M
ặc dù hồi còn đi học lẫn trong cuộc sống hiện giờ tôi không chuyên tâm nghiên cứu về âm nhạc nhưng lúc nào tôi cũng mong ước điều ngược lại, nghĩa là ước ao được am hiểu về ngôn ngữ lẫn quy ước âm nhạc để có thể bước vào vùng đất đó, vượt qua hàng rào ngăn cách giữa hàng ghế khán giả và sân khấu của người nghệ sĩ.
Tôi cứ ước mình có thể tham gia và thậm chí là điều khiển cả một dàn nhạc thính phòng chứ không chỉ mãi mãi là một khán giả!
Trong quyển sách All I really need to know I learned in kindergarten của mình, tôi thậm chí còn đề cập đến niềm kính trọng của mình đối với thể loại nhạc thính phòng, đặc biệt là bản xô-nát số 9 của Beethoven. Trong đời sống nội tâm của mình, tôi tưởng tượng ngày nào đó mình sẽ thuê một khán phòng, một dàn nhạc giao hưởng và một nhạc trưởng tài ba để vừa tham gia điều khiển dàn nhạc, vừa chơi trống định âm.
Khoảng một năm sau khi xuất bản quyển sách đó, tôi nhận được một cú điện thoại bất ngờ từ người đại diện của Dàn nhạc giao hưởng và thính phòng Minneapolis. Ý nghĩ kỳ quặc trong quyển sách của tôi đã được ghi nhận. Liệu tôi có thích điều khiển dàn nhạc, ít nhất là đoạn cuối của bản xô-nát số 9 không? Sự hiện diện của tôi sẽ giúp công chúng chú ý đến họ hơn, còn tôi thì có cơ hội thỏa mãn ước mơ. Được chứ?
Tôi cho rằng họ hiểu rõ mình đang làm gì, vì nếu không thì đã chẳng hỏi tôi như thế.
Họ cho rằng tôi biết rõ mình đang làm gì, vì nếu không tôi đã chẳng viết một bài tỏ ra rất am hiểu về Beethoven như vậy.
Và tôi cũng cho rằng những gì mình vẫn thường nghe là có thật: rằng một dàn nhạc giao hưởng thật ra không cần đến nhạc trưởng. Tất cả những gì tôi làm là bắt nhịp và múa tay cho khớp với nhạc suốt từ đầu đến cuối, rồi cúi chào khán giả.
Về phần Beethoven và bản xô-nát số 9 thì tôi đã từng đọc tài liệu và đi xem người khác trình diễn. Và cũng có nhiều lần tôi đã từng đóng vai nhạc trưởng khi đứng một mình trong phòng khách ở nhà.
Dĩ nhiên là tôi làm được chuyện này.
Thế là thay mặt cho hình ảnh mới của mình, một Fuljumowski huyền thoại, tôi nhận lời.
Và kéo theo đó là một loạt sự kiện phi thường mà tôi sẽ phải tốn nhiều thời gian mới kể hết. Nhưng trong dàn nhạc giao hưởng thì thành phần nhỏ bé nào cũng quan trọng và cần thiết cả.
Cho đến tận khi thực sự dấn thân vào con đường này, tôi mới phát hiện có quá nhiều thứ mình không hề biết. Đó là dàn nhạc đang trong lúc xáo trộn và có nguy cơ tan rã. Người chỉ huy dàn nhạc kỳ cựu đã bị hội đồng đuổi việc. Các nhạc công chủ chốt thì biểu tình lãn công. Trong khi đó, người ta vẫn chưa thuê được nhạc trưởng mới. Mặc cho sự thanh lọc đó, kế hoạch biểu diễn cho mùa sắp tới vẫn phải được tiến hành, tất cả là nhờ một nhân viên vốn am hiểu về việc quảng bá nhưng lại không biết mấy về tôi lẫn bản xô-nát số 9.
Khi nhạc trưởng mới đến thì chương trình đã được công bố. Ông và dàn nhạc thất kinh khi nghe nói về tôi. Ông đến gặp tôi ở Seattle, đầy tự chủ và nhẫn nại, ông hỏi:
– Ông biết gì về một dàn nhạc giao hưởng, thưa ông Fulghum? Tức là cách một dàn nhạc vận hành ấy!
– Tôi không đọc nhiều về âm nhạc. Đó có phải là vấn đề lớn không? – Tôi đáp.
