Học Phật, là học tập theo đức hạnh của Phật. Chúng ta lấy Phật làm lý tưởng, lấy Phật làm bậc thầy mô phạm, không ngừng học tập theo Ngài cho đến khi thành tựu bình đẳng như Phật, tức là đã thành Phật rồi. Phật là bậc Đại giác ngộ, Đại từ bi, công đức cùng trí tuệ viên mãn, là bậc Đại thánh rốt ráo vô thượng. Hãy nghĩ xem, từ kẻ sinh tử phàm phu ngu si phúc mỏng chướng sâu, mà tu tập để đạt đến quả Phật cao tột như vậy, quả thật hoàn toàn không hề dễ dàng. Điều này chắc chắn cần phải tu học những pháp môn cần phải tu học, tuân theo con đường chân chính để thành Phật, mới có thể từ gần mà tiến xa, từ cạn mà vào sâu, đạt đến mục tiêu thành Phật. Cho nên, người phát tâm học Phật, cần tu tập pháp môn để thành Phật, tuần tự hướng theo chính đạo để thành Phật. Pháp môn để thành Phật, là con đường chân lý, là “con đường thành Phật”. Giáo pháp vì để thích ứng với căn tính bất đồng, cho nên mới có nhiều đường: Đường phúc đức đường trí tuệ, đường khó đi đường dễ đi, đường thế gian hay đường xuất thế gian, đường Thanh văn và đường Bồ tát…Tuy nhiên, rốt ráo mà nói thì không có hai đường, tất cả các pháp môn đều quy về con đường thành Phật, đều là muốn “khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”1, cho nên nói: “Nhất đạo nhất thanh tịnh, nhất vị nhất giải thoát”; “phương tiện hữu đa môn, quy nguyên vô nhị lộ”. Như dòng sông lớn Trường Giang từ vùng đất khởi nguồn, có rất nhiều khe nhỏ, nhiều ao hồ, nhiều sông rạch, đều hội nhập với nhau cùng đổ ra biển lớn. Tất cả các pháp môn, đều là con đường đi đến thành Phật, cho nên trong A hàm kinh và Pháp hoa kinh gọi Phật pháp chính là “Đạo Nhất thừa”.
1 Diệu pháp liên hoa kinh, quyển 1 (phần lược dẫn). Đại chính tạng, quyển 9, trang 7a.
Tam bảo là tổng quát cương yếu của Phật pháp. Quy kính Tam bảo là bước đầu tiến vào cửa Phật. Công đức của Tam bảo thật là vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn, thế nên nếu như không thể quy hướng Tam bảo thì không thể đạt đến chỗ vô duyên thụ dụng. Cũng giống như khi không vào được cổng lớn của công viên, thì không thể nào ngắm nhìn được vẻ đẹp tuyệt vời của cỏ cây hoa lá trồng trong đó vậy. Bởi thế, khi phát tâm học Phật, việc đầu tiên là phải quy y Tam bảo, là lúc ta mở cửa bước chân vào ngôi nhà chính pháp của Như Lai.
Có biển lớn không bờ,
Thế gian nhiều ưu khổ,
Lưu chuyển trở về không,
Nơi nào là điểm tựa.
Quy y, phải có sự thành tâm cần cầu quay về nương tựa. Như người rơi vào trong biển lớn, phiêu dạt theo sóng xô bốn bề mênh mông bất tận. Trong lúc đang cận kề bên bờ sinh tử, chợt nhìn thấy một khúc gỗ dập dềnh trôi liền quơ tay nắm lấy, nghe tiếng chim vang trong gió bèn lớn giọng kêu cứu, trong tâm vô cùng khẩn thiết mong muốn được ai đó cứu giúp, có thể nói lúc này chỉ có một niệm duy nhất là mong muốn được sống. Lúc đó nếu như có chiếc thuyền đi ngang qua quăng cho sợi dây hoặc là cái phao cứu sinh, ngay lập tức chụp lấy mà dùng hết sức bình sinh để cố ngoi lên thuyền. Tâm thành khẩn cầu quy y Tam bảo cũng giống như người bị rơi xuống biển mong được sống sót vậy, đây mới là công đức vô cùng vi diệu của việc quy y được thành tựu viên mãn.
Hiện tại, nói ví dụ như chúng sinh lênh đênh trong biển khổ, thế gian lấy chúng sinh làm gốc, chúng sinh có sinh mạng, có tình cảm, có ý thức là sự thật tồn tại trong thế gian. Cho nên, trong kinh Phật gọi chúng sinh là “hữu tình”. Mỗi một chúng sinh, xét thấy kiếp này tiếp nối kiếp khác triền miên, vô bờ vô bến. Trước giờ chưa từng ra khỏi sự sống chết, trong tương lai cũng lại là một đời nối tiếp một đời không có điểm dừng. Sinh mạng của chúng sinh luân chuyển chẳng hề ngừng nghỉ, giống như biển lớn mênh mông không có bến bờ. Sinh mạng trong đời này, chẳng qua cũng chỉ như một con sóng nhỏ nhoi cuộn trào giữa biển lớn trùng trùng mà thôi.
Từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại tới tương lai, một đời rồi lại một đời; trong khoảng thời gian của quá trình thay đổi này, gọi là “thế gian”. Chúng sinh tại thế gian vui ít khổ nhiều, hết vui thì khổ lại đến, vì thực tại vốn là đa sầu đa khổ. Cho nên Phật nói rằng “ưu bi khổ não thuần đại khổ tập”1. Chúng sinh trong thế gian tràn đầy sầu bi và phiền não, giống như dòng xoáy thủy triều cuồn cuộn tới lui trong biển lớn, có lúc được sinh ở cõi trời, cõi người; bỗng chốc đã đọa lạc trong ba đường thống khổ: Địa ngục - ngạ quỷ - súc sinh. Lúc thăng lúc trầm, khi chìm khi nổi, chuyển đi rồi vòng lại, cuối cùng thì cũng không ra khỏi được vòng luân hồi luẩn quẩn. Lưu chuyển trong biển khổ đến sứt đầu mẻ trán như vậy, lại không thấy thật đáng bi thương hay sao? Con người cũng bị rơi rớt trong biển ấy, để mặc cho sóng biển đẩy đưa, bốn bề mênh mông, còn biết cần cầu cứu hộ. Chúng sinh lặn hụp trong khổ hải sinh tử, vì sao lại không cầu cứu giúp cho lên được bờ kia, được tự tại giải thoát, vượt qua ba cõi! Nghĩ tới chỗ này, thì cái tâm khẩn cầu quy y cứu độ do hoàn cảnh bức bách mà tự nhiên sẽ khởi lên. Tuy nhiên, nơi nào mới là chốn quy y chân thật và nơi nào là nương nhờ với tính cách dựa dẫm? Tóm lại không thể hấp tấp nắm bắt những đám bèo trôi dạt vất vưởng mà làm phao cứu sinh!
1 Tạp A hàm kinh, quyển 3. Đại chính tạng, quyển 2, trang 17b.
Tích tụ rồi tiêu tán,
Cao sang lại đọa sâu.
Hội họp ắt chia ly,
Có sinh là có tử.
Quốc gia thịnh rồi suy,
Khí giới thành phá hủy.
Thế gian điều gì vui,
Không có gì nương tựa.
Có người không biết cầu quy y, có người muốn quy y nhưng lại hiểu sai tin nhầm theo ngoại đạo tà sư. Vì sao lại không trở về quy y? Bởi lẽ tâm hồn và đôi mắt đã bị mê mờ dính mắc vào những sự tình rối ren của cuộc đời này, cho rằng ý nghĩa nhân sinh phải là sống trong sự hưởng thụ và đầy đủ phúc lạc. Cho tới khi chuyện đổ ập tận đầu, mới tỉnh ra trong giấc mộng tiền tài và sắc đẹp, thì dù có bi ai thất vọng đến thế nào cũng chẳng còn kịp nữa. Mê đắm và tham luyến thì có rất nhiều loại, nhưng chủ yếu có sáu thứ như sau:
1. Tích lũy tiền bạc: Có người cho rằng kinh tế là số một, có tiền rồi thì làm gì chẳng được, thậm chí còn nói rằng “có tiền là có thể sai khiến được cả quỷ thần”. Không biết rằng việc tích trữ tiền bạc làm giàu đến một lúc nào đó, ắt sinh sự tiêu tán xảy ra. Không nên nghĩ rằng chuyện đó sẽ chẳng đến với mình mà tiêu xài hoang phí. Tiền tài vật chất, là thứ con người ta không thể tự chủ, cho nên Đức Phật nói: “Của trong năm nhà”1: gặp lũ lớn cuốn trôi, gặp hỏa hoạn thiêu rụi, gặp bọn trộm cướp, bị vua chúa tịch thu, và thứ năm là sinh phải đứa con nghịch tử bất hiếu phá hoại tài sản gia đình; thoáng trong nháy mắt thì tài sản đã sạch không rồi. Tích lũy tiền tài đâu chỉ duy trì công việc làm ăn, mà lắm khi tiền bạc lại là nguyên nhân trực tiếp gây ra ưu sầu và dẫn đến muôn vàn khổ đau. Cuối đời nhà Minh có một người tên là Lý Sấm đến Bắc Kinh, muốn được làm một viên quan đại thần giàu có, nên cố làm việc bán sống bán chết để kiếm tiền; cuối cùng thì tiền hết, vỡ đầu, chân cũng bị gãy luôn, ngay cả đến tính mạng cũng chẳng còn. Đây chính là những ví dụ mà Đức Phật đã nói về việc không may gặp phải trộm cướp và vua ác. Bản thân dù đã giàu có, nhưng lại kéo theo nhiều lo nghĩ là phải tìm phương cách nào để giữ vững sự giàu có một cách chắc chắn, vậy thì có còn nói rằng có tiền là có cách giải quyết nữa hay không?
