh cho cơ thể thư giãn. Đó là khi hệ thần kinh phó giao cảm của chúng ta, được gọi là hệ thống “nghỉ ngơi và tiêu hóa”, hoạt động. Thần kinh phế vị gửi tín hiệu để tim hoạt động chậm lại. Quá trình tiêu hóa của chúng ta diễn ra một cách vui vẻ, phân phối các chất dinh dưỡng vào cơ thể đúng cách. Phổi chúng ta phồng lên và hấp thụ nhiều oxy hơn. Ở trạng thái bình tĩnh này, chúng ta bước vào chế độ gọi là gắn kết xã hội, nơi chúng ta sẵn sàng cảm thấy an toàn, chắc chắn và có thể dễ dàng kết nối với người khác.
Khi đang ở chế độ gắn kết xã hội, chúng ta thậm chí trông còn thu hút và thân thiện hơn. Nụ cười của chúng ta có vẻ chân thực hơn (thần kinh phế vị kết nối với các cơ trên khuôn mặt), giọng nói của chúng ta nghe có vẻ êm ái và thân thiện (thần kinh phế vị cũng kết nối với thanh quản và dây thanh đới). Khả năng nghe của chúng ta được cải thiện do thần kinh phế vị kết nối với các cơ ở tai giữa; chúng mở ra để chúng ta có thể nghe giọng nói của người khác tốt hơn. Ngay cả các tuyến nước bọt cũng được kích hoạt, bôi trơn các bánh xe của công cụ mạnh mẽ nhất để kết nối với thế giới xung quanh: miệng.
Khi ở trạng thái tiếp nhận phó giao cảm này, các nguồn lực của chúng ta sẽ được phân bổ cho các chức năng điều hành cao hơn trong não, chẳng hạn như lập kế hoạch cho tương lai, tự tạo động lực, giải quyết vấn đề và điều hòa cảm xúc. Giờ đây, chúng ta không bị nhu cầu sinh tồn làm cho tiêu hao hết nguồn lực, chúng ta có thể tự do trở thành con người tốt nhất của mình. Đây là một trạng thái nô đùa, vui vẻ, tràn đầy tình thương và tình yêu. Tôi gọi đây là “não bộ học hỏi” – nó linh hoạt, cởi mở, bình tĩnh, ôn hòa và hiếu kỳ, tất cả các trạng thái then chốt để đạt được các mốc phát triển thần kinh và hành vi trong thời thơ ấu. Chúng ta có thể mắc sai lầm và có thể học hỏi từ sai lầm. Khi bị ngã, chúng ta có nhiều khả năng đứng dậy hơn.
CHIẾN HAY BIẾN
Khi chúng ta cảm thấy bị đe dọa, cơ thể của chúng ta sẽ chuyển sang chế độ sẵn sàng hành động, cơ sở của phản ứng chiến hay biến, được kích hoạt bởi hệ thần kinh giao cảm.
Ở chế độ sẵn sàng hành động, thần kinh phế vị gửi tín hiệu SOS đến hệ thần kinh giao cảm, làm cho tim chúng ta bơm mạnh hơn và nhanh hơn, kích hoạt phản ứng với stress ở tuyến thượng thận làm tăng mức cortisol và tăng nhiệt độ cơ thể, khiến chúng ta đổ mồ hôi.
Ở trạng thái cao độ này, chúng ta thực sự trải nghiệm thế giới khác đi theo nghĩa đen. Chúng ta không ghi nhận được sự đau đớn. Chúng ta tập trung vào những âm thanh to hơn, gây lo lắng hơn. Khứu giác của chúng ta không phân biệt được các sắc thái mùi hương. Và khi ở trong chế độ sẵn sàng hành động, chúng ta trông rất khác. Mắt chúng ta vô hồn. Lông mày nhíu lại. Vai gồng lên, và chúng ta thủ thế. Giọng nói của chúng ta có âm điệu căng thẳng không tự nhiên. Các cơ của tai giữa đóng lại, và đột nhiên chúng ta chỉ ghi nhận các tần số cao và thấp (những gì được coi là âm thanh của kẻ săn mồi). Mọi thứ đều được lọc qua lăng kính của mối đe dọa tiềm tàng: Một khuôn mặt trung lập trở thành thù địch. Khuôn mặt sợ hãi trở thành giận dữ. Khuôn mặt thân thiện lại đáng ngờ. Cơ thể của chúng ta đã tự chuẩn bị sẵn sàng cho trận chiến, một điều cần thiết về mặt tiến hóa mà chúng ta thừa hưởng từ tổ tiên của mình. Đó là phản ứng thích ứng bẩm sinh mà chúng ta học được khi phải đối mặt với các mối đe dọa liên tục – từ những loài thú hoang, nạn đói và xung đột. Tất cả những điều này đều hữu ích và giúp bảo vệ khi chúng ta đang thật sự đối mặt với mức độ đe dọa này. Nhưng phản ứng cao độ như vậy cũng xảy ra trong các thử nghiệm thông thường của cuộc sống hằng ngày, chẳng hạn như khi bạn nhận được tin nhắn từ sếp hoặc nhìn thấy máy tính gặp sự cố mà deadline sắp đến.
