D
ù đã bao nhiêu lần có mặt ở phòng công cộng dưới tầng một của quán Bull & Blossom, Kate chưa từng một lần ghé vào những căn phòng ở tầng trên.
Theo chỉ dẫn của Fosbury, nàng bước lên một chiếc cầu thang hẹp và đặt chân vào một hành lang dài, không có cửa sổ. Nàng cảm thấy cơ thể đông cứng lại, một lần nữa bị chấn động bởi hình ảnh quen thuộc trong ký ức nàng.
Nàng đang ở trong một đường hầm tối tăm, dài vô tận và tương lai của nàng nằm ở phía cuối đường hầm. Tiếng đàn dương cầm vang lên từ tầng dưới, làm đau nhói lòng bàn chân nàng. Nàng nhắm mắt và sắc xanh lướt nhanh dưới mi mắt nàng.
“Kate, là em phải không?” Giọng Evan vang ra từ căn phòng đầu tiên bên trái.
“Vâng”. Nàng lắc người và vuốt nhẹ bàn tay lên chiếc váy bằng vải muslin mới thêu trước khi bước vào phòng.
“Vào đây, vào đây”. Evan vẫy nàng. “Anh tin rằng sáng nay em đã cảm thấy khá hơn rồi”.
Nàng đặt chân vào một căn phòng nhỏ nhưng đồ đạc được bày biện rất thuận tiện và thoải mái. Nàng ngay lập tức biết rằng đây là phòng khách riêng của Fosbury. Họ chắc hẳn đã dọn dẹp nhiều thứ để dành cho Evan một căn phòng đầy đủ tiện nghi, xứng đáng với một vị hầu tước.
“Cô Kate Taylor, tôi rất hân hạnh được giới thiệu cô với hai cố vấn pháp luật của gia đình, ông Bartwhistle và ông Smythe”.
“Xin chào”. Kate hơi nhún gối, cúi chào hai người đàn ông đều mặc áo choàng nâu trông giống nhau tới nỗi họ như thể một cặp song sinh.
“Và đây” – Evan hướng sự chú ý của nàng sang một phụ nữ luống tuổi mặc chiếc váy màu chàm cũ và đã hết mốt từ nhiều năm trước. “Là bà Fellows”.
Kate mỉm cười và gật đầu, nhưng phải thất vọng khi bà Fellow không hề chào đáp lại. Thay vào đó, bà vẫn ngồi im trên chiếc ghế tay dựa, đối diện cửa sổ và nhìn thẳng lên trên. “Bệnh đục nhân mắt”, Evan thì thầm vào tai nàng.
“Người phụ nữ già tội nghiệp gần như mù lòa”.
“Ôi”. Hiểu rõ sự xa cách trong phong thái của người phụ nữ lớn tuổi, Kate tiến lại gần và nắm lấy tay bà. “Bà Fellows, thật vinh dự khi được làm quen với bà”.
Evan đóng cửa phòng khách lại. “Bà Fellows vừa kể cho chúng tôi nghe về công việc của bà khi còn là quản gia tại Ambervale, hai mươi năm trước”.
“Ambervale?” Trái tim Kate đập thình thịch. Evan từng nói với nàng ở Wilmington rằng họ có ý định tìm kiếm những người từng phục vụ ở Ambervale nhưng anh chưa bao giờ nhắc lại chuyện đó.
Anh kéo một chiếc ghế cho Kate và nàng đón lấy nó một cách đầy biết ơn.
Anh cũng chọn chỗ ngồi cho mình. “Hãy kể cho tôi nghe, bà Fellows. Có phải bà quản lý nhóm đông những người giúp việc vào thời của người họ hàng với tôi?”
“Không, thưa ngài. Chỉ có tôi với chồng tôi thôi. Ông Fellows nhà tôi đã qua đời, khoảng tám năm trước. Hồi đó, chúng tôi có một đầu bếp, và một cô gái tới rửa bát hàng ngày. Chúng tôi thuê bên ngoài giặt đồ. Phần lớn ngôi nhà đóng cửa im ỉm, ngài biết đấy. Chẳng bao giờ có bất cứ vị khách nào ghé thăm. Ông chủ và cô Elinor thích sự riêng tư của họ”.
“Đúng vậy, tôi có thể hình dung”. Evan mỉm cười với Kate. “Và rồi cô Haverford có thai, đúng vậy không?”
Sự thẳng thắn trong câu hỏi rõ ràng khiến bà Fellows đau đớn. Nhưng bà vẫn trả lời. “Vâng, thưa ngài”.
“Và cô ấy đã sinh hạ một đứa trẻ. Đó là con trai hay con gái, bà còn nhớ không?”
“Một bé gái”. Bà Fellows vẫn ngồi quay mặt vào cửa sổ, và mỉm cười trước những vẩn bụi bay cuộn lên trong ánh nắng mặt trời. “Họ đặt tên cô bé là Katherine”.
Từ góc kia căn phòng, Bartwhistle hắng giọng. Ánh mắt thân thiện của ông hướng về phía Kate – hay cụ thể hơn – về vết bớt trên thái dương nàng. “Bà Fellows”, ông hỏi. “bà còn nhớ liệu đứa trẻ đó có… đặc điểm nhận dạng gì đặc biệt không?”