1 Đại trí độ luận, quyển 11. Đại chính tạng, quyển 25, trang 142b.
2. Truy cầu danh vọng địa vị: Đây là sự đam mê đắm chấp thông thường. Lúc còn đương chức thì hô gió gọi mây, đắc ý vung tay, tự phụ cho rằng có được tất cả như vậy là nhờ khí khái của ta. Tuy nhiên, ở đời có danh vọng cao sang thì tất nhiên sẽ có lúc sa cơ chịu cảnh nghèo nàn, đọa lạc. Trong truyện ký Phật giáo có ghi lại câu chuyện vua Đỉnh Sinh thống nhất bốn châu, lên cung trời Đao lợi, cùng vua Đế Thích trị vì thiên cung, nhưng rốt cuộc lại rớt xuống trần gian mang nhiều ưu sầu mà chết. Thế thì, dù có là ông chủ của đất trời, là cha của loài người, là Đế thiên uy vũ đến mức đó còn không thể tránh khỏi sự đọa lạc rớt vào thai lừa bụng ngựa. Như vậy, địa vị cao sang, quyền thế có thật sự chắc chắn để làm chỗ nương tựa nữa chăng?
3. Thân quyến tụ hội: Hoặc là cha mẹ và con cái, vợ cùng chồng hòa hợp xây dựng gia đình êm ấm; hoặc như thầy trò, bạn bè, đồng nghiệp trong xã hội, cùng chung chí hướng, tương trợ lẫn nhau, kết tình bằng hữu thâm giao. Con người được xem là động vật cao cấp trong xã hội, nên cần mối quan hệ thân nhân, bạn bè cùng nhau hợp tác, đây là việc vô cùng lý tưởng và an tâm. Tuy nhiên, cũng chính từ chỗ thương yêu mà trở thành oán thù đối nghịch, ở đây không tiện nói ra. Bất luận dù là thương yêu và chung sống với nhau đến thế nào, thì cuối cùng cũng sẽ phải chia xa đôi ngả. Một khi sinh ly tử biệt đến, cha mẹ cũng phải buông tay, vợ con đành vĩnh biệt, trước cuộc hành trình đơn độc thê lương đầy sợ hãi như vậy, thì ai có thể giúp ai được đây!
4. Sinh tồn: Kinh nghiệm cho chúng ta biết, đã có sinh tất nhiên phải có tử, sự thật về cái chết cũng là lẽ thường như chiếc tàu về cuối bến, nhưng buồn cười thay con người luôn nghĩ rằng dường như mình không hề chết. Còn tồn tại thì tất cả mới có ý nghĩa, thế rồi vì tranh danh đoạt lợi và mưu tính thâu tóm tất cả về mình. Để rồi, miệng thì nói muốn chết mà đối với người với công việc, thì không có chút gì là giác ngộ. “Nhân sinh không đầy trăm, thường có nghìn tuổi sầu”, đây chính là sự điên đảo về cảm giác bất tử, nhận thức mê muội về trường sinh bất lão đều do đây mà ra. Tuy nhiên, bạn đã từng nghe nói đến sự bất tử rồi chứ? Bốn câu phía trên có tên gọi là “bốn câu kệ phi thường”.
5. Quốc gia phồn vinh: Quốc gia đối với chúng ta, có thể nói là sự bảo hộ an toàn. Khi đất nước phồn vinh cường thịnh, đối với sự tự do và an lạc của nhân dân có liên hệ vô cùng mật thiết. Vì vậy có người cho rằng: Chỉ cần đất nước càng hùng mạnh thì chúng ta càng có chỗ để trông cậy. Thế nhưng, sự hưng thịnh của đất nước đôi khi cũng không nhất định cùng hoàn cảnh với sự an lạc của gia đình mình. Không chỉ là các đảng phái quay lưng với nhau trên vũ đài chính trị, và thật bất an khi tiêu chuẩn trung thành với đất nước bị phủ nhận. Thêm vào đó, đất nước có lúc hòa bình, khi thì chiến tranh loạn lạc biến đổi không ngừng. Nhìn vào lịch sử thế giới có thể chứng minh điều đấy một cách rõ ràng. Cho nên lấy quốc gia làm chỗ dựa duy nhất, thật sự là không lâu bền, và cũng đầy rẫy nỗi bất an.
6. Xã hội tiến bộ: Có người cho rằng con người là động vật mang tính xã hội, sự văn minh, tiến bộ của xã hội thì luôn từng bước đi lên, đây chính là ý nghĩa chân chính của cuộc sống con người, thế nên cần gì phải tìm cầu quy y với cõi hư không nào nữa? Đây chính là biên kiến chỉ nhìn thấy quần thể mà không nhìn thấy cá nhân! Sự tiến bộ về văn hóa xã hội, thoáng nhìn thì thấy ý nghĩa chân chính của cuộc đời, nhưng hoạt động của con người trong xã hội đều dựa vào trái đất, không có cách nào rời khỏi điểm tựa này. Nhưng quả địa cầu của chúng ta cũng phải chịu quy luật hình thành rồi hoại diệt, khi hoại mất rồi thì lại hình thành. Hãy nghĩ xem như khi địa cầu này hư hoại rồi thì nền văn minh nhân loại, ý nghĩa chân thật của nhân sinh sẽ về đâu, thế cho nên nếu lấy sự tiến bộ của xã hội làm ý nghĩa cuộc sống thì chính là điều hư không huyễn ảo vậy.
Nói tóm lại, thường thì con người rất khó phát khởi nhiệt tâm cần cầu quy y, là vì đang còn bị những danh lợi tạm thời trước mắt mê hoặc, con người đắm trong dục lạc, sống trong sai lầm giữa thế gian. Theo lý luận nghiên cứu từ trong kinh điển, đã chứng minh tất cả đều là vô thường và không có gì là niềm vui vĩnh cửu, thế thì nơi nào là điểm tựa để cho ta trở về nương náu?
Quỷ thần quá hung ác,
Trời dục đắm các mê.
Độc Phạm đầy kiêu mạn,
Thật chẳng chỗ nương về.
Có rất nhiều người muốn tìm được một chỗ dựa tâm linh cho đời mình, nhưng khổ nỗi lại lầm đường lạc lối theo ngoại đạo tà giáo. Việc tìm sai đối tượng để quy y, không chỉ dựa dẫm vào nó, mà còn xem tà đạo là phương pháp căn cốt có tác dụng đối với họ, thật sự thì không tự nhiên để sinh cái tâm cảnh này mà bởi do chịu sự tập nhiễm. Cho nên, chuyện này không thể không cẩn thận vậy. Quy y với tôn giáo nào đây? Thật là muôn hình muôn vẻ, ở đây chỉ xin lược nói qua ba loại thôi, từ trong những khuyết điểm để nói rõ những tôn giáo đó không phải là đối tượng chân chính để ta quay về nương tựa.