Im lặng kéo dài.
Rồi ông ấy giải thích rằng bản xô-nát số 9 khó đến nỗi hầu hết các nhạc trưởng chuyên nghiệp cũng không dám chỉ huy, trừ khi đã có nhiều năm kinh nghiệm.
Ông còn nói thêm rằng chỉ trong nhịp cuối cùng thôi cũng đã có ít nhất ba mươi mốt chỗ mà người nhạc trưởng phải biết dừng lại và xướng nhịp theo những thay đổi rất tinh tế của tiết tấu.
Ông giải thích rằng một dàn nhạc thường không đính kèm bản xô-nát số 9 trong chương trình của mình vì họ chỉ có hai mươi sáu nhạc công và để trình bày những tác phẩm lớn cần có thêm nhiều nghệ sĩ biểu diễn, chẳng hạn không chỉ cần đến năm mươi nhạc công mà còn phải có một trăm người hợp xướng và bốn người đơn ca. Và mặc dù là những nghệ sĩ chuyên nghiệp, rất ít người trong số họ từng có dịp chơi bản xô-nát số 9. Ngay cả nếu như họ có thể trình diễn được bản đó, việc phối hợp cả nhóm lại cho chặt chẽ cũng là một công việc khá là vĩ đại.
Tiếp theo, những lúc diễn tập ở nhà, tôi có thể trễ nhịp và bỏ đi vào phòng tắm rồi quay lại mà nhạc vẫn tấu lên. Còn đứng giữa một dàn nhạc thật sự, một nhạc trưởng phải nắm vững toàn bộ bảng tổng phổ trong đầu và lúc nào cũng phải nghĩ trước một giây, biết rõ cái gì đã xảy ra, đang xảy ra và sắp xảy ra chỉ trong tích tắc. Tất cả những thứ đó diễn ra cùng một lúc.
Ông giải thích mãi cho tới lúc tắc ý, không biết phải nói gì thêm nữa.
– Nói tóm lại, cái mà anh muốn làm là… là… hoàn toàn… hoàn toàn…
Nhưng ông không tìm được từ để nói nữa.
– Nhưng quả thật tôi rất muốn làm việc này. – Tôi biện hộ.
Lại im lặng kéo dài.
Ông ta lại nói, và tôi trích ngay một câu để diễn đạt ý của ông:
– Chúng ta chết cả nút.
Cuối cùng thì ông cũng tìm đúng từ. Trước sự ngạc nhiên của ông và cả chính bản thân mình, tôi cứ nhất mực không chịu nghe lời khuyên can ấy.
– Nhưng tôi sẽ làm được mà! Ý tôi là, nếu tôi chịu khó rèn luyện và thật sự quyết tâm thì mọi thứ sẽ ổn cả. Liệu như thế đã được chưa nào?
– Chắc là được.
Thế là chúng tôi có một thỏa thuận. Ông ta sẽ cố gắng hết sức để chỉ dẫn tôi cách chỉ huy dàn nhạc một cách sơ đẳng nhất. Điều này dễ hơn tôi nghĩ đôi chút, vì công việc này khá rõ ràng, đơn giản và nhất quán chứ không kịch tính.
Còn tôi hứa sẽ làm một điều mà tôi đã không làm kể từ thời phổ thông trung học, đó là học thuộc lòng toàn bộ bản nhạc, thuộc đến mức lúc nào nó cũng nằm ở trong đầu. Đồng thời tôi phải chuyển tải bản nhạc theo phong cách riêng của mình.
Chúng tôi dành ra sáu tháng để luyện tập. Nếu mọi chuyện suôn sẻ thì tốt. Còn nếu không, tôi hứa sẽ lăn ra ốm liệt giường một tuần trước buổi biểu diễn và rồi sẽ vắng mặt hôm đó.
Khi bắt tay vào rèn luyện bản xô-nát số 9, tôi sống lại những kỹ năng hồi còn đi học đại học. Tôi lại tự nhủ, chẳng có nhiệm vụ trí óc nào lại không thực hiện được trong khoảng thời gian từ chiều Chủ nhật đến chín giờ sáng thứ Hai, nếu đó là lúc thi cử. Và nếu bạn lo lắng, sợ hãi lẫn tuyệt vọng vừa đủ, bạn có thể làm nên những điều kỳ diệu.