Ngoài tất cả các vấn đề sức khỏe liên quan đến trạng thái căng thẳng mạn tính này, những người phải vật lộn với hệ phản ứng giao cảm hoạt động quá mức (được coi là thần kinh phế vị kém) cũng gặp phải các vấn đề rắc rối. Một số vấn đề về tình cảm và mối quan hệ phổ biến nhất bao gồm:
• Thiếu khả năng phục hồi cảm xúc
• Không có khả năng hình thành các kết nối có ý nghĩa
• Thiếu khả năng tập trung
• Khó thực hiện các nhiệm vụ nhận thức cao hơn về mặt chức năng, chẳng hạn như lập kế hoạch cho tương lai
• Không thể trì hoãn sự hài lòng
Điều quan trọng cần lưu ý là chúng ta bật chế độ chiến hay biến toàn diện trong tiềm thức. Phản ứng của cơ thể trước sự đe dọa chỉ mang tính bản năng và không có chủ ý; nó không phải là do chúng ta lựa chọn. Chúng ta không thể trách ai đó ra đòn vì họ tin rằng bản thân họ đang bị tấn công, cũng giống như không thể trách ai đó đổ mồ hôi quá nhiều khi họ tập thể dục.
BẤT ĐỘNG
Hai cách phản ứng với stress phổ biến nhất được biết đến – chiến và biến – chưa kể hết toàn bộ câu chuyện về việc cơ thể đang bị tấn công. Như Tiến sĩ Porges đã chỉ ra trong bài báo nổi tiếng của ông về thuyết đa thần kinh phế vị vào thập niên 1990, còn có một chế độ thứ ba: bất động, hay “đóng băng”.
Thần kinh phế vị của chúng ta có hai con đường. Chế độ kích hoạt xã hội và sẵn sàng hành động là con đường thứ nhất. Con đường này được myelin hóa, có nghĩa là dây thần kinh được bao bọc bởi một lớp chất béo để làm cho nó truyền và ngắt thông tin nhanh hơn. Con đường thứ hai không được myelin hóa, và do đó dây thần kinh ít phản ứng hơn, ngắt chậm hơn và nguyên thủy hơn. Trên thực tế, con đường thứ hai này của chúng ta không giống với tổ tiên vượn người, mà giống loài bò sát hơn.
Khi con đường thứ hai được kích hoạt, chúng ta trở nên bất động. Toàn bộ cơ thể bị ngắt mạch. Nhịp tim và sự trao đổi chất của chúng ta chậm lại. Ruột hoặc giải phóng hoàn toàn hoặc siết chặt và nén lại. Hơi thở có thể ngừng. Chúng ta có thể bất tỉnh. Điều này xảy ra khi cơ thể chúng ta cảm thấy không có hy vọng sống sót. Justin Sunseri, một nhà trị liệu hiểu rõ thuyết đa thần kinh phế vị đã mô tả rất hay về chế độ bất động: “Nếu bạn nhìn thấy một con gấu, chế độ sẵn sàng hành động của bạn có thể được kích hoạt vì cơ thể hướng dẫn bạn bỏ chạy hoặc lẩn trốn. Nhưng nếu con gấu đã tiến sát gần bạn, thì cơ thể của bạn có thể sẽ bỏ cuộc và giả chết”.
Đây là chế độ phân ly. Những người rơi vào chế độ này sẽ tách rời khỏi cơ thể họ về mặt tâm lý. Nhiều người, giống như tôi, có thể hiện diện ở đây, tương tác với người khác, dù về mặt tinh thần, họ đang ở rất xa trên “phi thuyền” của riêng họ. Một số tách rời hoàn toàn đến mức coi sự kiện này như một giấc mơ. Những người khác còn gặp chứng quên. Dù mức độ phân ly ra sao thì phản ứng với sang chấn được lập trình bởi quá trình tiến hóa này cũng giúp giải thích tại sao nhiều người trong chúng ta chẳng nhớ gì về những trải nghiệm trong quá khứ – nếu chúng ta không bao giờ thật sự hiện diện khi các sự kiện xảy ra, chúng ta sẽ không có ký ức gì về sự kiện đó để nhớ lại. Nó cũng giải thích rằng việc thoát khỏi trạng thái tách rời này và quay trở về thời điểm hiện tại là khó khăn đến mức nào. Dây thần kinh không bao phủ myelin khiến bạn hầu như không thể phục hồi nhanh chóng khi đã bước vào chế độ này.