1. Quỷ thần: Theo quan niệm của người phương Đông thì có thần tài với thổ địa… Người chết có thể thành ma quỷ, nhưng người có nhiều công đức, khi chết lại thành thần. Nên có các vị thần như: thần gió, thần mưa, thần núi, thần sông, thần thổ địa, thần ngũ cốc… sơn tinh mộc quái, yêu ma quỷ vật; trong Dị kinh có nói: “Tinh khí lại trở thành yêu tinh (tức quỷ), du hồn (chỉ cô hồn người chết không có người cúng tế)”1. Theo kinh Phật nói: Quỷ là quỷ đói, thần là những vị Tứ đại thiên vương thống nhiếp cõi trời, còn có dạ xoa, la sát, na già (rồng), ma hầu la già (rắn thần), ca lầu la (chim cánh vàng) v.v. Hoặc là đại lực quỷ vương, hoặc là súc sinh cao cấp. Còn có những loại ma quỷ theo sự truyền bá của Cơ Đốc giáo (rồng lớn, rắn), linh hồn quỷ, thiên sứ bay đi với đôi cánh v.v. Những loài quỷ thần này chắc chắn là có một ít công đức, có chút thần lực, cũng có sự hướng thiện mà phục vụ những tầng trời cao cấp. Trong trường hợp, ít nhiều cũng có sự giúp đỡ cho con người, cho nên nhận được sự sùng bái của họ như: Cầu xin được ban phúc, khẩn cầu xua đuổi tà ma ác quỷ xin đừng gây tai họa cho con người. Tuy nhiên những loại quỷ thần này vẫn còn đầy rẫy phiền não, đức tính của họ có khi lại không bằng cả loài người, đặc biệt là bản tính sân si oán giận hung ác vô cùng, chỉ thích làm tổn hại. Họ muốn con người phải cúng tế máu thịt hôi tanh, thậm chí còn muốn phải hy sinh cả tính mạng cho họ, họ mới chịu. Nếu như con người mà không cung kính cúng bái, hoặc mạo phạm đến họ, thì họ sẽ sát hại tàn khốc để trả thù như những trận cuồng phong, mưa bão, mưa đá, dịch bệnh, động đất, sóng thần v.v. Cũng giống như những thế lực độc ác, xã hội đen trong cuộc sống này vậy, khi bạn gặp chuyện không may, họ sẽ tận tình, hào phóng giúp bạn giải quyết khó khăn, thế nhưng bạn đừng làm gì đắc tội với họ, hoặc là họ lôi kéo bạn gia nhập vào băng nhóm tội ác của họ. Trước đây, có Pháp sư Đại Dũng ở Bắc Bình muốn đi Tây Tạng học Mật tông, dựa theo quy định của họ, Pháp sư phải mời được một vị thần hộ pháp, nghe nói thế liền có con Hồ tiên (cáo tu thành tiên) ở chùa Quảng Tế theo bảo vệ. Nhưng khi Hồ tiên này đến hộ pháp rồi lại phản đối Pháp sư Đại Dũng đi Tây Tạng học pháp Mật tông, nếu Ngài đi thì nó sẽ theo quấy phá. Thật sự lúc đó muốn đi cũng không dễ, phải mất rất nhiều thời gian và sức lực mới đuổi được nó. Tục ngữ nói: “Dẫn sói vào phòng”, “dẫn quỷ vào cửa”. Người nào sùng bái quỷ thần, một khi đắc tội với họ thì bị họ làm cho tán gia bại sản, quyến thuộc chia lìa, đây thật sự là chuyện khổ sở! Khổng Tử luôn là người thầy lớn của nhân loại, ông ấy nói: “Kính quỷ thần, nhưng cách xa họ”2, không để thất lễ là một giải pháp sáng suốt!
1 Chu dịch - Hệ từ thượng.
2 Luận ngữ - Ung dã.
2. Cõi trời dục: Dục là năm loại dục về vật chất: sắc, thanh, hương, vị, xúc, rất vi diệu; dục tính giữa nam nữ. Trời là tư tưởng quang minh, tức trời đồng đẳng với thiên đế. Trong ba cảnh giới này, Dục giới có tất cả sáu tầng trời, thấp nhất thì có Tứ đại vương chúng thiên thống nhiếp tám bộ quỷ thần, lên cao nữa là: Trời Đao lợi, trời Dạ ma, trời Đâu suất, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại. Sáu cõi trời này đều có vật chất và sự hưởng thụ dục lạc, có sự dâm dục giữa nam nữ nên gọi là trời Dục giới. Trong cõi trời dục có mối quan hệ với con người là thân thiết nhất, cần nói đến trời Đế thích, trời Đao lợi thiên vương Thích đề hoàn nhân. Họ yêu chuộng hòa bình, tôn trọng đạo đức, hy vọng nhân loại tiến bộ. Tuy là thống trị thiên quốc thỉnh thoảng cũng có xảy ra chiến tranh, nhưng lại khoan dung và tha thứ cho kẻ thù, chủ trương không sát sinh. Trở thành đại đế của vương quốc đa thần, thông qua quỷ thần mà thống trị nhân gian. Thiên nữ vây quanh, rất gần với Ngọc hoàng thượng đế trong truyền thuyết của Trung Hoa. Nếu so với quỷ thần thì cõi trời dục đương nhiên là cao thượng hơn nhiều, chỉ khiếm khuyết ở chỗ còn nhiều luyến ái dục lạc, đam mê và chấp trước.
Trong sự hưởng thụ vật chất và ái dục, không tránh khỏi sự sa đọa phóng đãng, chìm đắm trong cuộc sống mục nát, mà đời sống tinh thần trí tuệ và đạo đức lại không chấp nhận lối sống truỵ lạc như vậy. Trước kia, Đế Thích đã từng thỉnh mời Đức Phật thuyết pháp, nhưng bẵng đi một thời gian sau, ngay cả những lời Đức Phật đã nói gì, ông ta cũng không còn nhớ. “Dục là nguồn gốc của khổ”1. Những vị trời này vì hưởng thụ dục lạc mà dễ dàng thoái đọa, ngay cả đến bản thân họ còn chẳng tự bảo vệ được mình, thì quy y với họ có ích lợi gì chứ!
1 Nguyên nhân có các khổ, tham dục là cội gốc. Nếu dứt được tham dục, khổ không còn chỗ nương (Pháp hoa kinh, phẩm Thí dụ).
3. Độc phạm: Trên tầng trời Dục giới gọi là trời Sắc giới, trời Sắc giới phân ra Tứ thiền, Sơ thiền lại chia ra ba trời gồm có: trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Đại phạm. “Phạm” có nghĩa là thanh tịnh, ý nghĩa gần với sự Thánh khiết. Trời Phạm chúng như là dân chúng, trời Phạm phụ như các quan lại, trời Đại phạm như vị đế vương có một không hai, nên mới gọi là Độc phạm. Phạm thiên là vô cùng thanh tịnh, không có dâm dục, cũng không có sự tham luyến vật dục của thế gian. Về phương diện đức hạnh thì có tinh thần từ bi, bác ái vô cùng cao thượng. Đây là sự phổ biến trong tôn giáo, nhưng chỉ là một số nổi bật mà thôi! Theo Phật thuyết kinh: Đại Phạm thiên xuất hiện thì vẫn chưa có thần dân, cõi Dục giới như quả địa cầu này và một số hành tinh vẫn chưa có. Đại Phạm thiên muốn có trời đất thì Dục giới cũng dần hình thành. Muốn có con người thì con người cũng sinh ra đúng lúc, do vậy mà Đại Phạm thiên tự cao ngã mạn, không tránh khỏi dẫn đến những tri kiến ngông cuồng, cho rằng trời đất là do ông ta tạo ra, con người cũng do ông ấy làm ra. Ông ta sống khoảng thời gian lâu hơn một kiếp rưỡi, bèn tuyên bố với thần dân của ông ta rằng: Ta là thường trụ bất biến, không có khởi đầu mà cũng không có kết thúc. Đại Phạm thiên của Ấn Độ với kinh Thánh Sáng thế ký có sự tương hợp. Phạm Thiên có tịnh hạnh là khắc chế sự ham muốn tình dục như thế tục, với tinh thần từ ái cũng đủ để xưng tán ông ta. Đáng tiếc là ông ta ngông cuồng và ngạo mạn, xem tất cả vũ trụ là do mình tạo ra, không hề tin rằng cái độc tài lớn của bản thân ấy lại bị diệt vong. Sự tà độc của nhất thần giáo lan tràn trên thế giới, là nguồn gốc sâu thẳm của những tội ác. Thử nghĩ, nếu là một tên ngông cuồng hoặc tăng thượng mạn cứ lưu chuyển trong biển khổ sinh tử như Đại Phạm thiên, thì dựa vào đâu để nói rằng mình sáng tạo tất cả, dựa vào đâu mà nói là thường trụ bất biến không có khởi đầu và không có kết thúc?
Phạm thiên trở lên còn có hai, ba, bốn tầng trời thiền, trên nữa còn có trời Vô sắc giới. Nhưng với người thường thì không thể nào tiếp xúc được, chỉ có một số rất ít người có niềm tin và thực hành theo; vì không thể hình thành một niềm tin tôn giáo chung cho xã hội, vậy nên cũng không cần nói. Những tôn giáo thông thường không loại trừ quỷ thần như đại thần của đa thần giáo, nhất thần giáo như đã nói ở trên đều không thoát khỏi phiền não; đã không ra khỏi sinh tử, thì làm sao có thể cứu độ chúng sinh vượt ra ngoài khổ não. Cho nên nói đó cũng không phải là nơi để quay về nương tựa.
Khắp nơi muốn quay về,
Mười phương nguyện quy y.
Chốn tựa nương cứu cánh,
Tam bảo là tối thượng.
Chúng ta cảm nhận được sự bức khổ của sinh tử bủa vây, ai cũng muốn tìm cho mình một chỗ nương tựa an ổn lâu dài. Để rồi, đi tìm mọi nơi khắp chốn không ngừng nghỉ, bốn phương trên dưới gì cũng tìm qua rồi; nhưng đó chỉ là một số quỷ thần, đại thần của vương quốc của quỷ thần, thần sáng tạo v.v. đều không phải là chỗ quay về nương tựa chân chính.
Bây giờ mới hiểu rằng, nơi trở về nương tựa rốt ráo và chân chính nhất duy chỉ có Tam bảo trong Phật giáo. Ba ngôi báu: Phật, Pháp và Tăng, đều vô cùng hy hữu rất khó gặp, giá trị không gì bằng, diệu dụng không thể diễn tả hết, nên mới gọi là quý báu. Quy y Tam bảo sẽ giúp chúng ta chuyển xấu thành tốt, chuyển khó thành dễ, xa rời nghiệp ác mà trở nên hướng thiện, biến hắc ám thành quang minh, rời đau khổ được an lạc miên viễn. Tất cả những chuyện này đều là việc tốt đẹp, đều có thể thành tựu, cho nên mới nói quy y Tam bảo là điều tốt lành nhất.