“Ồ, vâng. Cô bé bất hạnh có một vết bớt. Ngay trên mặt”.
Cô bé bất hạnh? Lần đầu tiên trong đời, Kate cảm thấy biết ơn vết bớt trên thái dương. Nếu nàng có thể vén môi lên như cao su dẻo, nàng chắc hẳn đã hôn lên vết bớt ấy.
Nàng hơi rướn người ra phía trước, cố căng tai nghe đến mức nàng có cảm giác như màng nhĩ đang bị bẻ cong dưới áp lực lớn.
“Nếu anh hỏi tôi”, bà Fellows đáp, “thì nguyên do là vì rượu. Tôi không chỉ nói với cô Elinor một lần, tôi đã nói với cô ấy cả trăm lần – một phụ nữ không nên uống chút rượu vang đỏ nào trong thời kỳ mang thai. Như thế rất khó coi. Nhưng thi thoảng cô ấy vẫn nhấp vài ngụm, và y như rằng, khi đứa bé chào đời, có một vết đốm lớn trên thái dương cô bé”.
“Bà có thể mô tả vết bớt đó chi tiết hơn không?”, Evan hỏi. “Mặc dù tôi biết cũng đã nhiều năm rồi”.
Bà Fellows xoay người trong chiếc ghế. “Nhưng tôi vẫn nhớ vết bớt đó, nhớ như in. Nó ở ngay đây”. Bà nhấc một bàn tay da lốm đốm đồi mồi lên thái dương của mình. “Gần như có hình một trái tim. Tôi sẽ không bao giờ quên, bởi vì họ hay cười vết bớt ấy, anh biết đấy”.
“Họ cười vết bớt ư?”, Kate hỏi, quên mất rằng nàng không phải người đưa ra những câu hỏi.
“Cười với nhau, vâng. Hai người họ như thể, luôn cười với nhau, về tất cả mọi thứ. Tôi nghe thấy cô ấy nói với ông chủ. “Chúng ta đều biết con bé là của anh, phải không nào?”
Đó là vì ông chủ cũng có một vết bớt. Nhưng Huân tước Drewe quá cố khăng khăng rằng vết bớt đó là do em bé thừa hưởng từ cô Elinor. Bởi vì nhìn mặt là thấy tim – cô ấy chẳng bao giờ ngại bày tỏ cảm xúc của mình, nên đứa trẻ cũng sẽ như vậy”.
Ở góc kia của căn phòng, Bartwhistle và Smythe hăng say viết, chép lại từng từ được nói ra.
Evan nắm lấy bàn tay Kate và siết chặt nó. “Anh biết mà. Anh biết em là của chúng ta”.
“Nghe như thể Simon và Elinor yêu nhau tha thiết”, Kate nói, cảm thấy nghẹn lời vì cảm xúc trào dâng.
“Ồ, vâng”. Bà cựu quản gia mỉm cười. “Chưa bao giờ thấy cặp đôi nào toàn tâm toàn ý đến thế vì nhau”. Nụ cười của bà mờ đi. “Và sau khi ông chủ qua đời, quá đột ngột, quá sớm… ôi, cô ấy đã rất khó khăn khi phải đối diện với chuyện đó”.
“Chuyện gì đã xảy ra?”, Evan hỏi.
“Chúng tôi không bao giờ biết được”, bà Fellows đáp. “Bác sĩ nói có thể bà đỡ đã mang theo một căn bệnh truyền nhiễm vào nhà. Bản thân tôi thì luôn nghi ngờ bức tranh. Không thể khỏe mạnh được khi mà cứ đứng im lặng cả ngày với những thứ tưởng tượng hão huyền và kinh khủng đó chứ”. Bà lắc đầu. “Tuy nhiên, nó đã xảy ra, ông chủ ra đi vĩnh viễn. Tất cả chúng tôi đều trở nên bơ vơ, và cô Elinor chỉ còn lại mình với mình. Cô đơn trong thế giới này, với một đứa trẻ mới sinh? Và không có tiền. Không một chút nào. Ông chủ chưa bao giờ giữ nhiều tiền trong nhà, và chúng tôi không còn cách nào khác là lần lượt bán hết đồ đạc đi”.
“Bà đã làm gì?”, Kate hỏi.
“Chúng tôi đóng cửa ngôi nhà. Cô Elinor mang theo đứa trẻ và ra đi. Cô ấy nói rằng quay trở lại nhà ở Derbyshire”.
Evan rướn người về phía Kate và thì thầm. “Anh cho rằng bà ấy chưa bao giờ đi xa đến thế, hoặc chắc chắn ai đó đã nghe được điều gì. Giá mà chúng ta có thể biết chuyện gì đã xảy ra trong khoảng thời gian sau khi đóng cửa Ambervale và lúc em nhập trường Margate”.
Một cảm giác hoang mang, tuyệt vọng đè nặng lên Kate. Nàng đã thật lòng phát ốm với những lời nói dối và những lừa gạt. Nàng muốn làm – và nói – những điều đúng đắn. Nhưng nàng lại không biết điều đúng đắn ở đây là gì.
Làm sao nàng giải thích cho Evan về “Ellie Rose” và nhà chứa ở Southwark – trước mặt hai cố vấn pháp luật và người quản gia luôn có cái nhìn rõ ràng đến thế về mẹ nàng? Nó thậm chí có ý nghĩa gì không? Có thể câu chuyện của Thorne không liên quan gì. Cô bé mà anh biết có thể là một ai khác.