THẾ GIỚI XÃ HỘI
Rất nhiều thân chủ, bạn bè và thành viên thuộc cộng đồng SelfHealers trực tuyến của tôi đã tìm đến tôi khi gặp vấn đề mất kết nối: Tôi dường như không thể kết nối với bất kỳ ai. Tôi muốn có bạn bè, nhưng dường như tôi không thể vun đắp được bất kỳ tình cảm nào sâu sắc. Không ai biết con người thật của tôi. Tôi không thể tìm thấy tình yêu.
Khi đào sâu vào các tài liệu về đa thần kinh phế vị, tôi nhận ra rằng việc không có khả năng hình thành mối quan hệ thân thiết thật sự với người khác thường không phải do một khiếm khuyết nào đó trong tính cách, mà là kết quả của thần kinh phế vị, một thước đo phản ứng của hệ thần kinh với môi trường. Khi thần kinh phế vị yếu, chúng ta sẽ nhạy cảm hơn với các mối đe dọa mà ta cảm nhận được trong môi trường, điều này kích hoạt quá mức các phản ứng của cơ thể với stress, dẫn đến sự suy giảm khả năng điều hòa cảm xúc và sự chú ý nói chung.
Những ai từng trải qua sự khó chịu của chứng lo âu xã hội có thể nhận ra sự mất kết nối này. Hãy tưởng tượng bạn bước vào một bữa tiệc đầy người xa lạ. Bạn có thể bị ám ảnh về việc mặc gì đến dự tiệc, lên kế hoạch cho mọi chi tiết, mọi chủ đề trò chuyện, hoặc cũng có thể bạn cảm thấy hoàn toàn bình thường về bữa tiệc – không có dấu hiệu cảnh báo nào cho thấy bạn sẽ không thoải mái tại bữa tiệc. Dù sao thì cũng không có vấn đề gì cho đến khi bạn thật sự bước vào nơi dự tiệc.
Đột nhiên, mọi con mắt đều đổ dồn về phía bạn. Mặt bạn nóng bừng và đỏ rần lên khi bạn nghe thấy tiếng cười, mà bạn chắc chắn là họ đang cười trang phục hoặc mái tóc của mình. Ai đó lướt qua bạn, và bạn cảm thấy ngột ngạt như đang ở trong không gian kín. Tất cả những người xa lạ thì dường như đang thoải mái. Ngay cả khi lý trí bạn biết rằng đây không phải là một nơi thù địch, rằng không có ai nhìn hay đánh giá gì bạn cả (và nếu họ có làm như vậy thật thì cũng có sao đâu), nhưng bạn gần như không thể lay chuyển được cảm giác đó một khi đã bị mắc kẹt. Đó là vì tiềm thức của bạn nhận thấy một mối đe dọa (sử dụng giác quan thứ sáu trong nhận thức thần kinh của hệ thần kinh) trong môi trường không đe dọa (bữa tiệc) và đã kích hoạt cơ thể, đưa bạn vào trạng thái chiến đấu (tranh cãi với bất kỳ ai), bỏ chạy (rời khỏi bữa tiệc), hoặc bất động (không nói lời nào). Thế giới xã hội khi ấy trở thành một không gian đe dọa.
Thật không may, loại rối loạn hệ thần kinh này hoạt động bằng cách tự xác nhận. Khi nó được kích hoạt, bất kỳ điều gì không xác nhận những nghi ngờ của bạn (một khuôn mặt thân thiện) sẽ bị nhận thức thần kinh bỏ qua để ủng hộ cho những thứ có thể xảy ra (những tiếng cười rải rác mà bạn cảm thấy đang hướng vào mình). Các ám hiệu xã hội vốn được coi là thân thiện khi bạn ở chế độ gắn kết xã hội – chẳng hạn mọi người tạm dừng cuộc trò chuyện để mời bạn nhập cuộc, giao tiếp bằng mắt, một nụ cười – sẽ bị diễn giải sai lệch hoặc bị bỏ qua.
Chúng ta là những sinh vật tương tác với nhau. Chúng ta cần phải kết nối để tồn tại. Tuy nhiên, hệ thần kinh bị rối loạn do sang chấn không được giải quyết khiến chúng ta không toại nguyện, không gắn kết với cảm xúc của mình, và bị mắc kẹt trong tình trạng không thể kết nối với người khác.