Tất cả đều không nên nương tựa, duy chỉ có Tam bảo là nơi đáng quay về quy y, đây không phải nói để tâng bốc hay hạ thấp, mà là kết luận được đúc kết ra bởi lý do từ sự thật về hai phương diện. Sự thật là: Sau khi Đức Thích Ca thành Phật không lâu, thần sáng tạo Phạm thiên vương từ trên cung trời xuống khẩn cầu Như Lai thuyết pháp, vì ông ta cảm thấy bản thân bất lực và hết cách để dạy dỗ con gái của mình rồi. Đức Phật Thích Ca đã đáp lại lời cầu xin của Phạm thiên nên bắt đầu chuyển bánh xe pháp cứu độ chúng sinh. Phạm thiên vương cũng trở thành đệ tử của Phật và tu tập đạt được thánh quả ly dục. Còn trong đời quá khứ, trời Đế Thích gần với Ngọc Hoàng thượng đế, biết được mình sẽ chết, điều bất hạnh là sau khi chết sẽ bị đầu thai vào trong bụng heo. Điều này khiến cho ông ta ưu sầu ảo não, đi thỉnh cầu Đại Phạm Thiên Vương và Đại tự tại thiên v.v. hãy nghĩ cách giúp mình. Thậm chí, ông ta còn lên núi xuống biển tìm khắp trời Nam đất Bắc, sau cùng lại đi tham vấn với quỷ thần, Tiên nhân ngoại đạo, kết quả đều phí công vô ích. Cuối cùng, ông ta đến gặp Đức Phật, nghe Ngài thuyết pháp, lúc này ông ta nhờ dốc lòng quy y Tam bảo mà khỏi bị đầu thai vào trong bụng lợn và được tái sinh lại thiên quốc. Đại thần của đa thần giáo và thần sáng tạo của nhất thần giáo đều không thể không quy y với Phật. “Khắp nơi muốn quay về, mười phương nguyện quy y”, chính là bản thân trời Đế Thích đã trải qua. Với lý do này, về sau sẽ phân tích và tán thán công đức của Tam bảo, nói rõ công đức rốt ráo của Phật - Pháp - Tăng. Cho nên, đây mới chính là nơi quay về nương tựa chân thật thiện lành của chúng sinh.
Lấy chính pháp làm thân,
Tịnh tuệ làm mạng sống.
Trí nguyệt sáng trời thu,
Lễ Phật Lưỡng túc tôn.
Trước nhất tán thán về công đức của Phật. “Phật” là Phạn ngữ, nghĩa là bậc giác ngộ, những gì Đức Phật đã chứng ngộ được gọi là “Chính pháp”, còn gọi là “Diệu pháp”. Pháp là quy phạm, là khuôn mẫu, không thay đổi cũng không mất đi. Cho nên chính pháp là trung chính chứ không nghiêng theo tà giáo, thể hiện chân lý vi diệu chứ không đơn giản, là chân lý tuyệt đối mang tính vĩnh cửu và phổ quát. Đã giác ngộ chân lý một cách viên mãn mới được gọi là Phật, bởi vì Phật là lấy chính pháp làm thân nên gọi là Pháp thân, cũng chính là sự hiển hiện cụ thể về chân lý tuyệt đối.
Đức Phật vì sao có thể chứng ngộ viên mãn? Bởi vì Phật có được trí tuệ thanh tịnh vô lậu, lìa tất cả phiền não nhiễm ô. Trí tuệ của Phật là thanh tịnh bậc nhất, chính pháp Phật giác ngộ được cũng là thanh tịnh không gì sánh, cho nên gọi là “Tối thanh tịnh pháp giới” (pháp giới tức Pháp thân)1. Chính pháp là vô trụ mà bất tại, lúc mê không suy giảm mà khi giác ngộ rồi cũng chẳng tăng thêm. Có trí tuệ thanh tịnh mới có khả năng chứng ngộ được chính pháp, cho nên nói Phật lấy trí tuệ thanh tịnh làm mạng, còn gọi là Tuệ mạng.
1 Nhiếp Đại thừa luận bản, quyển thượng. Đại chính tạng, quyển 31, trang 136c.
Sự thống nhất giữa “Pháp thân” và “Tuệ mạng” thì gọi là Phật. Như lấy một ví dụ để nói: Trí tuệ của Phật được ví như vầng trăng sáng; sự thể chứng chính pháp tịnh tuệ giống như ánh trăng tròn đầy viên mãn trong trời thu rất đẹp. Ánh trăng lộ trên bầu trời trong vắt không một gợn mây mù, làm thanh mát khắp cả hư không. Đây chính là trí Phật thanh tịnh giác chiếu, triệt để chứng ngộ chính pháp, chính pháp cũng mãi mãi hiển hiện trong trí tuệ thanh tịnh. Trong kinh có nói: “Trăng Bồ tát thanh lương, chiếu sáng tận chân trời”1, Bồ tát còn như thế, huống chi là Phật!
Pháp thân và tuệ mạng, đạt đến triệt để viên mãn, xứng đáng được chúng sinh quy y kính ngưỡng. Lễ chính là thành kính đỉnh lễ, như lễ bái hỏi thăm là thân lễ, tán thán công đức là ngữ lễ, kiền thành tín tâm cung kính là ý lễ. Dùng ba nghiệp kính lễ như vậy, mới biểu hiện sự tín tâm quy y của chúng ta đối với Phật. Lưỡng túc tôn2 là tán thán Đức Phật, có hai cách giải thích:
1 Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh, quyển 43. Đại chính tạng, quyển 9, trang 670 c.
2 Tức là được tôn kính nhất trong loài hai chân (chỉ con người).
1. Lưỡng túc là chỉ con người, mà Phật là bậc được tôn kính nhất trong nhân loại, nên gọi là Lưỡng túc tôn. Như kinh nói: “Chính giác Lưỡng túc tôn, sinh mã tứ túc thắng”1.
1 Tạp A hàm kinh, quyển 36. Đại chính tạng, quyển 2, trang 23c.
2. Lưỡng túc là phúc đức và trí tuệ tròn đầy viên mãn. Phúc đức vô lượng và trí tuệ vô thượng, không chỉ Đức Phật mới có mà chư vị Bồ tát đều như vậy. Nhưng trong tất cả những vị Thánh có phúc đức và trí tuệ vĩ đại như vậy, thì Phật là bậc được tôn kính nhất, nên gọi là Lưỡng túc tôn.
Tam thế Phật vô lượng,
Mười phương Phật cũng thế.
Bi nguyện vào cõi trược,
Lễ Phật Thích Ca Văn.
Phật là danh từ thường dùng để tôn xưng bậc Đại Giác ngộ, ai có thể chứng ngộ một cách viên mãn được chính pháp, người đó được gọi là Phật, cho nên người phát tâm học Phật càng nhiều bao nhiêu, thì sau này chư vị thành Phật cũng sẽ nhiều bấy nhiêu. Từ góc độ thời gian mà nói: Phật xuất hiện trong ba đời: quá khứ, hiện tại, và vị lai, là vô lượng. Hiện tại là Phật Thích Ca Mâu Ni; tìm về quá khứ có Phật Ca Diếp, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phật Thi Khí, Phật Tỳ Bà Thi v.v.; tương lai có Phật Di Lặc, Phật Lâu Chí, v.v. Chư Phật trong quá khứ nhiều vô lượng vô số, Phật trong tương lai cũng nhiều như vậy. Trên phương diện không gian: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên và dưới; mười phương chư Phật cũng như vậy. Mười phương thế giới vô lượng, Phật cũng vô lượng, như phương Đông hiện có Phật Bất Động, Phật Dược Sư; phương Tây có Phật A Di Đà v.v. Quy y Tam bảo để học Phật, nên quy kính tất cả chư vị Phật trong mười phương ba đời.
Tuy nhiên, đối với chúng ta trong thế giới này mà nói, có một vị Thầy mà chúng ta đặc biệt tôn kính đó chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài khi còn tu Bồ tát hạnh, có tâm đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn, có đại nguyện đại lực nhẫn chịu được mọi nỗi thống khổ và đau thương, không chịu vãng sinh Tịnh độ, mà phát nguyện ở tại cõi hồng trần này tu hành thành Phật. Vì chúng sinh trong cõi này biển khổ vô bờ, nên sự cần cứu bức thiết đến cao độ! “Ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục”, là tinh thần thực tiễn vĩ đại do Đức Phật Thích Ca hành đạo viên mãn mà có. Ngài đến cõi “năm trược ác thế” này gian nan thành Phật là vì cứu độ chúng sinh, không bỏ rơi một ai trong chúng ta giữa cõi đời nhiều đau khổ này. Hơn 2500 năm về trước, Thái tử Tất Đạt Đa đản sinh tại xứ sở Ấn Độ, trải qua quá trình xuất gia tu hành mà giác ngộ thành Phật. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta sống trong thế giới u ám đầy rẫy tội lỗi này, mà có được ánh sáng quang minh của Phật pháp do chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa, đối với chúng ta thật là ân đức vô cùng! Sự vĩ đại của Phật Thích Ca, không chỉ chúng ta tôn kính tán thán, mà tất cả chư Phật trong mười phương cũng ở quốc độ của mình đồng thanh ca ngợi Ngài! Như trong kinh có nói: “Các Đức Phật kia đều ca ngợi Ta bất khả tư nghị công đức”1. Cho nên, chúng ta sau khi quy kính mười phương ba đời chư Phật xong rồi, nên đặc biệt kính lễ Phật Bản Sư Thích Ca Văn. Thích Ca Văn là một cách dịch khác của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ở đây tựa như quy y Tăng là quy y với tất cả quý tôn đức Tăng, nhưng đối với vị thầy làm lễ quy y cho mình thì có nhiều ân đức.
