S
au hội chợ giữa hè, mọi hoạt động ở vịnh Spindle lại trở về nhịp sống thường lệ. Vẫn còn mang trái tim đau đớn vì rắn cắn, Kate thuận theo sự quen thuộc ấy như một cách tìm quên.
Những phụ nữ của nhà trọ Queen’s Ruby tuân theo một lịch trình dễ đoán định trong suốt mùa hè. Các thứ hai, họ thả bộ ngắm cảnh làng quê. Thứ ba, tắm biển. Thứ tư, làm vườn.
Và thứ năm là ngày để tập bắn súng.
Vào ngày thứ năm đặc biệt hôm nay – bắt đầu bằng một buổi sáng khá u ám, tối tăm – Kate mời nhà Gramercy tới xem buổi tập bắn bia của họ ở Summerfield, lãnh địa của ngài Lewis Finch.
“Dì lúc nào cũng muốn học bắn súng”, dì Marmoset nói. “Cảm giác mới hào hứng làm sao”.
“Ngắm trước, bắn sau”. Kate minh họa thao tác nạp đạn chuẩn của một khẩu súng một nòng. “Dì phải dàn đều số thuốc súng để nạp một cách thật cẩn thận bằng cái sừng đựng thuốc súng này”, nàng nói. “Sau đó là viên đạn và một miếng giẻ lau. Giống như thế này này, dì thấy không?”
Khi nàng nhồi thuốc súng vào viên đạn, Kate có thể cảm nhận được dì Marmoset đang rất sốt ruột.
“Tất cả những thứ này thật thú vị, cháu yêu, nhưng khi nào thì chúng ta được bắn vậy?”
Kate mỉm cười. “Hãy cùng cháu bắn phát đầu tiên được không dì?”
Nàng đi ra phía sau dì Marmoset và giúp dì nâng khẩu súng lên bằng cả hai tay, rồi chống tay thật thẳng khi họ ngắm vào mục tiêu.
“Dì sẽ muốn nhắm một mắt lại”, nàng nói. “Để ngắm chính xác hơn. Rồi lên cò súng như thế này. Và một khi mục tiêu đã trong tầm ngắm, dì hãy nhẹ nhàng và thật vững tay bóp…”.
“Ôi”, một trong số các quý cô kêu thét lên. “Huân tước Drewe tới rồi!”.
“Evan tới đây sao? Ở đâu vậy nhỉ?” Dì Marmoset quay ngoắt lại, kéo Kate cũng quay theo mình. Họ cùng xoay khẩu súng đã nạp đạn đang được giữ trong bàn tay duỗi thẳng của họ - giống như mũi chiếc compa xoay về hướng Bắc. Tất cả các quý cô đều hoảng hốt và vội vã cúi người. “Nằm xuống!”, Kate gào lên, cố gắng giành lại quyền kiểm soát tình thế. “Evan, nhìn này!”, dì Marmoset gọi to. “Dì đang học bắn súng!”. Nhận ra mình đang đứng trong tầm đạn, Evan chết lặng tại chỗ. “Thật xuất sắc”.
Với một cái búng ngón tay cái, Kate hạ được cò súng.
“Dì Marmoset, dì vui lòng nhé”. Nàng nắm lấy cổ tay yếu ớt của dì rồi kéo xuống, cho tới khi khẩu súng đã chỉ xuống đất một cách an toàn. Mặc dù tim nàng đập thình thịch trong lồng ngực, Kate vẫn cố giữ giọng nói bình tĩnh. “Tại sao chúng ta lại không đặt cái này sang một bên đã dì nhỉ? Huân tước Drewe trông như có điều muốn nói”.
Drewe cũng lấy lại bình tĩnh. “Đúng là tôi có điều muốn nói”. Anh vỗ hai bàn tay và xoa mạnh chúng vào nhau. “Tôi có tin tức tốt lành cho mọi người đây”.
“Là gì thế?”, Charlotte Highwood cất tiếng hỏi.