Điều khiến nàng phát điên nhất trong tất cả chuyện này là biết rằng trí não của chính nàng đang nắm giữ sự thật làm con tin. Những ký ức vẫn còn đó. Nàng biết chúng không hề mất đi. Nhưng nàng chưa bao giờ đến được phía cuối hành lang.
“Em ước gì em có thể kể cho anh nghe”, Kate nói. “Em ước, hơn bất cứ điều gì, em có đôi chút ký ức rõ ràng về thời gian đó”.
“Ông chủ tốt bụng chắc hẳn đã đưa cô ấy lên thiên đàng”, bà Fellows nói tiếp. “Tôi không thể hình dung cô Elinor sẽ đánh đổi con mình lấy bất cứ thứ gì khác. Tôi có sáu đứa trẻ ở nhà, và tôi sẵn sàng chiến đấu với ác quỷ vì từng đứa một”.
“Dĩ nhiên bà sẽ làm vậy, bà Fellows”, Evan nói.
Quá xúc động, Kate vươn người tới và siết chặt cổ tay người quản gia cao tuổi. “Cảm ơn bà”, nàng nói. “Vì đã quan tâm bà ấy nhiều như vậy. Và cả tôi nữa”.
Bà Fellows dò dẫm bàn tay Kate. “Vậy đúng là cô phải không? Cô là Katherine? Cô là con gái của ông chủ?”
Kate nhìn Evan, và nhìn các cố vấn pháp luật. “Tôi… Tôi nghĩ vậy?”
Hai ông Bartwhistle và Smythe hội ý với nhau. Cuối cùng, ông Bartwhistle nói thay cho cả hai người.
“Với những chứng cứ như giấy tờ đăng ký ở giáo xứ”, ông nói. “sự giống nhau đặc biệt về ngoại hình, và tuyên bố của bà Fellows về vết bớt – chúng tôi cảm thấy chắc chắn khi kết luận rằng câu trả lời là đúng vậy”.
“Đúng vậy?”, Kate hỏi. “Đúng”, ông Smythe đáp.
Kate ngồi sâu vào lòng ghế, cảm giác choáng ngợp. Nhà Gramercy đã ùa vào cuộc đời nàng chưa đầy hai tuần trước. Evan, Lark, Harry, dì Marmoset – mỗi người trong số họ đều chấp nhận nàng vào gia đình mình, theo cách của riêng từng người. Nhưng có gì đó trong câu trả lời “Đúng” tưởng chừng khô khốc, đầy toan tính của các cố vấn pháp luật khiến chiếc cốc cảm xúc đầy tràn chảy trào ra ngoài. Nàng vùi khuôn mặt mình trong hai bàn tay, cố gắng để trấn tĩnh trở lại.
Nàng là một đứa trẻ bị bỏ rơi và giờ đã được tìm thấy. Nàng là một người nhà Gramercy. Nàng đã được yêu thương.
Nàng không thể đợi để ghé thăm cô Paringham.
Ông Bartwhistle tiếp tục. “Chúng tôi sẽ thảo một tuyên bố với chữ ký của bà, bà Fellows. Nếu bà có lòng tốt để cung cấp thêm cho chúng tôi vài chi tiết nữa. Bà có mặt lúc em bé chào đời không?”
“Ồ, có chứ”, bà quản gia đáp. “Tôi có mặt lúc cô Elinor sinh bé gái. Và cả đám cưới nữa”.
Đám cưới?
Kate ngẩng phắt lên. Nàng tìm kiếm khuôn mặt Evan, nhưng biểu hiện của anh thật không thể đoán được. “Có phải bà ấy vừa nói ‘đám cưới’?”
Sau khi bà Fellows và các cố vấn pháp luật ra khỏi phòng, Kate ngồi lại với Evan trong phòng khách nhỏ. Cuốn sổ đăng ký ở giáo xứ đầy bụi mở ra nằm trên bàn, trước mặt nàng, đúng trang chỉ còn hai dòng nữa là đến ghi chú về ngày sinh của nàng.
“Simon Langley Gramercy”, nàng đọc to bằng giọng bình tĩnh. “Hầu tước thứ năm của Drewe, cưới Elinor Marie Haveford, ngày ba mươi tháng Một năm 1791”.
Bất kể nàng đọc những dòng ấy bao nhiêu lần, nàng vẫn thấy chúng thật khó tin.
Evan xoa xoa cằm. “Đám cưới vào ngay phút chót, không phải vậy sao? Cho dù bất cứ tai tiếng nào mà họ đã bắt đầu, có vẻ như ông Simon muốn hợp thức hóa mối quan hệ của hai người ngay khi có cơ hội”.
Kate nhìn lên người họ hàng của nàng. “Anh đã biết hết những việc này từ trước phải không?”
Anh nhìn nàng bằng ánh mắt kiên định. “Em có thể tha thứ cho anh không? Chúng tôi luôn muốn nói với em, tất nhiên rồi, một khi chúng tôi…”.
“Chúng tôi? Vậy cả Lark và Harry và dì Marmoset… tất cả họ đều biết sao?”