1 Phật thuyết A Di Đà kinh. Đại chính tạng, quyển 12, trang 348a.
Bi trí thật tròn đầy,
Dứt trừ bao nghiệp chướng.
Ba đức thường cứu cánh,
Phương tiện dùng sai biệt.
Theo các vị Thánh giả ngày xưa khi ca ngợi Phật, thường lấy ba đức khen ngợi đó là trí tuệ Phật đạt đến cứu cánh viên mãn. Không chỉ hiểu thấu bản tính của tất cả các pháp, mà còn thấu triệt được đặc tính của chư pháp như: hình thái, tác dụng với các mối quan hệ v.v. Hiểu rõ hiện tại, quá khứ cho đến tương lai. Từ rất nhiều phương diện mà liễu tri chân tướng của vạn pháp, cho nên gọi là Nhất thiết chủng trí. Chúng sinh thống khổ không thể giải quyết là do sự ngu muội dẫn dắt. Trí tuệ của Phật viên mãn tròn đầy, cho nên không chỉ giải thoát cho mình mà còn dùng vô lượng phương tiện thiện xảo để khéo đưa chúng sinh ra khỏi đầm lầy sinh tử. Đây chính là khen ngợi trí tuệ viên mãn của Phật.
Tâm đại bi cứu khổ của Phật không chỉ dành cho một người, một việc, một dân tộc, một khu vực, hay một thế giới, mà trải khắp tất cả thế giới, hết thảy chúng sinh, tâm phát nơi tất cả khổ nạn. Đại bi tâm vô cùng sâu sắc, không đâu không dùng tới, như đại bi đại nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Địa Tạng v.v. vậy thì huống chi là tâm Phật! Đây chính là khen ngợi ân đức viên mãn của Đức Như Lai. Có khi trí tuệ cao mà tâm từ bi không sâu, có khi coi trọng tâm từ mà xem nhẹ trí tuệ, có khi từ bi và trí tuệ được cân bằng như nhau; nhưng vì phiền não tạp nhiễm trong tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh, cho nên không thể đạt đến cứu cánh. Chỉ có Như Lai là đã cắt đứt tất cả phiền não chướng, bao gồm lý chướng và sự chướng, thậm chí đến cả những tập khí vi tế cũng không còn. Đây chính là ca ngợi về công đức đoạn lìa phiền não của Phật. Thế nào gọi là tập khí còn sót lại? Vì từ vô thỉ kiếp đến nay, những tập quán đã tích lũy thành phiền não lâu đời; đến như A la hán đệ tử Phật đã đoạn lìa phiền não nhưng vẫn còn một chút tàn dư tập khí cho nên có vị trách mắng người khác (vì tập quán trách mắng tự nhiên tiềm ẩn vi tế bên trong), có vị nhảy múa, và cũng có vị lại cố chấp vào ý kiến của mình v.v. Duy chỉ có Phật mới đoạn trừ tất cả phiền não tập khí, đây mới thật sự là thanh tịnh trọn vẹn, Thánh khiết vô nhiễm! Tín đồ Ky Tô giáo thường nói Chúa trời là thánh thiện nhất, nhưng thật ra ông ấy đụng một cái là sân hận ngập trời, giết người vô số, thậm chí còn dùng đại hồng thủy để nhấn chìm địa cầu, gần như diệt chủng nhân loại và muôn loài. Ngông cuồng ngạo mạn hung ác đến cả ruộng đất, vậy mà nói là Thánh khiết hay sao? Chúng ta tin tưởng quy y Phật không phải là mê tín, cũng không phải vì là cùng với Phật có mối quan hệ bà con thân thuộc. Trong tín đồ Phật giáo, ai viên mãn được tất cả công đức thì chúng ta tin tưởng quy kính người ấy. Chỉ có Phật là chân thật có đầy đủ tất cả công đức bất hoại, cho nên chúng ta cần quy y với Ngài, không quy y với thiên thần ngoại đạo.
Ba đức là trí đức, ân đức và đoạn đức, tất cả đều bình đẳng, đều cứu cánh viên mãn. Không thể nói do Phật này có nguyện lực lớn, Phật kia nguyện lực lại nhỏ; hoặc nói Phật kia có trí tuệ và thần lực cao hơn, Phật này sao lại thấp như vậy! Bởi vì nếu như giữa Phật với Phật có lớn nhỏ, có khác biệt, thì không hề viên mãn, đã không viên mãn thì chẳng thể gọi là Phật được. Cho nên, Phật với Phật là đạo đồng, Phật với Phật là bình đẳng nhất như. Nhưng từ kinh điển mà thấy thì sắc thân Phật có lớn nhỏ, thọ mệnh có dài ngắn, quốc độ có sạch nhơ, đệ tử có nhiều ít, chính pháp trụ thế cũng không giống nhau. Cần nên biết, đây chính là Phật vì phương tiện thị hiện ra mà thôi, vì thích ứng với căn cơ của chúng sinh nên mới có rất nhiều sự khác biệt trong giáo pháp. Không phải là công đức chân thật của chư Phật bất đồng, xin đừng vọng tâm phân biệt vậy. Trên đây là sự tán thán công đức quý báu của Phật.
Gò giếng không làng xóm,
Chốn xưa chẳng người qua.
Bờ kia rừng suối nhạc,
Lễ pháp Ly dục tôn.
Đây là ca ngợi công đức của Pháp bảo. Câu kệ trên chứa đựng hai thí dụ, cần phân biệt và giải thuyết. “Gò giếng” là chỉ cái giếng khô, có người bộ hành nơi hoang dã, sơ ý nhất thời mà bị rơi xuống giếng, may thay lại với tay chụp được một sợi dây mây khô trong giếng, nên không bị rớt xuống. Dưới đáy giếng có bốn con rắn độc đang há miệng chờ chực cắn. Rồi lại có một con chuột đang gặm nhấm sợi dây mây mà anh ta đang bám, không biết sợi mây này sẽ bị đứt bất cứ lúc nào. Trong hoàn cảnh nguy hiểm như vậy, ngẩng đầu lên nhìn thấy tổ ong mật, anh ta bèn thè lưỡi liếm những giọt mật ngọt từ tổ ong mà quên đi tất cả hiểm nguy, ngay cả khi đàn ong bay đến đốt vào người thì anh ta cũng không thèm để ý đến, tâm hồn còn đang mải say mê thưởng thức hương vị ngọt ngào của mật. Câu chuyện muốn nói nên: Chúng sinh sống chết nơi hoang dã là do nghiệp lực mà chiêu cảm thân ngũ ấm. Sợi dây mây là chỉ cho sinh mệnh, con chuột đang gặm nhấm sợi dây là dụ cho sự tàn phá hủy hoại của quy luật vô thường, từng hơi thở qua đi là mạng sống của chúng ta bị ngắn dần, bị cắt dần. Bất luận là cái giếng khô, sợi mây khô, con chuột gặm, đều là ví dụ để nói đến sự bức bách của vô thường, cho nên gọi là “chết khô”. Bốn con rắn chỉ cho bốn đại1, bốn đại này khi không điều hòa, thì cơ thể tất sinh ra bệnh mà chết, ví như bị rắn độc cắn nhiễm nọc độc mà chết. Mấy giọt mật ong rớt xuống miệng ví như chút khoái lạc của ngũ dục. Con người sống trong sự bức bách của sinh tử vô thường, hưởng thụ một ít dục lạc liền quên mất sự đeo chích của đàn ong cũng ví như quả khổ của ngũ dục mang đến, thế nào đi nữa cũng chẳng thèm quan tâm. Cái khổ sinh tử sâu đậm như thế đều không thể khiến cho chúng sinh cảnh giác tỉnh ngộ, thật là đã quá si mê rồi!