“Ngài Lewis đã đồng ý cho tôi mượn hội trường lớn của Summerfield vào một buổi tối tuần tới. Các em gái của tôi và tôi…”, anh dừng lại trước khi tiết lộ thông tin quan trọng nhất, “… sẽ tổ chức một buổi khiêu vũ”.
Tất cả các quý cô đều lặng người. Họ trao nhau những ánh mắt lo lắng. Kate nghĩ nàng đã nghe thấy ai đó thì thầm một lời cầu nguyện.
“Anh nói…”. Nàng hắng giọng. “Anh vừa nói một buổi khiêu vũ, Huân tước Drewe? Ở đây, tại Summerfield?”
“Đúng thế, một buổi khiêu vũ. Đó sẽ là cách chúng tôi cảm ơn vịnh Spindle vì sự hiếu khách nồng ấm mà các bạn đã dành cho chúng tôi suốt kỳ nghỉ này. Chúng tôi sẽ mời lực lượng dân quân địa phương và tất cả cư dân của khu nhà trọ. Chúng ta sẽ có khoảng thời gian tuyệt vời”.
Sự im lặng của các quý cô rõ ràng không phải là phản ứng mà Evan mong đợi. Anh nhìn những cô gái trẻ u sầu đứng quanh mình, càng thêm bối rối. “Tôi không hiểu. Các cô không thích khiêu vũ sao?”
“Chúng tôi thích chứ”, Kate trấn an anh. “Chỉ là những buổi khiêu vũ ở Summerfield… à, hai buổi gần đây nhất đều kết thúc trong bạo lực và cực kỳ lộn xộn. Mùa hè năm ngoái, buổi khiêu vũ thậm chí còn kết thúc trước khi nó bắt đầu, vì một vụ nổ đầy bi kịch. Và rồi vào Giáng sinh, một kẻ buôn lậu người Pháp đã đột nhập vào phòng khiêu vũ và bắt cô Winterbottom tội nghiệp làm con tin. Vì vậy, chúng tôi đều có chút mê tín, anh biết đấy. Về những buổi khiêu vũ ở Summerfield. Vài người nói chúng đã bị nguyền rủa”.
“Ồ, lần này sẽ khác đấy”, Evan đứng thẳng người trong tư thế quyền uy nhất, kiêu hãnh nhất của một quý tộc.
“Tất nhiên sẽ khác chứ”, Lark nói. “Nếu người chủ trì buổi khiêu vũ là nhà Gramercy”.
“Ồ, đúng vậy”, Harry thêm vào. “Chúng ta nổi tiếng vì luôn đem tới cho các vị khách khoảng thời gian vô cùng khó quên”.
Kate có thể tranh luận rằng hai buổi khiêu vũ đầu ở Summerfield cũng đều khó quên theo cách riêng của chúng.
Diana Highwood mỉm cười, cứu nguy cho tất cả bằng bản tính luôn niềm nở, hòa nhã của mình. “Mẹ tôi sẽ rất hài lòng. Và tôi cũng khó mà chờ đến lúc đó. Một buổi khiêu vũ là ý tưởng rất đáng yêu. Huân tước Drewe, anh và các em gái anh thật tốt với chúng tôi”.
Evan cúi người. “Cảm ơn cô Highwood. Đây là niềm vinh hạnh của chúng tôi”. Quay sang Kate, anh nói thêm. “Cô Taylor, liệu cô có thể gặp tôi và mấy em gái trong vườn không?
Chúng tôi muốn tham khảo lời khuyên của cô về khoản âm nhạc cho buổi khiêu vũ”.
“Rất sẵn lòng”, Kate nói. Nàng bỏ khẩu súng xuống, tháo đạn và cất nó vào nơi an toàn. Rồi nàng thì thầm với Diana: “Làm ơn đừng để dì của họ lại gần một khẩu súng nào khác nữa nhé”.
Diana khẽ cười. “Đừng lo. Mình sẽ không để chuyện đó xảy ra”.