ĐỒNG ĐIỀU HÒA
Khi chúng ta bị mắc kẹt trong phản ứng với stress, nhận thức thần kinh của chúng ta có thể trở nên không chính xác. Nó hiểu sai môi trường, nhìn thấy mối đe dọa ở nơi bình thường và đưa chúng ta vào trạng thái chiến hay biến thái quá. Sau đó, chu kỳ kích hoạt bắt đầu lại. Việc hiểu lý do tại sao điều này xảy ra cũng không giải quyết được các vấn đề xã hội của chúng ta. Rắc rối nằm ở chỗ các trạng thái của hệ thần kinh là các vòng lặp phản hồi. Như Tiến sĩ Porges đã nói: “Chúng ta phản chiếu trạng thái tự chủ của những người xung quanh”44.
Khi chúng ta cảm thấy an toàn, điều đó được thể hiện qua ánh mắt, giọng nói và ngôn ngữ cơ thể. Chúng ta hiện diện đầy đủ với dáng vẻ nhẹ nhàng, thoải mái. Cảm giác an toàn này được truyền đến người khác trong một quá trình được gọi là đồng điều hòa. Khi những người khác được cam đoan lần nữa rằng bạn không phải là mối đe dọa, họ cũng sẽ cảm thấy an toàn và bước vào chế độ kích hoạt xã hội giúp họ cũng cảm thấy thoải mái giống như bạn. Năng lượng và trạng thái của chúng ta có thể truyền đến người khác. Chúng ta cảm thấy ổn định hơn và bình tĩnh hơn khi ở gần một số người nhất định vì hệ thần kinh của chúng ta đang hồi đáp trạng thái của họ. Trong trường hợp các mối quan hệ tình cảm, oxytocin – hormone liên kết – tuôn chảy, giúp chúng ta gắn kết về mặt tình cảm và thể chất. Cảm giác an toàn tạo ra một không gian chung thoải mái. Đó là sự trao đổi kết nối với nhau.
Khả năng đồng điều hòa được hình thành từ nhỏ. Như đã nói, chúng ta học hỏi từ những người chăm sóc mình theo những cách vừa tinh tế vừa sâu sắc. Một trong những hành vi quan trọng nhất mà chúng ta học được từ họ là khả năng áp dụng các chiến lược ứng phó bên trong để giúp chúng ta trở lại không gian an toàn và sáng tạo khi gặp phải căng thẳng ở các bối cảnh xã hội. Nếu bạn sống trong một ngôi nhà tràn ngập năng lượng bình tĩnh và chữa lành, thì hệ thống của bạn không chỉ tiếp nhận môi trường đó mà còn phản chiếu nó. Thần kinh phế vị sẽ đưa chúng ta trở lại trạng thái cân bằng phó giao cảm hoặc cân bằng nội môi khi cảm thấy có một không gian an toàn để trở về.
Nhưng nếu bạn sống trong một ngôi nhà hỗn loạn, nơi mà cách phản ứng thái quá, cơn lốc thịnh nộ, sự buông thả hoặc sợ hãi mới là quy chuẩn, thì nội lực của bạn bị ràng buộc trong việc kiểm soát căng thẳng (thật ra là sinh tồn) và không thể tự do trở lại chế độ gắn kết xã hội an toàn. Như chúng ta đã biết, trẻ em là những sinh vật phụ thuộc. Nếu người chăm sóc mang lại một môi trường hỗn loạn và căng thẳng, đứa trẻ sẽ tiếp nhận trạng thái đó và khái quát thành: Cha mẹ mình cảm thấy bị đe dọa. Mình bị đe dọa bởi vì họ không hòa hợp được với nhu cầu của mình. Thế giới là một nơi đầy đe dọa. “Bộ não sinh tồn” này (trái ngược với “bộ não học hỏi” của chế độ gắn kết xã hội) tập trung quá mức vào các mối đe dọa được nhận thức, suy nghĩ về mọi thứ dưới dạng trắng đen rõ rệt, thường xoay vòng, ám ảnh và hoảng sợ. Chúng ta rất sợ mắc sai lầm. Chúng ta quằn quại, sụp đổ hoặc trở nên khép kín khi bị thất bại.
Tại bữa tiệc đó chẳng hạn, chúng ta có lẽ không thể thoát khỏi phản ứng của thần kinh phế vị, bởi vì chúng ta đang trải qua trạng thái đó với những người mà chúng ta tình cờ chạm mặt, những người rồi sẽ phản chiếu trạng thái kích hoạt đó ngược trở lại chúng ta, khiến ta bị mắc kẹt và dẫn ta đi vào con đường nghiện cảm xúc.