1 Tứ đại: Đất, nước, gió và lửa.
“Không làng xóm” là chỉ xóm làng không còn người ở, cảnh vắng tịch liêu cho nên nói là “tịch vô nhân”. Ví như có người muốn thoát khỏi sự trừng phạt của nhà vua, trên đường chạy trốn qua một xóm làng thì trời đã tối, anh ta muốn nghỉ lại một đêm rồi sáng mai đi tiếp. Bỗng nhiên nghe tiếng nói của thiên nhân: Đi mau! Đây là khu vực của bọn trộm cướp, nếu như không may gặp phải chúng, chỉ e sẽ tán thân mất mạng như chơi! Đây được ví dụ như: Có người muốn thoát khỏi sự khống chế của ma vương, tu học Phật pháp, mà tại sáu căn đã thất bại rồi. “Không thôn” ví như sáu căn, do sáu căn thấy và nghe mà biết được, thông thường đều cho rằng bên trong có “tự ngã”, mà sự thật là không hề có tự ngã (vô nhân) khả đắc. Sáu căn của “vô ngã” này tiếp xúc với cảnh giới sáu trần mà phát sinh ra sáu thức, như kẻ trộm. Sáu thức đi qua sáu căn, chuyện không nên tham lại khởi lòng tham, chuyện không nên sân mà sinh tâm sân hận, thật nhiều phiền não khiến tiêu tan công đức pháp tài, có khi vì vậy mà bị đọa lạc vào ác đạo. Cho nên, muốn ra khỏi sự thống trị của ma vương trong ba cõi, người tu học Phật pháp cần không để cho sáu căn nó lừa gạt, mà hãy tiến về phía trước cho đến khi nào đạt đến cảnh giới an toàn mới thôi.
Phía trên vừa nói đến sự lánh nạn, rời khỏi những nơi chốn mà bọn trộm cướp qua lại khống chế, phải luôn tiến về phía trước để đến được vùng đất yên bình, như người bị dòng sông lớn ngăn chặn đường, mà phía sau lại có người đang đuổi bắt gấp gáp. Lúc đó, anh ta nhìn thấy bờ bên kia của con sông, nơi đó không phải là lãnh thổ của nhà vua nữa, và nơi đó có công viên thật đẹp, cây cối xanh tươi, trên suối nguồn róc rách cùng chim hót líu lo với ngàn hoa khoe sắc thắm, thật vô cùng thanh bình và an lạc. Lúc này anh ta liền không thèm để ý đến bất cứ thứ gì mà gắng sức lội qua con sông lớn này, đây chính là gắng sức thoát khỏi sự khủng bố của sinh tử, và thật sự được nghỉ ngơi rồi. Thí dụ này muốn nói: Người học Phật pháp, đừng để tâm thức dẫn dắt bởi những cảm xúc cuồng loạn mê hoặc từ sáu căn, phải vượt qua dòng sông lớn sinh tử mới ra khỏi vùng đất của ma vương, đến được bờ bên kia chính là Niết bàn giải thoát, mới thụ hưởng được pháp lạc vi diệu của sự bất sinh bất diệt, mà đạt đến cảnh giới được an nhiên vĩnh cửu.
Phía trên đã trình bày các hành vô thường, các pháp vô ngã, nói đến Niết bàn tịch diệt, đây là Ba pháp ấn, là ba chân lý lớn của Phật pháp. Mà Niết bàn lại thông qua “vô thường” với “vô ngã” để thực hiện được, là nơi quay về trú ngụ của tất cả các bậc Thánh, cho nên chúng ta cần phải quy y và lễ kính Pháp bảo. Như hàng phàm phu tu tập thiền định cũng có thể xa rời được một phần phiền não của dục vọng, nhưng hàng Thánh giả Tam thừa1 đạt được Niết bàn là do trí tuệ giải thoát mà xa lìa được phiền não mãi mãi. Trong tất cả quá trình xa rời dục vọng và phiền não, thì Niết bàn là cảnh giới cao quý nhất, cho nên được gọi là “Ly dục tôn”.
1 Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát.
Diệu pháp khó nghĩ bàn,
Thiện tịnh thường an lạc.
Theo Tiên đạo thuở xưa,
Có thể vào Niết bàn.
Niết bàn là nơi chốn mà tất cả bậc Thánh, tất cả người tu học theo Phật đều muốn quay về nương náu. Bởi vì trình độ chứng nhập không đồng nhau; Niết bàn Hữu dư y, Niết bàn Vô dư y, Niết bàn Đại bát v.v. khác nhau, thực chất Niết bàn là chính pháp. Chính pháp là cảnh giới tự chứng ngộ, vô cùng vi diệu thật khó nghĩ và khó bàn, có thể nói: “Như người uống nước, nóng lạnh tự biết”. Ngày nay dựa theo kinh luận mà phương tiện khai thị, xin nói giản lược như vậy:
1. Chính pháp là “thiện”: Đây chính là sự hoàn thiện tuyệt đối của thắng nghĩa.
2. Chính pháp là “tịnh”: Bởi vì chính pháp không bị các loại phiền não và tạp nhiễm làm cho ô nhiễm, cũng không phải Duyên khởi từ các loại phiền não và tạp nhiễm tạo nên, cho nên gọi là thanh tịnh.
3. Chính pháp là “thường”: Chính pháp có tính siêu việt thời gian, bất sinh bất diệt.
4. Chính pháp là “an lạc”: Vì không có “sinh, già, bệnh, chết”, “ưu bi khổ não”, nên đạt đến an lạc tuyệt đối. Nói tóm lại, chính pháp là bất khả tư nghị1, công đức cũng không thể nghĩ bàn.
1 Không thể suy lường và bàn luận một cách rốt ráo được (không thể nghĩ thấu và không thể nói hết).
Từ cảnh giới của trí tuệ mà nói, được gọi là chính pháp. Như từ trí tuệ mà chứng nhập được chính pháp và đạt được sự tự tại chân thật, đó gọi là Niết bàn, cho nên chính pháp là Niết bàn, chỉ cần y theo con đường chân chính xưa kia chư Phật đã đi qua mà hành trì thì có thể giác ngộ, giải thoát. Nói đến đạo xưa của Tiên nhân, trong A hàm kinh, Lăng nghiêm kinh đều có nói qua. Bởi vì chính pháp nó vốn là như vậy, tu hành theo chính đạo mà được tịch diệt, nó cũng là như vậy. Hết thảy chư Phật trong quá khứ, không có ai là không tu hành theo con đường này mà có thể vào được Niết bàn, đây không phải do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng tạo ra, mà là con đường cổ xưa vốn có của chư Phật quá khứ, cho nên gọi là “cổ đạo”. Trên đây là ca ngợi về công đức của Pháp bảo.
Nương vào pháp nhiếp Tăng,
Hòa lạc tịnh làm gốc.
Sự hòa hoặc lý hòa,
Lễ Tăng Chúng trung tôn.
Sau khi Đức Thích Ca thành Phật, có rất nhiều người theo Phật xuất gia tu hành, Ngài liền vì họ mà tổ chức thành đoàn thể đồng tu gọi là “Tăng già”, nói một cách giản lược là “Tăng”. Tăng là một tập thể sống hòa hợp có kỷ luật, có tổ chức, cho nên người xưa dịch là “hòa hợp chúng”. Phật dựa vào điều gì để tập hợp Tăng chúng? Không phải là dựa vào tài năng của mình, cho nên Phật nói “Ta không nhiếp thụ chúng”1. Phật chính là dựa vào “Pháp” mà nhiếp thụ Tăng chúng, giúp họ trở thành một tổ chức Tăng già cố kết cùng chí hướng. Pháp là con đường chính của nhân loại, là Niết bàn cứu cánh, Phật lấy pháp này để cảm hóa và khuyến tấn đại chúng, làm cho đại chúng vì sứ mệnh quan trọng của đời người mà hợp với nhau hướng tới chân lý giải thoát phiền trược. Pháp cũng chính là giới luật khuôn phép, rất khế hợp với đạo đức của nhân sinh. Hơn thế, Phật kết hợp những quy luật căn bản cùng những điều chế định mà hoàn thiện pháp chế. Từ đó, pháp chế (giới luật) này trở thành quy củ thiền môn, giúp ổn định và duy trì tổ chức Tăng đoàn.
1 Trường A hàm kinh, quyển 2. Du hành kinh. Đại chính tạng quyển 1, trang 15a, nói: “Như Lai không nói Ta trì chúng, Ta nhiếp chúng”, ý văn đã dẫn.
Dựa vào Pháp mà hợp nhất được Tăng chúng, lấy ba thứ “hòa - lạc - tịnh” làm đặc trưng cho căn bản giới luật.
1. Hòa hợp: Ở đây có hai loại, sự hòa hoặc lý hòa. Sự hòa lại phân thành sáu loại gọi là “lục hòa”. Thứ nhất, kiến hòa đồng giải, nghĩa là đại chúng thống nhất với nhau về sự thấy biết và lĩnh hội giáo pháp, đây chính là sự giống nhau trên phương diện tư tưởng. Hai là giới hòa cùng tu, có nghĩa đại chúng cùng đồng nhất với nhau về việc tôn trọng và hành trì giới luật, đây chính là quy chế áp dụng chung cho cộng đồng Tăng chúng. Ba là lợi hòa đồng quân, là đại chúng đều tiếp nhận sự thụ dụng giống nhau trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, đây chính là sự bình đẳng khi nhận dùng vật chất thiết yếu. Tư tưởng, giới luật, lợi dưỡng đều hòa đồng, đã trở thành bản chất của Tăng đoàn Phật giáo. Có như vậy mới thể hiện được sự dung hòa giữa thân và tâm, giữa kia và đây, để có được điều thứ tư là thân hòa đồng trú, năm là ngữ hòa vô tranh, và sáu là ý hòa đồng duyệt. Sáu phép hòa kính này áp dụng phổ quát cho đại chúng xuất gia, tất cả nhất định phải phụng hành. Ngoài ra còn có lý hòa, là khi đệ tử Phật khi chứng được pháp chân lý hoặc Niết bàn, có nội dung chứng đắc chỗ này so với chỗ kia đều hoàn toàn giống nhau. Cho nên nói: “Tâm tâm tương ấn”1, “thở cùng hơi thở với chư Phật”. Đây là điểm đặc biệt mà các bậc Thánh đều có, và ngay cả hàng đệ tử Phật xuất gia đến tại gia cũng có khả năng này. Nói riêng về sự hòa là “thế tục Tăng”, lý hòa là “thắng nghĩa Tăng”. Chẳng qua là Đức Phật Thích Ca vì cuộc đời ngũ trược ác thế này mà chế định giới pháp để bảo vệ Tăng chúng, và giới pháp đã trở thành điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển mạng mạch Phật giáo, tức là coi trọng sự hòa một cách triệt để.