Bạn không chỉ có thể đọc Chiến tranh và hòa bình khi cần thiết mà thậm chí còn có thể nghĩ đến việc viết tiếp câu chuyện đó. Nghĩ lại những gì tôi đã nỗ lực để lấy bằng cử nhân thì bản xô-nát số 9 của Beethoven dường như chẳng thể nào làm tôi nản chí cho bằng. Và tôi càng vững tinh thần hơn khi biết rằng lần đầu tiên Beethoven chỉ huy dàn nhạc trong buổi tập dượt, ông đã thất bại vì không thể nào đi hết bài. Beethoven mà còn thế nữa là tôi!
Học thuộc bản xô-nát số 9 là một thử thách trí tuệ thực sự khó nhằn nhưng lại thú vị nhất trong đời tôi. Tôi đang cố làm một điều thật ngớ ngẩn nhưng không thể nào dứt ra được. Liệu nó sẽ tệ đến mức nào nhỉ? Điều tệ hại nhất mà tôi có thể gây ra là cảnh thất bại nực cười mà không ai quên được. Còn tốt nhất là tôi sẽ làm được.
Đây là một nhiệm vụ bắt buộc phải làm. Phải làm nhưng vẫn thật điên khùng, không tưởng mà cũng chẳng có đường thoát.
Một tuần trước buổi biểu diễn, tôi tưởng tượng mình là một nhạc trưởng đại tài luôn trong tâm trạng lo lắng – nhưng luôn sẵn sàng. Chúng tôi luyện tập mỗi ngày. Trong lúc chơi trọn bản nhạc bằng piano, người nhạc trưởng thực thụ kia lúc thì ngọt ngào, lúc thì la hét quát tháo để chỉ cho tôi thấy những sự thay đổi trong tiết tấu.
Tuy chưa bao giờ nói ra nhưng tôi tin rằng ông đã biết tôi không thể làm được việc này, và ông ấy biết rằng tôi cũng tự biết mình sẽ không làm được, nhưng ông vẫn để yên mọi chuyện cho đến buổi diễn tập thảm hại đầu tiên mới nói sự thật cho tôi nghe.
Con người này có bằng tiến sĩ tại Đại học Yale, là một quý ông và một học giả. Ông hài hước tinh quái, do vậy tôi ngờ rằng ông không muốn bỏ lỡ cơ hội được nhìn thấy những màn hài kịch trong lịch sử nhạc giao hưởng.
Và nói thật, chỉ có đứng trên sân khấu tôi mới hiểu được sự rối loạn của dàn nhạc. Sự tổn thương do mâu thuẫn từ việc thay đổi nhân sự mà người lãnh đạo gây nên vẫn còn đó. Các thỏa thuận hợp đồng giữa công đoàn và mọi người vẫn chưa được dàn xếp. Và trên hết là việc phải trình diễn bản xô-nát số 9 với một nhạc trưởng không chuyên như tôi.
Sự thật là họ không cần đến nhạc trưởng.
Cái họ cần chính là một bộ trưởng.
Và tôi biết phải làm điều đó như thế nào.
Quan sát dàn nhạc bằng con mắt của một vị bộ trưởng, tôi đã nhìn thấy một sự thật hiển nhiên: những nhạc công không giống như những gì tôi và các bạn vẫn thấy.
Mọi thứ rất dễ khiến ta bị lừa. Khi bạn ngồi giữa một khán phòng to lớn và những con người đẹp đẽ, ăn mặc sang trọng, đầy tài năng, đứng tự tin trên sân khấu với những nhạc cụ sáng loáng, trông họ cứ như những vị thần nhỏ không hề quan tâm đến thế giới này.
Nhưng nếu bạn đến xem một buổi diễn tập kín nơi chỉ có những nhạc công, bạn sẽ bắt gặp một đám người ăn vận tuềnh toàng chẳng khác gì hàng người đang chờ đến lượt tính tiền ở siêu thị. Họ đến đây để làm việc rồi về nhà. Do làm việc quá tải và không được trả công, bạn sẽ nhanh chóng nhận ra những bộ quần áo đen đẹp đẽ mà khán giả vẫn thường thấy kia, khi nhìn gần hơn từ hậu trường sân khấu trông chẳng khác gì được mua từ các cửa hàng giá rẻ.