NGHIỆN CẢM XÚC
Khi sang chấn không được giải quyết đúng cách, nó sẽ dẫn dắt các câu chuyện và định hình các phản ứng tự chủ của chúng ta. Tâm trí và cơ thể chúng ta trở nên phụ thuộc vào phản ứng thể chất mạnh mẽ sinh ra từ việc giải phóng chất dẫn truyền thần kinh liên quan đến trải nghiệm đã gây sang chấn đó, và các chất dẫn truyền thần kinh này cũng tích đầy lại trong các đường dẫn thần kinh của não bộ. Nói cách khác, não học cách hưởng thụ hoặc thèm khát những cảm giác liên quan đến phản ứng với sang chấn. Đây là vòng lặp của chứng nghiện cảm xúc.
Một ngày điển hình của người nghiện cảm xúc có thể thế này. Bạn thức dậy vào buổi sáng và nỗi khiếp sợ bao trùm bạn. Báo thức đang kêu, đã đến giờ phải dậy chuẩn bị đi làm. Ngay lập tức bạn có một suy nghĩ giống như mọi buổi sáng khác: Mình cần cà phê. Đường đi làm dài 45 phút đằng đẵng. Mình phải tắm cái đã. Ước gì hôm nay là thứ Sáu. Tâm trí bạn đang làm những gì nó luôn làm, cung cấp cho bạn câu chuyện bất tận về những điều bạn cần làm trước khi bạn thực hiện chúng (mặc dù bạn thèm muốn chết là không cần phải làm như vậy). Cơ thể bạn phản ứng với những suy nghĩ đầy căng thẳng: nhịp tim tăng, hơi thở gấp, hệ thần kinh tăng cường điều hòa, hormone của stress được giải phóng – tất cả diễn ra trước khi bạn kịp bước xuống giường. Trên đường đi làm, xe cộ thật đông đúc. Bạn mong chờ kẹt xe vì hầu như ngày nào cũng thế, nhưng tâm trí bạn vẫn chạy hết tốc lực với những lời rủa xả rằng lẽ ra bạn nên đi sớm hơn và bạn ghét đường đi làm biết bao. Bạn cảm thấy thất vọng và sự tức giận tích tụ lại, và bạn xả cơn giận này lên đồng nghiệp khi bước vào văn phòng. Bạn phàn nàn mọi chuyện với họ và cảm thấy rất vui khi được lắng nghe. Nhưng khi mở email, tim bạn lại bắt đầu loạn nhịp và dạ dày quặn thắt. Bạn lại dành thêm chút thời gian để xả ra, cảm thấy dễ chịu và chu kỳ kích hoạt cảm xúc lại tiếp tục.
Khi về đến nhà, bạn mệt lả người, đó là phản ứng bình thường sau một ngày sống trên một chiếc tàu lượn siêu tốc cảm xúc. Để thư giãn, bạn với lấy một ly rượu vang. Vì quá mệt, bạn không thể ở cạnh và kết nối với người bạn đời của mình. Bạn bật Netflix và bắt đầu xem say sưa. Chương trình điều tra tội phạm đầy căng thẳng cho bạn cảm xúc giống như bạn đã có trong suốt cả ngày. Bạn yêu thích sự bất ổn, yêu thích cách nó khiến bạn co rúm trên ghế. Bạn cảm thấy phần nào hài lòng (và thoải mái hơn nhờ rượu), cuối cùng bạn ngủ thiếp đi trên sofa, thức dậy lúc hai giờ sáng, rồi thả mình lên giường chỉ để lặp lại cùng một khuôn mẫu như vậy khi thức dậy.
Cơ thể của chúng ta học cách thực hiện các khuôn mẫu như thế này để cảm nhận bản ngã quen thuộc. Lý tưởng nhất là khi chúng ta trải qua một cảm xúc mạnh mẽ, chế độ sẵn sàng hành động hay bất động được kích hoạt và chúng ta nhanh chóng quay lại khu vực gắn kết xã hội căn bản của mình. Những trạng thái kích hoạt đó được cho là gây cảm giác khó chịu và nguy hiểm, nhưng đối với những người bị mắc kẹt trong vòng lặp của cơn nghiện cảm xúc, sự gấp gáp ấy lại mang đến cho họ cảm giác dễ chịu. Đó có thể là lần duy nhất chúng ta cảm nhận được chút gì. Cơ thể chúng ta phản ứng với những cảm giác đó bằng cách giải phóng các hormone như cortisol và các chất hóa học thần kinh như dopamine, làm thay đổi tận gốc tính chất hóa học trong tế bào của chúng ta. Giờ đây chúng ta cần phải tìm ra một cách khắc phục cảm xúc như nhau, lặp đi lặp lại. Ngay cả khi một cảm xúc khiến chúng ta căng thẳng hoặc buồn bã, thì cảm xúc đó cũng thường mang lại cảm giác quen thuộc và an toàn, vì nó cho ta kiểu giải tỏa mà chúng ta đã trải qua khi còn nhỏ.