“Chúng tôi cùng nhìn thấy cuốn sổ, vào cái ngày đến nhà thờ Đức Mẹ Mary của các thánh tử vì đạo”. Anh lại nắm tay nàng. “Kate, xin em hãy gắng hiểu nhé. Chúng tôi cần chắc chắn về danh phận của em trước, để tránh không làm em thất vọng, hoặc…”.
“Hoặc khiến em bị mê hoặc mà bịa ra sự thật?”
Anh gật đầu. “Bọn anh không biết chút gì về em. Bọn anh không biết em có thể là người như thế nào”.
“Em hiểu mà”, Kate nói. “Thận trọng là cần thiết, và không chỉ về phía anh đâu”.
“Đó là lý do tại sao em giả vờ đính hôn với Hạ sĩ Thorne?”
Má nàng ấm lên với một chút ửng hồng tội lỗi. Làm thế nào anh lại đoán được nhỉ? “Đó không phải giả vờ đâu. Không chính xác là vậy”.
“Nhưng nó cũng có lợi đấy. Bịa chuyện ngay tại chỗ, phòng khách nhà trọ Queen’s Ruby. Anh ta muốn bảo vệ em”.
Nàng gật đầu, không thể phủ nhận điều đó.
“Anh cũng đã nghi ngờ lâu rồi. Đừng cảm thấy tồi tệ, Kate nhé. Khi anh nghĩ tới việc bọn anh sẽ làm ngạc nhiên đến thế nào vào tối hôm đó… Đó là tình huống lạ lùng nhất, khó đoán định nhất. Đối với tất cả chúng ta. Cả hai chúng ta đều giữ lại cho mình một số thông tin nhất định. Nhưng chỉ là chúng ta muốn bảo vệ chính mình và những người yêu thương theo cách tốt nhất mà chúng ta có thể”.
Những lời anh nói khiến nàng nghĩ lại trận cãi cọ với Thorne. Nàng đã giận anh tới nỗi đã chối bỏ những điều anh biết – hay nghĩ rằng anh biết – về quá khứ của nàng. Không phải Evan cũng vướng vào cùng một lỗi lầm như vậy?
Nhưng nàng không bật ra khỏi ghế và hét vào mặt Evan. Nàng không chồng chất những lời xúc phạm lên nhân cách của Evan. Nàng cũng không đùng đùng rời bỏ căn phòng với sự phẫn nộ bủa vây và thề không bao giờ gặp lại Evan nữa.
Tại sao lại có sự khác biệt này? Nàng tự hỏi lòng mình. Có phải hành xử của hai người đàn ông về căn bản là khác xa nhau? Có thể Evan, với khả năng nói chuyện trơn tru, chỉ là giải thích lý do của mình thuyết phục hơn Thorne.
Hoặc có thể đơn giản là thế này: Evan chỉ tiết lộ tin vui, trong khi câu chuyện của Thorne mang tới một “sự thật” đau đớn mà nàng mong muốn được chối bỏ hơn. Nếu đúng là vậy, nàng đã xử sự với anh theo cách thiếu công bằng nhất.
Nhưng giờ thì đã quá trễ để mà hối tiếc rồi.
Với một ngón tay dài và tao nhã, Evan chạm vào cuốn sổ đăng ký ở giáo xứ. “Em thực sự nhận thấy thứ này có nghĩa gì, phải không?”
Nàng nuốt khan. “Nó có nghĩa là họ đã làm đám cưới trước khi em được sinh ra. Điều đó có nghĩa là em không phải đứa trẻ vô thừa nhận”.
“Đúng vậy. Em là con gái hợp pháp của một vị hầu tước. Điều đó cũng có nghĩa là em là một tiểu thư. Tiểu thư Katherine Adele Gramercy”.
Tiểu thư Katherine Adele Gramercy. Vẫn không thể nào tin nổi. Danh xưng trên giống như một chiếc váy quá rộng và đi mượn từ một người khác.
“Cuộc sống của em sắp thay đổi rồi, Kate. Em sẽ bước vào giai cấp cao nhất trong xã hội thượng lưu. Em phải ra trình tòa. Và lúc đó sẽ là khoản thừa kế. Một khoản thừa kế lớn lao”.
Nàng lắc đầu, cảm thấy sợ hãi và yếu ớt. “Nhưng em không cần tất cả những thứ đó. Được làm họ hàng một cách chính thống của anh đã là một câu chuyện cổ tích thành sự thật đối với em rồi. Còn đối với khoản thừa kế… Em không muốn lấy đi bất cứ thứ gì từ anh”.
Anh mỉm cười. “Em sẽ không lấy đi bất cứ thứ gì. Em sẽ có thứ mà em có quyền được hưởng. Chỉ là bọn anh đã vay hai mươi ba năm của em. Anh vẫn sẽ giữ lại tước vị này, tất nhiên. Tước vị không thể truyền cho một đứa con gái”.
Anh vỗ nhẹ tay nàng. “Các cố vấn pháp luật sẽ lo việc đó. Tất nhiên, em sẽ có nhiều chuyện phải bàn với Hạ sĩ Thorne”. “Không”, nàng thốt lên. “Em không thể nói với anh ấy. Anh ấy sẽ đi London có việc. Và trước khi anh ấy đi, bọn em… đã chấm dứt hôn ước”.