Trước khi tiến về phía khu vườn, Kate đón Lửng từ tay người bảo vệ. Về mặt lý thuyết, mặc dù tin rằng một chú chó săn hàng đầu nên làm quen với súng đạn, nàng lại không nghĩ sẽ là khôn ngoan nếu cho Lửng quẩn quanh dưới chân mình trong suốt buổi tập bắn mục tiêu.
Khi họ đi vòng quanh một hàng rào và biến mất khỏi tầm mắt của các quý cô khác, Kate nói với cả gia đình. “Em rất xin lỗi vì sự cố vừa xảy ra với khẩu súng lục. Rất rất xin lỗi. Thật không thể tha thứ cho em khi đưa súng cho dì. Em không biết dì lại tỏ ra háo hức đến thế. Rất hăng hái và nhiệt tình”.
“Đừng bận tâm việc đó”, Evan nói. “Ngài Lewis vừa mới chỉ cho anh thấy hội trường có từ thời trung cổ trong lâu đài của ông. Tin anh đi, không có khẩu súng nhỏ bé nào có thể khiến anh sợ hãi sau khi ngắm nhìn bộ sưu tập những dụng cụ tra tấn cổ đại của ông ấy. Nhưng đó không phải việc chúng ta gọi em ra ngoài để bàn bạc đâu”.
“Không phải ư?” Nàng nhướn mày ngạc nhiên. “Anh chắc chứ?”
“Buổi khiêu vũ”, Lark thì thầm một cách đầy phấn khích. “Chúng ta cần nói chuyện về buổi khiêu vũ. Chị phải thực sự nhận thấy chứ, nó là để dành cho chị. Tất cả đều là vì chị”.
“Buổi khiêu vũ là vì chị sao?”
Lark lắc lư người vì quá thích thú. “Đúng, dĩ nhiên là vậy rồi”.
Harry xen ngang. “Điều mà Evan nói về việc bày tỏ sự trân trọng của chúng ta… điều đó cũng đúng đấy. Nhưng bọn em muốn giới thiệu chị với mọi người, Kate. Mang đến cho chị sự ra mắt mà chị chưa bao giờ có”.
“Nhưng chị hai mươi ba tuổi rồi. Quá già để ra mắt”. Evan nói. “Màn ra mắt, sự xuất hiện… chúng chỉ là những từ để mô tả việc “giới thiệu em với xã hội thượng lưu”. Đó chính là mục đích chính ở đây. Chúng ta cần nói với cả nước Anh về em, Kate. Nhưng có vẻ nên bắt đầu việc đó từ đây. Ở vịnh Spindle này. Tất cả bạn bè em sẽ rất mừng cho em”.
“Em gợi ý một màn giới thiệu kịch tính vào giữa đêm”, Harry nói. “Khiến họ tất thảy đều run rẩy, náo nức vì trông đợi”.
Kate cũng đang run lên nhưng vì một cảm giác khác. Nàng nghĩ buổi khiêu vũ có thể là nỗi khiếp sợ.
Nàng không thể hiểu tại sao ý tưởng này lại khiến nàng thấy bất an. Được giới thiệu trước mọi người như một tiểu thư lưu lạc, tại một buổi khiêu vũ được tổ chức trên danh nghĩa của nàng – nghe có vẻ như một giấc mơ. Khoảnh khắc kết thúc huy hoàng như trong truyện cổ tích dành cho một cô gái đã lớn lên trong cảm giác bị bỏ rơi và đơn độc. Bạn bè nàng có thể sẽ thấy mừng cho nàng, chắc chắn là vậy. Có lẽ trừ phu nhân Highwood, bà hoàn toàn có thể nổi giận vì ganh tị.