Ví dụ, lúc tôi còn nhỏ, trong nhà tôi luôn bao trùm sự căng thẳng và nỗi sợ hãi. Những cảm xúc đó đã gắn kết chúng tôi lại với nhau và thay thế cho sự gần gũi cảm xúc vốn không hiện diện. Thay vì kết nối chân thật, chúng tôi lại kết nối qua những điều kịch tính và đau đớn, cùng nhau điên cuồng vượt qua mỗi đợt khủng hoảng mới tiếp theo (Mẹ ốm! Một người hàng xóm thô lỗ!). “Thời gian chết”, tức là khi chúng tôi không trải qua những cảm xúc này, thật buồn tẻ nếu đem so với những pha điếng người do sự phẫn nộ, sợ hãi và tức giận tạo ra.
Khi không ở trong chu kỳ nghiện cảm xúc, tôi không cảm thấy đang là “mình” nữa. Cơ thể tôi đã quá quen với adrenaline, cortisol và các phản ứng với hormone mạnh mẽ khác đến mức ở tuổi trưởng thành, tôi lại tiếp tục tìm kiếm chúng một cách vô thức để lặp lại lối mòn cảm xúc đã được thiết lập từ thời thơ ấu. Tôi sẽ thấy buồn chán nếu không có chúng. Đó là lý do tại sao tôi cứ kiếm cớ bới móc khi chuyện tình cảm đang trôi qua êm đềm, tự làm cho mình hoảng loạn về nhiệm vụ phải hoàn thành trước mắt, hoặc đẩy mình vào trạng thái lo lắng khi đang cố gắng nghỉ ngơi và thư giãn. Cơ thể tôi cảm thấy khó chịu và kéo tôi trở lại với trạng thái căng thẳng quen thuộc thuở bé.
Một số thân chủ của tôi kể rằng sự phẫn nộ mà họ trải qua khi xem tin tức khiến họ thực sự cảm thấy “bị căng thẳng” một cách dễ chịu. Họ muốn trải qua cơn lốc giận dữ và căm ghét đó. Đó là điều khiến họ thực sự cảm nhận được vì cơ thể của họ đã quen với việc hoạt động từ mức căng thẳng cơ bản cao như vậy. Các mối quan hệ là một địa hạt phổ biến khác để chúng ta bộc lộ cơn nghiện cảm xúc của mình. Nhiều thân chủ của tôi kết giao với những người hay thay đổi hoặc không đáng tin cậy. Những người này không chắc chắn và không rõ ràng về cảm xúc, khiến các thân chủ của tôi cảm thấy lo lắng. Hầu hết suy nghĩ của thân chủ tôi chỉ xoay quanh các mối quan tâm tình cảm và cách đối phương cảm nhận về họ. Bất kỳ hành động hoặc hành vi nào mà đối phương thực hiện đều bị thân chủ của tôi phân tích chi li. Trong lý trí, họ tìm kiếm một kiểu người yêu hoàn toàn khác: Họ muốn một người biết cam kết và thể hiện cảm xúc rõ ràng. Nhưng thực tế thì họ cứ tiếp tục quay lại với các mối quan hệ có những khuôn mẫu hành vi cũ vì thấy hứng thú. Do bị nghiện chu kỳ không thể đoán trước này và phản ứng sinh hóa mạnh mẽ mà nó sinh ra, họ không thể rút lui.
Theo thời gian (cũng giống như các chứng nghiện khác, như nghiện đường hay tình dục, nghiện ma túy hay rượu), cơ thể chúng ta cần trải nghiệm ngày càng nhiều hơn để có được một “cú hích” hóa học như trước. Tiềm thức dẫn chúng ta vào những tình huống mà chúng ta chỉ có thể tìm được cú hích đó khi tăng liều ngày càng mạnh hơn: các mối quan hệ không thể đoán trước, các kênh truyền thông tin tức khiến chúng ta cảm thấy sợ hãi và tức giận, mạng xã hội cho phép chúng ta ẩu đả với nhau trên mạng. Đây là lý do tại sao chúng ta bị lôi kéo vào việc trút bầu tâm sự với bạn bè và lúc nào cũng phàn nàn; những hành vi này giúp chúng ta duy trì trạng thái căng thẳng cao. Sự yên ả, không bị kích động thật buồn tẻ và xa lạ. Cơ thể và tâm trí chúng ta tìm kiếm sự quen thuộc, dù cho nó có đau đớn, và cuối cùng chúng ta bị bỏ lại với cảm giác xấu hổ và bối rối về hành vi của mình.