Họ có vợ, có chồng, có con cái, nhà cửa, hy vọng, ước mơ cùng nhiều thứ khác. Tất cả đều cống hiến đời mình cho con đường nghệ thuật vất vả và chết đói, để trở thành một nhạc sĩ chuyên nghiệp và phải hy sinh một số chuẩn mực nhất định trong cuộc sống. Họ hy sinh để tạo nên âm nhạc. Và bất kỳ ai quan tâm đến cuộc sống của họ cũng đều được chào đón.
Tôi còn biết trong số các thành viên của dàn nhạc đó, có vài người đang tiến hành thủ tục ly dị, có một người mẹ đang chết dần vì ung thư, một gia đình đang gặp khủng hoảng tài chính, một số kẻ tranh đua, hiềm tỵ nhau, một trường hợp nghiện rượu cùng sự căng thẳng theo kiểu “chúng tôi và họ” diễn ra giữa những thành viên thường trực của đoàn và những người được thuê mướn thêm để trình diễn bản xô-nát số 9.
Bầu không khí của dàn nhạc thật tệ. Giữa những nhạc công toát lên sự lộn xộn, thiếu nhân đạo. Chính vì vậy mà khi một gã nhạc trưởng không chuyên khờ khạo xuất hiện và không ngừng đề nghị được giúp đỡ, chỉ dạy thì tinh thần của họ chuyển từ sự chán nản, phiền muộn sang thích thú vì bỗng chốc có được mối quan tâm mới. Họ cần được nể trọng và chắc chắn sẽ nhận được ở tôi sự nể trọng to lớn đó.
Buổi diễn tập đầu tiên.
Tôi đứng trên bục, giơ cao hai bàn tay và với sự tự tin đến phát cuồng, tôi vung tay bắt nhịp mà lòng tràn trề hy vọng. Và mọi người bắt đầu chơi nhạc!
Đôi khi cũng cùng một lý do mà mọi chuyện trở nên rối rắm hay trở nên suôn sẻ. Lần này cũng vậy. Tuy có vấp váp, loạng choạng rồi lảo đảo nhưng chúng tôi cũng tỏ ra ăn khớp với nhau và mọi chuyện cũng thành công. Tôi không thể nào tin được, còn dàn nhạc thì hết sức ngạc nhiên. Viên nhạc trưởng lặng người đi. Còn tôi thì sửa soạn gói ghém đồ đạc và đi về. Chỉ cần một lần diễn tập thôi cũng đã đủ, xin cảm ơn! Cứ nghĩ đến việc còn đến ba lần diễn tập cùng ba buổi biểu diễn chính thức nữa cũng đủ làm tôi rũ người.
Ngược lại, viên nhạc trưởng lại khỏe khoắn hẳn lên. Điều khiến ông ta ấn tượng là tôi hoàn toàn không phụ thuộc vào bản tổng phổ bởi tôi không hề liếc mắt nhìn nó lấy một lần. Ấy vậy mà dường như tôi lại biết rõ lúc nào thì nhạc cụ nào trỗi lên. Tôi tập trung như thể có ra-đa bắt sóng chính xác và ông ta không tài nào tin được.
– Có gì đâu. – Tôi đáp. – Nếu quan sát họ là ta biết ngay khi nào họ sắp sửa chơi. Họ giơ cao nhạc cụ, vào đúng vị trí và tôi chỉ cần vẫy tay ra hiệu – VÀO – và thế là họ làm theo. Tôi nghĩ ông phải biết điều đó chứ?
Người nhạc trưởng đó lúc nào cũng phải liếc mắt nhìn bảng tổng phổ và ông không bao giờ chú ý đến điều đó.
Những người chuyên nghiệp không biết gì cả.
Thế rồi cũng đến buổi biểu diễn đầu tiên tại nhà hát Thế Giới ở St. Paul, Minnesota. Khắp khán phòng kín những người là người. Dù trước kia đã định mặc một bộ áo đuôi tôm màu trắng như một nhạc trưởng đại tài, giờ đây tôi đủ hiểu những bộ quần áo như thế chỉ tổ khiến cho trò cười thêm tệ hại. Cầm thêm cây đũa trên tay chẳng khác nào cầm một viên đá lấy từ mặt trăng, một vật vốn chỉ càng cho thấy tính phức tạp của con người. Giờ đây tôi đã thấu hiểu sự thật của câu nói chỉ có mười phần trăm công việc chỉ huy dàn nhạc là chỉ huy dàn nhạc thật sự.