Dù vậy, nàng vẫn không thể hình dung khoảnh khắc đó mà không cảm thấy đôi chút lo lắng. Nếu nàng ra đứng trước tất cả bạn bè và hàng xóm láng giềng của nàng rồi được tuyên bố là tiểu thư Katherine Gramercy…
Kate ước sao nàng có thể chắc chắn rằng bản thân mình tin vào điều đó. Nhớ về nó theo một cách rõ ràng và không thể phủ nhận được. Bất cứ chi tiết nhỏ nào cũng sẽ giúp ích. Với mỗi ngày qua đi, nàng cảm thấy chắc chắn hơn về việc những ký ức vẫn còn đó, và ngày càng tới gần bề mặt hơn trước đây. Nàng chỉ cần tìm thấy đủ can đảm để mở khóa chúng.
Khi họ rẽ vào một khu vực khác của khu vườn, Lửng bất ngờ lao vào một con công lang thang đang chạy vụt qua một khóm thảo mộc. Kate tách ra khỏi mấy người nhà Gramercy. Nàng cúi xuống để chạm vào một bông hoa hồng lớn như tách trà, lướt ngón tay mình dọc theo cánh hoa mịn mượt như nhung. Sự mịn mượt tinh tế ấy khiến nàng lặng người và một giai điệu vang ngân trong lòng, nguyên sơ và bản năng như hơi thở.
Ngắm nhìn khu vườn nở hoa rực rỡ…
Có gì đó trong bài hát. Một điều gì đó quan trọng. Nếu không, nàng đã không nhớ bài hát ấy suốt cuộc đời mình như vậy.
Nàng di di gót đôi dép mềm của mình xuống lớp sỏi trắng được xếp đặt tỉ mỉ. “Mọi người sẽ thứ lỗi cho em chứ?
Hãy đi về làng trước đi ạ. Em… em đã quên vài thứ. Và Lửng cũng cần lượt chạy đầu tiên trong ngày”.
Thậm chí không cần đợi câu trả lời, nàng quay người và bắt đầu dạo bước theo hướng khác. Chú chó nhỏ theo sát dưới chân nàng.
Nàng không có một điểm đến cụ thể nào. Nhưng đúng là nàng đã quên điều gì đó.
Nàng sẽ đi và đi mãi, đi cho tới khi nàng nhớ ra đó là điều gì. Cho tới khi nàng chạm được tới phía cuối hàng lang dài tối tăm.
Và khi nàng đến được đó – lần này, nàng sẽ mở toang cánh cửa ra.
“Đừng đi xa quá, Kate nhé!”, Lark gọi với theo từ phía sau. “Trời trông như sắp mưa đấy”.
Thorne không thể trải qua một ngày tồi tệ hơn cho việc di chuyển bằng đường bộ. Anh đã không đi quá xa về phía N am trước khi bầu trời chuyển màu tối với những đám mây nặng trĩu đáng lo ngại. Nhưng chỉ vài giờ sau, cơn mưa ập đến.
Và từ lúc đó, mưa cứ rơi mãi không ngớt.
Những con đường chán chường ở Sussex chẳng cần nhiều hơn một giọt mưa để chuyển từ “đầy bụi bặm nhưng vẫn có thể qua được” sang “bãi bùn lầy lợn đằm”. Chuyến đi của anh vì thế thành ra rất chậm chạp và ướt sũng. Tất cả những chuyện này sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều nếu anh có thể bỏ qua hành trình trở lại vịnh Spindle và cứ thế thẳng tiến sang Mỹ sau khi hoàn tất và nhận được các giấy tờ xuất ngũ. Nhưng anh cần thu dọn vài đồ dùng cá nhân và sắp xếp chuyển giao công việc cho lực lượng dân quân địa phương.
Và anh cần gặp Katie. Chỉ một lần nữa thôi, dù anh phải đứng ngắm nàng từ xa. Trò chuyện sẽ là không cần thiết. Anh chỉ muốn lướt ánh mắt trên người nàng và muốn chắc chắn với bản thân rằng nàng đang được hạnh phúc, được an toàn và được yêu thương.
Nàng xứng đáng nhận được yêu thương, từ những người đã đọc sách đủ nhiều để hiểu “tình yêu” là thứ quái quỷ gì.