QUAY LẠI ĐIỂM XUẤT PHÁT
Một tác dụng phụ của chứng nghiện cảm xúc là nó làm trầm trọng thêm các rối loạn chức năng khác của một cơ thể sang chấn, như chứng viêm mạn tính và các vấn đề về đường ruột là những triệu chứng thể chất quan trọng mà tất cả thân chủ của tôi đều gặp phải.
Thần kinh phế vị kết nối với ruột, nên nếu thần kinh phế vị của chúng ta bị rối loạn hay hoạt động kém, thì quá trình tiêu hóa của chúng ta sẽ bị ảnh hưởng. Khi chúng ta bước vào chế độ chiến hay biến, dòng thác hormone căng thẳng sẽ kích hoạt cơ thể chúng ta bơm ra các hóa chất gây viêm, chẳng hạn như cytokine, gây viêm nhiều hơn. Hệ thần kinh của chúng ta – và cơn nghiện giữ nó ở trạng thái hoạt hóa cao – là trung tâm sinh ra nhiều triệu chứng tâm lý và thể chất.
Hiểu được tại sao hệ thần kinh bị rối loạn – và nhận ra rằng các phản ứng với stress diễn ra ngoài tầm kiểm soát có ý thức của chúng ta – có thể giúp bình thường hóa những hành vi này và giải thích tại sao rất nhiều người trong chúng ta cảm thấy cô đơn khi ở trong một căn phòng đông đúc, tại sao chúng ta lại nạp các chất gây nghiện vào cơ thể để làm tê liệt các phản ứng sinh lý tự nhiên, tại sao chúng ta tấn công, bỏ chạy hoặc tìm cách thoát ra. Như chúng ta đã thấy, đó đều là phản ứng tự động được điều kiện hóa bởi những trải nghiệm đồng điều hòa từ thời thơ ấu mà ta có tham gia hoặc không.
Nhưng chuyện chưa phải đến đó là hết.
Như chúng ta sẽ thấy trong chương sau, có nhiều cách để cải thiện hoạt động của thần kinh phế vị và kiểm soát các phản ứng của hệ thần kinh. Cách khai thác sức mạnh của thần kinh phế vị là khám phá có tác động lớn nhất và mạnh mẽ nhất trong hành trình chữa lành ban đầu của tôi, và tôi hy vọng các công cụ tiếp theo cũng giúp bạn làm được như vậy.
THỰC HIỆN HÀNH TRÌNH CHỮA LÀNH: ĐÁNH GIÁ SỰ RỐI LOẠN HỆ THẦN KINH CỦA BẠN
BƯỚC 1. Chứng kiến bản thân. Rối loạn hệ thần kinh là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả các triệu chứng xuất phát từ sự kích hoạt lặp đi lặp lại hoặc những giai đoạn căng thẳng kéo dài. Trong lý tưởng, khi bạn đối mặt với một tình huống căng thẳng, hệ thần kinh của bạn sẽ được kích hoạt rồi quay về trạng thái cân bằng cơ bản, cho phép cơ thể “nghỉ ngơi và tiêu hóa”. Tuy nhiên, nếu hệ thần kinh của bạn không thể tự điều chỉnh, bạn không thể phục hồi sau căng thẳng và có thể có những triệu chứng sau:
a. Các triệu chứng tâm lý cộng với cảm xúc có thể xảy ra:
• Các triệu chứng kích hoạt: Xấu hổ, cảm thấy tội lỗi, thay đổi tâm trạng, sợ hãi, hoảng sợ, hung hăng, lo âu, thịnh nộ, kinh hoàng, bối rối, tự sỉ vả, cảm thấy choáng ngợp.
• Các triệu chứng khép kín: Không thể kết nối với mọi người, cảm thấy mất kết nối, cảm thấy “mơ hồ” và tê liệt, không thể suy nghĩ rõ ràng, sợ phải lên tiếng hoặc bị nhìn thấy.
b. Các triệu chứng thể chất có thể xảy ra:
• Các triệu chứng tăng cảnh giác: Mất ngủ, gặp ác mộng, dễ giật mình, sợ âm thanh lớn, run rẩy, mất bình tĩnh, tim đập nhanh, đau nửa đầu, các vấn đề về tiêu hóa, rối loạn tự miễn.
• Các triệu chứng căng thẳng: Nghiến răng, đau nửa đầu, căng cơ hoặc đau nhức, kiệt sức, mệt mỏi thường xuyên.
c. Các triệu chứng xã hội có thể xảy ra:
• Các triệu chứng ràng buộc: Các mối quan hệ dây dưa, kiểu quan hệ vừa lảng tránh vừa đeo bám hoặc sợ mất mối quan hệ.