Evan thở ra theo một phong thái chậm rãi, đầy tự chủ. “Anh rất tiếc, Kate – lấy làm tiếc một cách nghiêm túc – vì bất cứ tổn thương nào mà chuyện này gây ra cho em. Nhưng vì bản thân anh và vì gia đình chúng ta, anh không thể giả vờ rằng mình cảm thấy thất vọng. Anh vui vì nó kết thúc trước ngày diễn ra cuộc trò chuyện này, hơn là sau đó”.
“Anh không cần phải lo lắng đâu”, nàng nói. “Anh ấy không phải kẻ hám lợi đâu. Anh ấy không muốn cưới em một chút nào, ngay cả khi biết anh đang có kế hoạch tuyên bố thừa nhận em là thành viên gia đình Gramercy. Nếu anh ấy biết em là một quý cô thực thụ, sẽ càng đẩy anh ấy rời xa em hơn mà thôi”.
Những lời nói của Thorne lại vang vọng trong nàng.
Nếu cả năm qua tôi không coi cô là một quý cô, thì tôi đảm bảo với cô rằng, mọi thứ giữa chúng ta đã rất khác.
“Evan, anh phải cảm thấy yên tâm và nhẹ lòng về mọi chuyện nhé”, nàng nói. “Giờ thì các cố vấn pháp luật đã thừa nhận em, anh sẽ không cần phải… tính toán cách khác để cho em cái tên gia đình”.
“Bằng cách cưới em, ý em phải vậy không?”
Nàng gật đầu. Đây là lần đầu tiên không ai trong hai người dám thừa nhận ý tưởng đó bằng lời.
“Sự nhẹ lòng nên là ở phía em mới phải, anh nghĩ thế”. Một nụ cười làm ấm ánh mắt anh. “Về phần anh, anh chưa từng coi đó là việc nặng nhọc”.
Nàng co rúm người, hi vọng đã không gây ra bất cứ sự xúc phạm nào. Evan có vẻ không yêu nàng một cách lãng mạn, nhưng rồi… Sau hôm qua, nàng biết được gì về cách đọc cảm xúc của đàn ông?
“Em xin lỗi”, nàng nói. “Em không có ý gợi ý rằng em… rằng chúng ta…”.
Anh nhận lấy lời xin lỗi vụng về của nàng và phẩy tay cho nó bay đi. “Kate, giờ em sẽ có rất nhiều lựa chọn. Mọi cánh cửa đều sẽ rộng mở với em. Hạ sĩ Thorne có thể là một người bạn đời tốt. Anh ta tự mình chuốc lấy rắc rối để bảo vệ em, và điều đó cho thấy rõ về nhân cách của anh ta”.
Anh không biết gì cả, nàng nghĩ.
Thorne đã đỡ cho nàng một quả dưa hấu. Và một vết rắn cắn. Anh còn đưa cho nàng con chó của anh.
“Nhưng”, Evan tiếp tục. “em có thể lựa chọn người tốt hơn làm chồng. Em xứng đáng với người tốt hơn thế”.
Nàng thở dài. “Em không dám chắc vậy đâu”.
“Hạ sĩ Thorne! Hóa ra anh ở đây”. Thorne cúi đầu chào. “Thưa phu nhân”.
Phu nhân Rycliff đón anh ở cửa ngôi nhà mới lộng lẫy ở thị trấn Mayfair.
“Anh biết anh có thể được miễn mọi lễ nghi mà”. Mấy lọn tóc màu đồng bồng bềnh trước khuôn mặt tươi cười của cô khi cô thầm giục anh đi vào. “Thật mừng khi được gặp anh. Bram ngóng anh tới thăm lắm đấy. Giờ thì em bé đã chào đời và anh ấy lại bị phái nữ áp đảo rồi”.
Tiếng khóc dữ dội của em bé sơ sinh dội xuống từ tầng trên.
Phu nhân Rycliff cúi đầu và nhéo vào sống mũi. Khi cô ngẩng mặt lên, miệng cô nở một nụ cười gượng gạo. “Rõ ràng là Victoria bé bỏng cũng háo hức mong được gặp anh”.
“Có phải tôi đã đánh thức cô bé không?”, anh hỏi, giọng lo lắng.
“Không, không. Con bé ngủ ít lắm”. Phu nhân Rycliff đưa anh vào phòng khách. “Phiền anh đợi Bram ở đây nhé? Tôi rất lấy làm tiếc bỏ anh lại một mình thế này khi anh vừa mới đến. Chúng tôi cứ phải thay nhau trông bé”.
Cô biến mất, còn Thorne bối rối đứng giữa căn phòng, ngó quanh xem có thấy chút lộn xộn nào không. Vài cái gối nằm rải rắc khắp phòng. Căn phòng có mùi… là lạ.
Anh hầu như không tin rằng đây là nhà của Huân tước và phu nhân Rycliff. Rycliff sinh ra và lớn lên trong quân ngũ. Trật tự đối với anh ấy tự nhiên như là việc hít thở vậy. Còn vợ anh… cô từng giữ vị trí quản lý, ở vịnh Spindle.
Không phải ít ra họ nên có người phục vụ sao?
Như thể đọc được suy nghĩ của anh, ai đó cất tiếng từ ngoài cửa. “Lạy Chúa. Ngôi nhà này vẫn đang trong quá trình sửa chữa. Thế nào mà chẳng có ai mời anh uống gì vậy nhỉ?”