1 Tâm với tâm cùng ấn chứng cho nhau.
2. An lạc: Tăng chúng cùng nhau chung sống và tinh tấn tu hành nhằm đạt được sự an lạc trong tinh thần sự hòa hay lý hòa.
3. Thanh tịnh: Khi sống chung tu tập trong sự hòa hợp và an lạc, cùng nâng đỡ nhau tiến tu, cùng sách tấn nhau cố gắng. Khi có một ai đó vi phạm giới luật, thì ngay lập tức thực hiện pháp sám hối để được thanh tịnh, nhờ đó Tăng đoàn mới có thể kiện toàn, vì bệnh vừa phát sinh liền chữa trị kịp thời. Đức Phật luôn luôn dạy bảo chúng đệ tử xuất gia như vậy, cho nên tập thể Tăng già mới được hoàn thiện.
Từ việc tự tu đến thân tâm thanh tịnh mà nói, tập thể Tăng già là nhân duyên thù thắng giúp chúng ta được an lạc và thanh tịnh, là lò luyện lớn hun đúc nên những bậc Thánh hiền. Từ việc hoằng dương Phật pháp vì lợi ích cho tha nhân, thì Tăng già là nguồn động lực tập thể to lớn thúc đẩy Phật pháp truyền bá khắp nơi. Tăng già là một trong ba món báu, nên đệ tử Phật cần phải quy y và kính lễ đức “Tăng”. Tập thể đại chúng trong tôn giáo không chỉ có ở Phật giáo, mà ví dụ như tập thể Sa môn lục sư của Ấn Độ giáo đều có giáo đoàn, nhưng Tăng chúng của họ tồn tại nhiều hạn chế. Chỉ có Tăng già lấy việc phụng hành Phật pháp, lợi lạc quần sinh làm điều tôn thắng nhất mới được gọi là “Chúng trung tôn”1.
1 Được tôn kính nhất trong bảy chúng đệ tử của Phật. (Bảy chúng là: Tỳ kheo tăng, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na, Sa di, Sa di ni, Phật tử nam còn gọi là Ưu bà tắc, Phật tử nữ còn gọi là Ưu bà di).
Kính Tăng chớ trách Tăng,
Cũng đừng nên đánh giá.
Người theo Phật tu hành,
Giữ thành trì chính pháp.
Tăng bảo là nơi an ổn để quay về nương tựa, đặc biệt là người Phật tử tại gia nên tán thán vì “đức Tăng như hải” (công đức của Tăng chúng rộng sâu như biển). Người Phật tử tại gia nên tôn kính, ngoại hộ Tăng già: Hoặc là tôn kính trong tâm, hay là khen ngợi từ trên ngôn ngữ văn tự, hoặc là thân hành lễ bái, hay vâng lời chỉ dạy của Tăng để tu sửa. Hoặc tùy theo khả năng mà thành kính cúng dường cho các vị Tỳ kheo những vật dụng cần thiết như: y phục, thực phẩm, thuốc men, chăn mền, vật phẩm thường dùng v.v. Đặc biệt, đối với Tăng chúng đừng bao giờ khởi tâm khinh mạn, coi thường hay phỉ báng. Trong thời cận đại, tin Phật, tin Pháp, kính Phật với kính Pháp thì vẫn còn, nhưng sự tin kính Tăng già lại rất hạn chế, hay là chỉ quy y với một sư thầy hay tôn kính một vài người nào đó, mà thiếu đức tin trọn vẹn đối với Tam bảo. Cho nên, khó trách công đức hy hữu của Phật pháp, thật không dễ gì phát khởi được.
Tăng chúng nhiều như vậy thì đương nhiên sẽ có tình trạng “rồng rắn hỗn tạp”, có Thánh Tăng cũng có phàm Tăng, có trì giới thanh tịnh thì cũng có nhiễm ô phá giới, phi pháp phi luật. Phật tử tại gia khi thấy trường hợp phá giới, bất tịnh, sai pháp thì nên thừa nhận đây là chuyện “Tăng sự” của người xuất gia, sẽ có Tăng già chiếu theo luật chế nhất định của Tăng đoàn mà xử lý. Vì lẽ đó, đừng bao giờ tùy tiện chê trách toàn thể chư Tăng, hoặc trách móc một người hay một nhóm Tăng chúng nào đó. Những người có niềm tin chân thành muốn xây dựng đoàn thể Tăng già, nên khéo léo đề xuất hay góp ý với chúng Tăng, còn trách nhiệm xử lý là thuộc về đại Tăng. Dựa theo giới luật Phật chế, thì người phạm tội nhưng khi chưa bị tẩn xuất khỏi Tăng đoàn, luật pháp của quốc gia cũng không thể tùy tiện xử lý họ. Nếu có tranh chấp việc gì thì nhà vua cũng theo pháp luật mà biểu quyết chứ không thể dựa theo ý kiến chủ quan của mình mà hành xử. Nếu không, chỉ mang trọng tội hủy báng Tăng già, hoặc càng làm cho việc tranh chấp trở nên phức tạp hơn.
Bên cạnh đó, đã là người xuất gia tức là thành viên của đoàn thể Tăng già, bạn không nên khởi tâm phân biệt quá nhiều như: Tu lâu rồi hay mới tu, Tăng sĩ hay là Ni chúng, học nhiều hay là ít học, tinh tấn hay phóng dật, giữ giới hay phạm giới, đồng hương hay khác xứ... Hễ là thành viên của Tăng già, đều phải nên tôn trọng và cung kính, theo như pháp mà bố thí cúng dường. Bởi vì đoàn thể Tăng già như biển lớn vậy, có rồng to thì cũng có cá nhỏ, có rong rêu nhưng cũng có châu báu; biển lớn thì không chú trọng sự khác biệt cao thấp, mà đều bình đẳng dung chứa như nhau vậy. Nhưng thế nhân thì đa số là những hạng người này: Người coi trọng việc giữ giới, người lại coi việc thiền định quan trọng hơn, có người xem trọng việc tụng kinh, người lại chú trọng việc nghi lễ, hoặc người lấy việc học hiểu nghĩa kinh làm trọng tâm. Vì vậy mà phát sinh sự phân biệt: Nói dài nói ngắn, cái này tốt cái kia không tốt, ủng hộ người này phản đối người kia. Người Phật tử và tín chúng đừng nên có tâm phân biệt hay trách móc Tăng đoàn. Công đức của Tăng già không phải người bình thường có thể nhận thức hết được. Ví dụ như nếu coi trọng người lớn tuổi mà xem trường người trẻ, không biết rằng lớn tuổi thì ngồi trên là bởi vì tóc bạc da nhăn, sáu căn yếu mòn, muốn thụ dụng nhiều thứ cũng không được, như vậy đối với công đức trong Phật pháp đâu có liên quan gì!
Phật tử đối với Tăng chúng nên kính tin, bởi hễ là người xuất gia thì đều là thành viên của Tăng già, tuy trình độ có thiên sai vạn biệt nhưng đều là người tu hành theo Phật. Chỉ cần ở đâu có người xuất gia thì nơi đó có chùa viện, có Thánh tượng, có kinh sách, và có Tam bảo đáng tôn kính. Phật pháp suy cho cùng cũng đều do có hàng Tăng chúng xuất gia duy trì mạng mạch mà Phật pháp có thể tồn tại. Cho nên khi chúng ta khởi tâm phân biệt, sẽ không tránh khỏi sự đánh giá khác nhau như: cao thấp, tốt xấu, phàm Thánh v.v. Mà khi tổng hợp lại thì Tăng đoàn chính là nơi trụ trì chính pháp của Như Lai, dựng được “kim thành” vững chắc, tránh được sự phá hoại của thiên ma ngoại đạo. Mọi người phải luôn phản tỉnh, giữ gìn niềm tin của tâm ban đầu đối với Đức Phật, hoặc niềm yêu quý ban đầu đối với đạo, dù không phải ai cũng đều là Thánh hiền. Cho nên nói: Tỳ kheo phá giới mà được mặc cà sa, còn là ruộng phúc của trời người. Người Phật tử tại gia chân chính tu hành phải đặc biệt tôn kính Tăng già, hết lòng hộ trì cho chư Tăng, góp phần làm cho Tăng đoàn an lạc và thanh tịnh, đừng bao giờ trách móc hoặc lấy quyền lực mà làm cho chúng Tăng tranh đấu nhau. Khi Phật còn tại thế, Tăng già khi đã phát sinh tranh chấp, thì đến lời khuyên của Phật họ cũng không nghe, mà phân thành hai bộ phái. Nhưng Phật nói với những người có tín tâm rằng, đây đều là chư Tăng cả, đều nên cúng dường chớ có phân biệt. Cho dù “bẻ gẫy cây gậy vàng thành hai phần, thì cũng đều là vàng cả thôi”1, nên người Phật tử tại gia phải ghi nhớ trong lòng. Vừa rồi chính là những lời tán thán, ngợi khen công đức của hàng Tăng bảo.