• Các triệu chứng cảm xúc: Không có ranh giới hoặc có những ranh giới “tuyệt đối” quá cứng nhắc, không linh hoạt, nỗi lo âu xã hội, cáu kỉnh, thu mình lại.
Trong một tuần, hãy dành chút thời gian để điều chỉnh cơ thể bạn mỗi ngày (có thể sử dụng bài tập “Thiền kết nối với cơ thể” ở trang 313 để làm điều này). Hãy ghi lại khi gặp phải bất kỳ triệu chứng kích hoạt hệ thần kinh nào ở trên.
BƯỚC 2. Khôi phục sự cân bằng cho hệ thần kinh. Nhận thức được trạng thái kích hoạt hệ thần kinh sẽ là một phần quan trọng trong hành trình chữa lành của bạn. Mỗi ngày, hãy kết hợp các hoạt động dưới đây để xoa dịu hệ thần kinh hoạt động quá mức của bạn. Theo thời gian, các hoạt động này sẽ giúp bạn có khả năng tương tác với bản thân, với người khác và với thế giới theo những cách mới mẻ.
Hãy chọn một trong các hoạt động dưới đây để tập trung luyện tập mỗi ngày, chỉ luyện tập ở cường độ hay mức độ nỗ lực mà bạn cảm thấy thoải mái. Những ai đã quen ghi nhật ký về hành trình chữa lành này có thể muốn ghi lại cảm giác và phản ứng của cơ thể mỗi lần luyện tập.
• Tìm một cơ sở cho khoảnh khắc hiện tại. Hãy tìm một mùi, vị hoặc hình ảnh nào đó trong môi trường của bạn. Luyện tập tích cực chú tâm vào những trải nghiệm giác quan đó.
• Thực hiện thiền quán tưởng. Hãy nhắm mắt lại và hít thật sâu. Hình dung một tia sáng trắng xuất phát từ trái tim của bạn. Hãy đặt tay lên trái tim và nhắc lại những lời sau: “Tôi an toàn và tôi bình an”. Thực hiện 3 lần trong ngày, khi mới thức dậy hoặc ngay trước khi ngủ là những thời điểm tuyệt vời để thực hành.
• Ý thức về việc tiếp nhận thông tin của bạn. Khi bạn tiếp nhận thông tin, hệ thần kinh của bạn cũng hấp thụ những thông tin đó. Hãy lưu tâm đến cảm giác của cơ thể khi bạn hấp thụ nhiều loại thông tin khác nhau. Bạn cảm thấy được bổ trợ và phục hồi hay cạn kiệt và sợ hãi? Có thể sẽ hữu ích nếu bạn ngắt kết nối với các phương tiện truyền thông kích hoạt cảm giác lo âu trong bạn.
• Trở về gần gũi với thiên nhiên. Hãy ra ngoài và trải nghiệm một khía cạnh nho nhỏ nào đó của môi trường tự nhiên. Hãy để ý màu sắc của hoa. Ngồi dưới tán cây. Đặt chân trần lên mặt cỏ hoặc nhúng xuống nước. Hãy để gió mơn man làn da bạn. Thiên nhiên là chất cân bằng tự nhiên cho hệ thần kinh và giúp chúng ta “tái khởi động” bản thân.
Khi bạn bắt đầu sử dụng những công cụ mới này để khôi phục sự cân bằng cho hệ thần kinh của mình, hãy nhớ rằng những thực hành nho nhỏ và nhất quán này chính là chìa khóa. Nhiều người đã sống cả đời trong một cơ thể bị rối loạn, vì vậy việc chữa lành sẽ mất nhiều thời gian.
NHẬT KÝ TÔI TƯƠNG LAI: PHỤC HỒI CÂN BẰNG
Dưới đây là những gợi ý cho Nhật ký Tôi Tương lai mà tôi sử dụng mỗi ngày để tạo ra một trải nghiệm mới về trạng thái cân bằng hệ thần kinh trong cuộc sống hằng ngày. Bạn có thể thử sử dụng ví dụ sau (hoặc tự tạo một ví dụ tương tự).
• Hôm nay tôi sẽ thực hành phục hồi cân bằng cho hệ thần kinh của mình.
• Tôi biết ơn vì đã có cơ hội tạo ra thay đổi trong cuộc đời mình.
• Hôm nay tôi sẽ tạo ra một khoảnh khắc rất bình yên cho cơ thể mình.
• Thay đổi trong khía cạnh này sẽ giúp tôi cảm thấy bình yên hơn.
• Hôm nay tôi sẽ để ý thời điểm mà tôi tìm thấy sự an toàn trong giây phút hiện tại/thực hành thiền quán tưởng/ý thức về việc tiếp nhận thông tin của tôi/dành một phút quan sát thiên nhiên.