Thorne quay lại và nhìn thấy Rycliff. Anh cúi đầu chào. “Thưa ngài”.
Rycliff gạt đi cách xưng hô kính cẩn của Thorne. “Trong nhà này, chỉ đơn giản là Bram thôi”.
Anh mời Thorne một cốc rượu mạnh bằng một tay và tay kia bắt tay Thorne rất chặt. “Thật mừng khi gặp anh”.
Thorne đón lấy cốc rượu và giải thích về cái bắt tay.
Cánh tay phải của anh vẫn còn cảm giác tê liệt từ khuỷu tay trở xuống, mặc dù anh đã dần dần lấy lại cảm giác.
Trong lúc nhâm nhi cốc rượu, anh ngắm nhìn Bram, để ý những thay đổi sau vài tháng và việc lên chức cha có tác động thế nào đến anh. Một điều rõ ràng – Bram đã sa thải người phục vụ của mình. Mãi đến cuối buổi chiều, Thorne mới biết chắc điều đó, khi Bram khoác lên người chiếc gi-lê và áo sơ mi không cài cúc tay áo, trông khá nhàu nhĩ. Trước mắt anh, Bram trông rất mệt mỏi – nhưng anh dám nghĩ rằng đó là sự mệt mỏi đầy mãn nguyện, khác hoàn toàn so với sự mệt mỏi khắc nghiệt khi tham gia chiến dịch.
Phu nhân Rycliff lại xuất hiện, hai tay ôm em bé vẫn đang khóc. “Tôi rất xin lỗi”, cô nói rất to, hòng át tiếng khóc. “Tôi e rằng con bé rất dễ cáu kỉnh. Gặp ai nó cũng khóc. Người giúp việc đầu tiên của chúng tôi đã bỏ đi. Không ai trong nhà được ngủ tử tế cả”.
“Con bé ngủ trong tay anh mà”, Rycliff nói. “Đưa con lại đây nào”.
Vợ anh nghe theo luôn, với sự nhẹ nhõm rõ rệt. “Hai tháng tuổi và con bé đã là cục cưng của bố nó. Tôi sợ rằng chúng tôi sẽ chỉ quanh quẩn trong nhà một thời gian”. Cô nhìn sang Thorne. “Tôi thực sự hi vọng anh không lên kế hoạch cho một kỳ nghỉ yên tĩnh và thoải mái ở thị trấn đấy chứ”.
“Không, thưa phu nhân”, Thorne nói. “Chỉ vì công việc thôi”.
Và khi anh không bận rộn với công việc, anh có thể tưởng tượng mình dành hàng giờ dài đằng đẵng, đắm chìm trong nỗi niềm tiếc nuối và tự trách phạt bản thân. Bất cứ điều gì giúp anh xao nhãng khỏi việc đó đều được chào đón – ngay cả khi nó đến từ một đứa trẻ đang gào khóc.
“Tiếp tục việc của em đi”, Bram nói với vợ. “Anh trông con rồi. Anh biết em còn phải chăm lo bữa tối mà”.
“Anh có chắc là anh không phiền gì chứ? Em sẽ chỉ đi kiểm tra lại phòng trên tầng dành cho Đội trưởng thôi”.
“Con bé luôn ngủ trong tay anh”, Bram nói. “Em biết điều đó mà. Lại đây nào, Thorne. Chúng ta có thể bàn công chuyện trong thư viện của tôi”.
Bế con gái trên một tay và cốc rượu ở tay kia, Bram bước ra khỏi phòng khách. Thorne đi theo anh qua một hành lang tới thư viện chất đầy giá sách.
Bram đá chân để đóng cửa lại, rồi đặt cốc rượu lên bàn và chỉnh lại vị trí của bé Victoria trong tay mình. Anh đi đi lại lại trong phòng, lắc lắc em bé vẫn đang khóc theo mỗi bước đi. Phần tật dai dẳng từ một lần bị thương trong chiến trận khiến bước đi của anh khập khiễng, không đều.
Khi bắt gặp ánh mắt tò mò của Thorne, anh nói. “Đôi khi đi bộ cũng có ích”.
Rõ ràng, không phải lúc nào cũng vậy.
Khi tiếng khóc của em bé vẫn chưa nguôi, Bram thầm chửi thề rồi xắn tay áo cao lên tới giữa cẳng tay. Anh chỉnh lại Thorne bằng ánh mắt đầy uy quyền. “Tôi vẫn là sĩ quan chỉ huy của cậu. Cậu không bao giờ được nói với Susanna tôi đã làm chuyện này. Đó là mệnh lệnh đấy”.
Anh nhúng đầu ngón tay út vào cốc rượu mạnh rồi cho vào miệng em bé. Victoria bé nhỏ nín khóc ngay lập tức, và mút ngón tay bố một cách thỏa mãn.
“Chúa giúp tôi”, Bram thì thầm với cô bé. “Đến khi mười sáu tuổi thì con ghê gớm phải biết”.
Anh thở ra một hơi nặng nhọc và nhìn sang Thorne. “Vậy, cậu chắc là mình muốn thế này chứ?”
“Muốn gì cơ?”, Thorne hỏi, vẻ đề phòng.