Vì thế trông tôi chẳng giống một nhạc trưởng chút nào khi vận bộ áo vét của doanh nhân. Và tôi cũng không bước ra từ cánh gà mà từ hàng ghế thứ hai của khán giả. Tôi giải thích với khán giả rằng tôi đại diện cho họ và rằng bất kỳ ai trong số họ hẳn cũng luôn ước ao được chỉ huy dàn nhạc. Tôi cũng xin lỗi vì không mang chiếc đũa trên tay như bao nhạc trưởng khác. Vì cứ mỗi lần tập dượt là tôi lại ném nó vào dàn hợp xướng.
Tôi quay người lại, bước lên bục dành riêng cho mình, hít một hơi để lấy đủ ôxy cho nhịp thở nhanh rồi vung tay bắt nhịp. Bất chấp kết quả ra sao thì chúng tôi cũng đã bắt đầu. Tôi cảm thấy mình như một tay lướt sóng đang trượt trong lòng một cuộn sóng lớn.
Vấn đề của tôi là ở chỗ hễ cứ đến đoạn đổi tiết tấu là tôi lại thấy trong lòng hối hả đến phát sốt và cánh tay tôi vung nhanh hơn bình thường khoảng mười nhịp. Một lần khi lẽ ra chúng tôi phải tăng tốc từ tiết tấu kép lên tiết tấu ba, tôi đã vẫy đến khoảng chín mươi nhịp trong vòng một phút, vốn là mức cao nhất đối với dàn nhạc dây ở đoạn ngân. Chúng tôi thở hổn hển, chạy như xe lửa. Sau đó tôi có bảo với dàn nhạc rằng đó là khoảnh khắc của uy lực.
Một khoảnh khắc của niềm tin thì đúng hơn.
Đó là vì lúc ấy tôi nghĩ: ÔI CHÚA ƠI – ÔI CHÚA ƠI, và tôi nhìn xuống người chơi đàn xen-lô đầu tiên đang kéo như điên dại, cô nhìn qua người nghệ sĩ vi-ô-lông kế bên cũng đang lấy hết sức để kéo như cô, miệng thì thào: “ÔI CHÚA ƠI! ÔI CHÚA ƠI!”.
Ngày hôm sau, một trong các nhà phê bình đã gọi buổi trình diễn của chúng tôi là “một buổi hòa nhạc mạnh mẽ”.
Và chúng tôi đã biến buổi biểu diễn bản xô-nát số 9 của mình thành một kỷ lục của thời đại.
Tuy được ca ngợi thật sự, phần trình diễn vẫn chưa tốt, đồng nhất hay thậm chí là khá. Nhưng bản thân tôi, vốn chẳng khác gì một con hải cẩu được huấn luyện ở Seattle, đã giữ được thăng bằng cho quả bóng Beethoven trên mũi mình trong lúc đập hai vây theo nhịp nhạc. Và buổi biểu diễn đã để lại trong lòng người xem một cảm giác rằng ngay chính họ cũng có thể chỉ huy một dàn nhạc.
Đến đêm biểu diễn cuối cùng thì tôi gặp rắc rối. Tôi không nghĩ mình có thể chỉ huy dàn nhạc thêm một lần nữa. Kiệt sức, mệt mỏi và hài lòng quá độ, tôi còn lo lắng về giá trị của cái mà mình đang cố làm. Bởi nếu chỉ làm vừa đủ để cho xong buổi trình diễn này thì quả là một sự sỉ nhục đối với sự vĩ đại của nền âm nhạc và tài năng của các nhạc công. Chẳng ai phải bảo tôi điều đó. Tự tôi đã biết thế. Tôi nhớ rằng hầu như tất cả những người nhạc công này đều chưa từng chơi bản xô-nát số 9 trước đây. Và đây có thể là cơ hội duy nhất của họ. Và vì tôi, họ có thể chỉ biểu diễn được nửa vời. Có thể họ sẽ chẳng bao giờ biết trình diễn bản nhạc này lên đến tuyệt đỉnh là như thế nào. Giờ đây tôi biết rất rõ mình đang làm gì, làm thế nào tôi có thể làm điều đó cho được kia chứ? Cái hội đồng bí mật trong đời sống riêng tư của tôi lên tiếng. Tôi nghĩ tôi là ai kia chứ?