Cuối cùng, anh rời khỏi con đường chính và rẽ vào nhánh đường con dẫn về vịnh Spindle. Vào thời điểm đó, những cánh đồng hoang và những đồng cỏ còn dễ vượt qua hơn là những con đường cũ kỹ, lạc hậu nên anh quyết định cưỡi ngựa khỏi đường chính và tiếp tục hành trình.
Qua một đám mây chứa đầy sương mù cuộn xoáy, bóng ma cổ đại của lâu đài Rycliff xuất hiện trên những con dốc xa, có vẻ như đang nâng lên và thay đổi theo từng đợt gió. Vượt qua đó là biển cả mênh mông đang bị bao phủ bởi một bức tường sương mù xám xịt. Tất cả những âm thanh quen thuộc của cuộc sống thôn quê – tiếng đàn cừu kêu be be, tiếng chim ca hót líu lo – đều trở nên câm lặng bởi những trận mưa dai dẳng. Toàn bộ khung cảnh toát lên một vẻ bí hiểm đáng sợ. Bên dưới nhiều lớp sũng ướt của áo choàng, áo gi-lê, cà vạt và áo sơ mi, anh đang sởn gai ốc vì lạnh.
Hãy giữ cái nhìn tỉnh táo.
Ở điểm thấp nhất của cánh đồng – ngay trước khi những con dốc gồ ghề bắt đầu nhô lên từ phía bên kia – Thorne thả ngựa phi nước kiệu. Anh xem xét rất cẩn thận để tìm vị trí thích hợp cho ngựa băng qua. Nhiều thế kỷ trước, có một hào nước rất sâu được đào ở đây. Thêm một vành đai bảo vệ nữa cho tòa lâu đài bên trên. Trải qua hàng trăm năm, con hào đã gần như bị lấp kín – nhưng đôi chỗ vẫn còn những vũng đất mềm, nơi đồng cỏ như mất hút phía dưới chân con người, và những tảng đá lăng chực chờ sẵn để khiến anh trượt ngã từ chỗ cách mặt đất vài mét.
Một âm thanh lạ vang đến tai anh, xuyên qua màn mưa dày đặc, ầm ĩ. Anh nhận ra ngay lập tức.
“Lửng?”
Thorne xuống ngựa. Con ngựa giờ đây đang đứng trên mảnh đất quen thuộc với nó; nó đã dành cả năm trời gặm cỏ trên những cánh đồng này mỗi ngày.
Huýt gió trong cảnh mưa như trút nước thế này sẽ là vô ích. Anh chụm hai bàn tay lại quanh miệng và hét gọi con chó. “Lửng! Ở đây này, cậu bé”.
Tiếng chó sủa dội lên từ một trong những chỗ trũng sâu của cánh đồng. Nó đang làm gì ở dưới đó không biết?
“Mong là không phải một con rắn khác”, Thorne lẩm bẩm, trong lúc tiến lên phía trước để xem xét tình hình.
Đó không phải một con rắn. Đó là một phụ nữ.
Katie của anh, bị mắc kẹt bên dưới một mảng đất phủ cỏ nhô lên trên mặt đất, ướt sũng tận da và đang run rẩy trong một cái hố đầy bùn.
“Lạy Chúa”.
Anh bước xuống hố, chống đôi giày ống trên một mỏm đá và sải rộng cánh tay rảnh về phía nàng. “Katie, là anh đây. Nắm lấy tay anh”.
“Anh đây rồi”. Khuôn mặt nàng nhợt nhạt quá đỗi, và giọng nói của nàng nghe rất căng thẳng. “Em biết anh sẽ tìm ra em. Anh luôn luôn tìm ra em”.
Cánh tay nàng trông như bóng quỷ hồn ma lúc vươn về phía anh. Anh lo sợ khoảnh khắc khi chớp lấy tay nàng rồi bỗng phát hiện ra nàng tan biến trong sương mù. Vĩnh viễn rời xa anh.