“Xuất ngũ trong danh dự. Chứ không phải con bé. Con bé có to mồm tới mấy thì tôi cũng sẽ không rời xa nó đâu”.
“Dĩ nhiên là không rồi”. Thorne hắng giọng. “Để trả lời câu hỏi của ngài… Vâng, thưa ngài. Tôi chắc chắn”.
“Đủ với “thưa ngài” của cậu lắm rồi đấy, Thorne. Tôi không hỏi cậu với tư cách ông chủ với người hầu, hay thậm chí chỉ huy với binh sĩ. Tôi đang hỏi cậu với tư cách bạn bè”. Cô bé nhả ngón tay cha ra rồi lơ mơ ngủ. Bram hạ giọng và chỉnh lại nhịp bước trong phòng, lần này, khá chậm. “Tôi muốn chắc chắn đây thực sự là khao khát của cậu. Cậu có thể có được sự nghiệp huy hoàng trong quân đội. Giờ tôi đã có địa vị cao, tôi có thể dễ dàng bổ nhiệm cậu, nếu cậu muốn”.
Những lời ấy khiến Thorne ngập ngừng giây lát. Điều mà Rycliff có thể cho anh không phải là một ân huệ nhỏ. Nếu anh chấp thuận sự bổ nhiệm đó, anh chắc chắn sẽ có chỗ đứng cao hơn trong xã hội và khoản thu nhập đều đặn cho tới hết phần đời còn lại. Đủ để chăm lo cho một gia đình.
“Anh thật hào phóng vì đã…”
“Chẳng có gì hào phóng cả đâu. Chỉ là một khoản bù đắp ít ỏi thôi. Cậu đã cứu mạng tôi và cái chân của tôi, cậu còn phục vụ tôi trung thành suốt ngần ấy năm”.
“Đó là nghĩa vụ và cũng là vinh dự của tôi. Nhưng tôi không thuộc về nước Anh nữa, nếu như tôi đã từng thuộc về. Tôi cần nơi nào đó rộng lớn hơn. Và ít văn minh hơn”.
“Vậy là cậu sẽ tới Mỹ. Để làm một nông dân?”
Thorne nhún vai. “Tôi nghĩ sẽ bắt đầu với việc đặt bẫy thú. Tôi nghe nói có thể kiếm được khối tiền”.
“Không nghi ngờ gì. Và tôi không thể phủ nhận việc đó phù hợp với khả năng của cậu”. Bram nâng bổng con gái lên. “Tôi sẽ không bao giờ quên hồi ở Pyrenees, khi cậu chẳng dùng gì khác ngoài một cái lưỡi lê để lột da và rút hết nội tạng con… Nó gọi là con gì ấy nhỉ?”
“Một con sóc đất”.
“Đúng rồi, sóc đất. Một thứ béo ngấy và dai khủng khiếp. Tôi sẽ không yêu cầu đưa sóc đất hầm vào thực đơn nhưng đúng là rất ngon khi nó là món thịt tươi đầu tiên sau nửa tháng trời”. Rycliff gật đầu về phía mấy cuốn sổ cái. “Tôi không thể cho cậu mượn ít vốn sao? Hãy để tôi làm vậy. Chúng ta có thể gọi đó là một khoản vay”.
Thorne lắc đầu. “Tôi có tiền tiết kiệm rồi”.
“Tôi thấy cậu vẫn quyết tâm làm một kẻ bướng bỉnh và tự lo cho bản thân. Tôi có thể tôn trọng điều đó. Nhưng tôi năn nỉ cậu nhận một món quà, như giữa một người bạn với một người bạn”. Anh nghiêng đầu về phía cây súng trường sáng bóng bên mạn lò sưởi. “Hãy cầm lấy nó. Đó là thiết kế mới nhất của ngài Lewis Finch”.
Khi đôi lông mày Thorne nhíu lại tỏ ý hoài nghi, Rycliff vội vã thêm vào: “Được sản xuất một cách chuyên nghiệp, tất nhiên rồi. Và đã được thử nghiệm kỹ càng”.
Thorne nhấc khẩu súng lên bằng cánh tay trái khỏe mạnh, thử độ cân bằng của nó. Đúng là một khẩu súng trường tốt. Anh có thể thấy mình đang băng qua những khu rừng với khẩu súng này trong tay. Dĩ nhiên, để làm cho bức tranh hoàn chỉnh, anh cần có Lửng chạy theo dưới chân mình.
Chết tiệt. Anh sẽ nhớ con chó lắm đây.
Thorne nhìn bằng ánh mắt tò mò khi bạn anh nhẹ nhàng đung đưa con gái đang ngủ trong tay mình. “Anh yêu con bé”, Thorne nói. “Con của anh”.
Bram nhìn anh như thể anh hóa điên. “Dĩ nhiên tôi yêu con bé chứ. Đúng thế đấy”.
“Làm sao anh biết được?” “Con bé là con gái tôi”.
“Không phải mọi ông bố đều yêu con mình. Làm thế nào anh biết anh yêu những đứa con của anh?”
Thorne biết điều này đã vượt quá giới hạn thông thường trong những cuộc chuyện trò của họ, nhưng nếu Bram muốn cho anh một ưu đãi… thì đây chính là ưu đãi mà anh có thể sử dụng.