Ngoài ra còn một điều khác lớn hơn mà tôi cũng phải nghĩ đến. Đó là chúng tôi sắp trình diễn một tác phẩm của Beethoven tại nhà hát Thế Giới, nơi vừa diễn ra nhiều vở kịch vĩ đại đã dẫn đến buổi trình diễn hôm nay. Chúng tôi sắp sửa chơi một bản nhạc gắn liền với chiến thắng vĩ đại, bản “Ngợi ca niềm vui”, khi mà những rào cản đã đổ, tự do đã đến và nhân loại chạm đến vinh quang. Tiếng nhạc cất lên từ sự phản kháng của Beethoven đối với số phận của một người bị điếc và tuổi già.
Tôi tự hỏi làm thế nào mình có thể vượt qua cái tôi của bản thân và tránh vấp váp khi chơi bản xô-nát số 9 lần này. Và đó là điều mà chúng tôi đã quảng cáo, là điều mà mọi người đã mua vé để xem và nghe. Cho đến tận giây phút cuối cùng, tôi vẫn không biết phải làm thế nào. Sao tôi lại như thế này?
Khán phòng chật kín. Một buổi tối sang trọng. Dàn nhạc và dàn hợp xướng đã phủ kín sân khấu. Ánh sáng lịm dần. Tôi chậm rãi đi lên sân khấu và bước lên bục dành cho nhạc trưởng, quay lại phía dàn nhạc để ra hiệu sẵn sàng đối với các nhạc công. Rồi tôi lặng im.
Không. Tôi không làm được.
Trong sự im lặng đã biết trước ấy, tôi quay sang khán giả và nói cho họ nghe sự vật lộn đang diễn ra trong đầu mình. Tôi nói về tiếng hò reo hoan ca lẫn sự im lặng đầy thống khổ chứa đựng trong tác phẩm.
Tôi cũng kể cho họ nghe chuyện Fulghum đã muốn trở thành một nhạc trưởng như thế nào, người mà giờ đây mới hiểu ra mình đã dấn thân vào chuyện gì. Tôi kể cho họ nghe về hình ảnh thật sự của những con người đang chơi trong dàn nhạc. Tôi nói về những chiến thắng của loài người đang diễn ra trong thời đại của chúng ta, vốn cũng tương đồng với tinh thần của bản nhạc.
– Tôi không thể không ngợi ca con người này, tác phẩm này lẫn tinh thần này. – Tôi nói.
Và tôi mời người nhạc trưởng thật sự ra sân khấu để cống hiến tài năng.
Đoạn tôi cũng quay sang dàn nhạc và đề nghị họ hãy chơi hết mình. Và khi tôi quay trở lại với khán giả, họ đã đáp lại đề nghị không nói ra của tôi bằng cách đứng dậy, hòa vào giai điệu hết mức có thể. Khắp cả khán phòng tràn ngập bầu không khí hoan ca.
Người nhạc trưởng đại tài cầm chiếc đũa của ông lên và Beethoven đưa tâm hồn của chúng tôi vào một thế giới mới.
Còn tôi, người cựu nhạc trưởng, đứng đâu khi dòng nhạc dâng trào?
Chưa bao giờ hát bài này với dàn hợp xướng, tôi nghĩ mình nên lùi lại đứng chung với họ. Thật vậy, hiểu biết của tôi về tiếng Đức cũng không nhiều hơn về bản tổng phổ. Thế thì sao bây giờ? Nếu tôi đã từng chỉ huy dàn nhạc được thì chuyện này có khó gì đâu? Và tôi đã hát.
Đó là đêm diễn thành công nhất của dàn nhạc. Những nhạc công cuối cùng cũng đã hòa quyện thành một. Ban hợp xướng và dàn bè tạo thành một âm thanh hoành tráng. Lần đầu tiên, tất cả mọi người có mặt trong khán phòng đều tin vào sức mạnh chiến thắng trở ngại của tinh thần. Beethoven đã sống lại. Và chúng tôi cũng đang sống thật sự. Không gì có thể to lớn hơn khoảnh khắc này trong cuộc đời của chúng tôi. Cuối cùng, khi khối cẩm thạch âm nhạc ấy đùng đùng lăn xuống ngọn đồi của trái tim như một trận lở đất, mọi người ồ lên tán thưởng, vỗ tay rần rần, ôm chầm lấy nhau rồi ném hoa và thậm chí là khóc.
Thật là một đêm tuyệt vời, một thế giới tuyệt vời, một cuộc sống tuyệt vời!
PHẢI, CHÍNH THẾ!