Nhưng không. Khi anh siết những ngón tay của mình lại, chúng đã chộp được một bàn tay, là da thịt thật sự. Da thịt ấy giá lạnh tới tàn nhẫn, nhưng anh sẽ giữ lấy nàng bằng mọi giá, chỉ cần nàng được sống.
Với một vài lần kéo mạnh và một chút hợp tác từ phía nàng, anh đã đưa được nàng thoát khỏi cái hố. Nàng ngã vào anh và anh đỡ lấy nàng trong cánh tay mình.
“Katie”. Anh nhìn nàng chằm chằm, không giấu được vẻ kinh sợ. Chiếc váy vải muslin mỏng của nàng đã sũng nước, nó dính chặt vào da nàng thành từng mảng đầy bùn. “Em có bị thương không? Em có bị gãy xương ở đâu không?”
“Không. Chỉ lạnh… lạnh thôi”.
Anh buông nàng ra – giữ nàng đứng vững trên mặt đất để anh có thể cởi bỏ chiếc áo khoác. Ống tay áo chết tiệt được may vừa khít và lớp vải sợi lại ẩm ướt. Anh phải rất vất vả để cởi áo và mỗi giây anh lãng phí vào việc đó là thêm một giây nàng run lên vì lạnh. Trước khi cởi bỏ được cái áo ra, anh đã thốt lên đủ mọi lời lẽ bang bổ nhất trong kho từ vựng của mình.
“Em đang làm cái quái gì ở ngoài này thế?”
“Em… Em không định như vậy. Em chỉ đưa Lửng ra ngoài đi dạo và bọn em mắc mưa. Em đã không nhận ra nó ghét việc đó đến thế nào. Em nghĩ những chú chó thích mưa”.
“Không phải là những con chó săn tinh mắt”.
“Vậy… Vậy em vừa học được điều này. Ngay lúc giọt mưa đầu tiên rơi xuống, Lửng đã lao xuống hố. Em không thể buộc nó rời khỏi chỗ đó và em cũng sẽ không bỏ nó lại. Em quyết định bọn em sẽ chỉ trú tạm thôi và chờ cơn mưa tạnh. Nhưng rồi mưa cứ rơi mãi, rơi mãi. Trước khi mưa ngớt đi đôi chút, em đã cảm thấy rất… rất lạnh”.
Anh ném chiếc áo khoác của mình lên quanh vai nàng và kéo lại. Dù là một cơn mưa mùa hè nhưng nó lạnh khác thường và chỉ Chúa mới biết nàng đã dầm mưa bên ngoài bao lâu rồi. Đôi môi nàng thâm lại thành màu xanh rất thê thảm và giờ thì nàng gần như chẳng có chút cảm giác gì.
“Em phải đi dạo bộ, anh biết đấy. Em phải tiếp tục đi cho tới khi tìm thấy câu trả lời. Ngay cả khi việc đó kéo dài hết ngày hết đêm. Em phải biết. Nhưng giờ thì em hiểu rồi”. Hàm răng nàng va vào nhau lập cập và nàng nhìn vào khoảng không xa xăm bằng ánh mắt trống rỗng.
“Anh cần đưa em vào trong. Chúng ta phải làm cho em ấm lên”.
Đôi mắt nàng gặp mắt anh, bất chợt sáng tỏ và chói lên dữ dội. “Em nhớ ra rồi, Samuel”.
Lạy Chúa. Khi nàng nói tên anh, trái tim anh cuống cuồng, điên loạn muốn thoát khỏi lồng ngực.
Nàng đổ gục vào người anh, cuộn những ngón tay vào lớp áo sơ mi của anh. Hơi thở nàng như một luồng hơi ấm chạm vào da thịt anh.
“Em nhớ ra anh rồi”, nàng thì thầm. “Anh, âm nhạc, bài hát. Đêm hôm đó. Em đã nhớ ra tất cả”.