Bram nhún vai và nhìn xuống con gái đang ngủ của mình. “Tôi cho rằng đó là một câu hỏi khá công bằng. Ý tôi là, dù con bé chưa làm được gì nhiều, đúng không? Ngoài việc lấy đi từ tôi và mẹ nó những giấc ngủ, những bữa ăn, tâm trí bình yên và cả những đêm mặn nồng nữa”.
Bram khẽ ngồi xuống ghế. Một cách chậm rãi, để không đánh thức cô bé dậy. “Khi con bé vừa được tắm, con bé có mùi tuyệt hơn cả thuốc phiện. Chính là thế đó. Và thậm chí dù tôi biết về mặt thống kê là không thể, thì vẫn chẳng ai có thể thuyết phục tôi rằng con bé không phải là em bé sơ sinh đẹp nhất nước Anh”.
“Quả thực con bé rất xinh mà. Và có mùi hương tuyệt vời nữa. Đó là tất cả những gì anh có?” Nếu đó là tất cả những gì cần có để yêu, Thorne nghĩ, anh lẽ ra đã có nó sâu trong lồng ngực từ lâu rồi.
“Tôi có thể nói gì nhỉ? Con bé vẫn chưa thể gọi là thuộc kiểu người hay chuyện”. Bram lắc đầu. “Tôi cũng đâu phải nhà hiền triết, Thorne. Tôi chỉ biết tôi cảm thấy thế nào thôi. Nếu anh cần có định nghĩa, hãy đọc sách xem sao”.
Chuyển con gái sang bên tay trái, Bram nhấc cốc rượu của mình lên và làm một hơi. “Những câu hỏi này có phải chứng tỏ có chút sự thật trong các tin đồn không? Rằng anh đã thân thiết hơn với cô Taylor?”
“Thân thiết?”
“Susanna đã nhận được vài lá thư rất lạ từ vịnh Spindle. Có vài người kể về một vụ đính ước”.
“Chỉ là buôn chuyện thôi”, Thorne nói. “Không có chút sự thật nào cả”. Không còn chút nào nữa.
“Nếu không có chút sự thật nào trong đó, vậy thì tin đồn được khơi mào thế nào vậy?”
Thorne nghiến chặt hai hàm răng. “Tôi không chắc ý anh là gì”.
Bram nhún vai. “Cô Taylor là bạn tốt với Susanna. Tôi chỉ muốn chắc chắn rằng cô ấy được đối xử tốt”.
Một ngọn lửa giận dữ bùng lên trong ngực Thorne. Anh đã cố gắng để kiềm chế nó. “Thưa ngài, khi nào thì lệnh xuất ngũ có hiệu lực?”
“Anh được phép xưng hô tự do ngay bây giờ, nếu đó là điều anh muốn nói”.
Anh gật đầu. “Vậy rất cảm ơn anh và chỉ cần anh để tâm vào việc của mình thôi. Nếu anh còn lời nào bóng gió có thể xâm hại tư cách cô Taylor, chúng ta sẽ có nhiều chuyện để nói hơn đấy”.
Bram nhìn anh trân trối, vẻ mặt kinh ngạc. “Có phải cậu vừa đe dọa tôi?”
“Tôi tin là như vậy”.
Bram bất ngờ cười khẽ. “Chúa ơi. Ở đây, Susanna và tôi còn đặt cược việc liệu cậu thậm chí có thích cô ấy hay không. Giờ thì tôi thấy rồi, cô ấy đã làm cậu phải lo lắng cho mình tới mức nào”.
Thorne lắc đầu. Nàng không khiến anh phải lo lắng nữa. Nàng không khiến anh phải lo lắng trong ít nhất… mười lăm tiếng đồng hồ.
Bram nhướng mày. “Đừng cảm thấy bị xúc phạm. Những người đàn ông mạnh mẽ hơn cậu đã phải quỳ gối trước các quý cô vịnh Spindle”.
Thorne đặng hắng. “Những người đàn ông mạnh mẽ đó có thể là ai?”
Tiếng gõ cửa vang lên từ bên ngoài thư viện.
“Làm thế nào mà anh làm được vậy?” Phu nhân Rycliff hỏi, ngạc nhiên trước cảnh con gái ngủ yên trong tay Bram. “Đối với một người lính già cộc cằn, anh lại mê hoặc được những chú cừu và các em bé với một sự dễ dàng quá đỗi. Hạ sĩ Thorne, bí mật của anh ấy là gì vậy?”
Bram ném cho Thorne một cách nhìn sắc lạnh. Đừng có nói. Là lệnh đấy.
Thorne sẽ không tuân lệnh. Nhưng anh cũng không thể để lời nhận xét “người đàn ông mạnh mẽ” trôi đi mà không có câu trả lời. “Đó chắc hẳn là nhờ… bài hát ru, thưa phu nhân”. “Bài hát ru?” Phu nhân Rycliff cười lớn và quay sang chồng mình. “Tôi chưa bao giờ nghe anh ấy hát một nốt nhạc nào. Thậm chí trong nhà thờ cũng không”.
“Có đấy”, Thorne nói. “Chỉ huy hát ru rất khẽ. Và rồi anh ấy làm điệu bộ như đang hôn nữa. Chắc hẳn phải có một câu chuyện về những nàng tiên và những chú ngựa con”.
Bram đảo mắt. “Khỏi cảm ơn nhé”.