1 Tứ phần luật, quyển 43. Đại chính tạng, quyển 22, trang 883b.
Tam bảo đức chân thật,
Tính vô lậu thanh tịnh.
Dạy đời chân và tục,
Phật pháp được trường tồn.
Tam bảo chính là đối tượng để chúng ta quy y, vì trong các giáo chủ, giáo lý và giáo đồ của tất cả các tôn giáo thì Tam bảo được xem là viên mãn nhất, thanh tịnh nhất. Tuy nhiên, tượng Phật với Tăng chúng không nhất định là có thể ứng hợp với một ý nghĩa này. Ở đây nên hiểu như thế này: Hiện tại, tượng Phật là do những chất liệu hoặc bằng ngọc hoặc đá, hoặc vàng hoặc đồng, hay là gỗ điêu khắc nên, có thể bằng đất nung, hoặc bằng tranh vẽ trên giấy v.v. Pháp là ba tạng kinh điển, hoặc là lời luận bàn về nghĩa lý Phật pháp của các bậc đại đức xưa nay được ghi chép lại. Tăng tức là hàng đệ tử xuất gia. Đây được gọi là trụ trì Tam bảo, là ba món quý báu nhất được lưu truyền trong thế gian sau khi Đức Phật nhập diệt, cần phải cung kính cúng dường và một lòng chân thành hướng về Tam bảo. Như khi Đức Phật ra đời, Đức Phật chính là Phật bảo, Ngài đã khai thị thuyết giảng về pháp Tứ đế, Duyên khởi, Niết bàn v.v. tức là Pháp bảo, hàng phàm chúng và Thánh chúng theo Phật xuất gia tu hành là Tăng bảo. Đây chính là hóa tướng Tam bảo, là khi Phật xuất hiện giáo hóa nhân gian, lấy ba tướng này làm Tam bảo.
Cung kính cúng dường, dựa vào đây mà quy y hướng về mười phương chư Phật, chính Pháp và tất cả hiền Thánh Tăng. Hóa tướng với trụ trì Tam bảo đều là hình tướng cụ thể của Phật tại thế gian, xem đây là đối tượng để quy y, từ đây lại càng vào sâu hơn một tầng nữa.
Nói sâu đến nơi quy y chân thật, là thật tướng công đức của Tam bảo, chỗ này xưa nay có nhiều sự phân biệt, ở đây chỉ nói đến hai loại.
1. Công đức vô lậu của Phật là Phật bảo: Theo hàng Thanh văn mà nói là năm phần Pháp thân. Theo Đại thừa mà nói chính là nhiếp tất cả công đức vô lậu của Vô thượng Bồ đề (bốn trí). Chính pháp là Niết bàn, là Pháp bảo. Công đức vô lậu của hàng Hữu học hoặc Vô học chính là Tăng bảo. Nói theo Thanh văn thừa tức là “bốn song tám bối” vô lượng công đức, nói theo Đại thừa là Bồ tát thì được công đức vô lậu vượt cả hàng Thanh văn cùng Bích chi Phật.
2. Theo kinh điển Đại thừa, thì cảnh giới cứu cánh viên mãn hiển hiện là pháp giới thanh tịnh nhất (thu được thể tướng nghiệp dụng), là Phật bảo. Thiểu phần hiển hiện thanh tịnh pháp giới là Tăng bảo. Khắp mười pháp giới mà không tăng không giảm, pháp giới không hai cũng không khác (hoặc gọi là Chân như, Thật tướng v.v.) là Pháp bảo. Bình thường mà nói thì nhất thể Tam bảo, lý thể Tam bảo, thường trụ Tam bảo đều là sự khác nhau về giải thoát trên một ý nghĩa này. Cho nên công đức chân thật của Tam bảo là công đức vô lậu, không tương ưng với phiền não tạp nhiễm, cũng không phải là Duyên khởi của nhiễm ô phiền não. Thế thì tính thanh tịnh có công đức vô lậu nên gọi là “thanh tịnh” vô vi công đức, không chỉ là thanh tịnh rời cấu nhiễm mà còn là bản tính thanh tịnh, tính sáng trong vô lậu của Tam bảo mới chính là nơi chốn chân chính để quay về nương tựa.
Chỉ vì Phật pháp chuyển hóa thế gian, mang lợi ích đến cho chúng sinh mà nói, không chỉ nên quy kính với thường trụ Tam bảo, mà còn nên quy kính giống y như vậy đối với thế gian trụ trì Tam bảo. Bởi vì quy y thế tục, không tránh được sự sùng bái hình thức, mà không chú trọng về thắng nghĩa (chân thật), cũng không tránh được sự cao sâu quá mức mà người bình thường khó có thể hiểu rõ được. Cho nên cần phải quy y hiện thực sự tướng của thế gian trụ trì Tam bảo, nương theo đây mà hướng đến Tam bảo chân thật. Phật giáo chú trọng về mặt tượng giáo, nhưng lý cũng thành tựu ở đây. Trụ trì Tam bảo lấy sự tướng mà biểu hiện công đức chân thật của Tam bảo, đây mới là chỗ cạn sâu của sự lý vô ngại, Phật pháp mới có thể trường tồn tại thế gian, làm ruộng phúc và cứu độ cho hết thảy chúng sinh.
Thệ nguyện trọn đời này,
Quy y Phật Pháp Tăng.
Chí tâm tu cúng dường,
Nhớ lợi ích tuyệt vời.
Phật Pháp Tăng, Tam bảo không có sự ô nhiễm, công đức tròn đầy cho nên là nơi chân chính để quy y. Khi muốn quy y, trước tiên cần khẩn thiết sám hối, phát tâm cung kính, tâm thanh tịnh, quỳ thẳng chắp tay hướng về vị thầy mình quy y, nghe thầy thuyết giáo, tự mình phát lời thệ nguyện: Đệ tử chúng con xin hết lòng quy y Phật, bậc tôn kính đầy đủ phúc đức và trí tuệ; xin hết lòng quy y Pháp, hành trì pháp để rời xa dục nhiễm; xin hết lòng quy y Tăng, đại chúng đáng tôn kính (nói lên ba lần như vậy). Nguyện đại đức nhớ cho và từ bi hộ niệm cho con, kể từ hôm nay cho đến lúc mạng chung. Quy y Phật cảnh, quy y Pháp cảnh, quy y Tăng cảnh (nói ba lần) (dựa theo Đại danh kinh và lược thuyết)1. Khi phát nguyện thụ trì quy y, dù cho sợ cái chết đổ đến trên đầu cũng không được đổi thay, dù chỉ là đùa giỡn chơi cũng không được nói tôi không tin Tam bảo, hoặc không được nói tôi không phải là Phật tử. Nếu như quy y rồi mà xả bỏ, thì sẽ lại tái sinh trầm luân sáu đường, chịu muôn ngàn khổ sở. Cho nên cần phải hết lòng thành khẩn ghi nhớ lời thệ nguyện xin được quy y.
1 Đại danh kinh, A tỳ đạt ma Thuận chính lý luận, quyển 37.
Quy y Tam bảo rồi, phải hết sức chí tâm tu pháp cúng dường. Đối với tượng Phật (tháp Phật), kinh điển, Tăng chúng,… giả như không được trang nghiêm lắm, không được thanh tịnh lắm, thì cũng không được khởi tâm khinh mạn, mà phải hết lòng phát tâm tôn kính như chính pháp. Cúng dường Phật như lễ bái, tán thán, nhiễu Phật, và phụng cúng như: hương, hoa, đăng, kỹ nhạc, tràng phan, bảo cái cùng các khí cụ trang nghiêm Phật điện… Cúng dường Pháp như là viết chép hoặc ấn tống kinh sách, hoặc là tu bổ bảo quản kinh điển cho nghiêm tịnh. Cúng dường Tăng là đem y phục, thực phẩm, tọa cụ, ngọa cụ, thuốc men, và các vật dụng hàng ngày, nhưng phải là những thứ thanh tịnh theo như luật nhà Phật (Tăng chúng có thể sử dụng), không được cúng dường những vật phẩm không đúng với luật Phật chế. Ngay cả khi cúng dường những vật phẩm tốt nhất, nếu chưa biết y theo pháp mà Đức Như Lai chỉ dạy, thì nên nghe theo sự hướng dẫn của chư Tăng mà phụng hành.
Đệ tử Phật ở những quốc gia kính tin theo Phật giáo, nên sớm tối thực hành thời khóa tụng niệm tu hành, trải qua thời gian dài, vì bận chuyện gia đình mà quên mình là đệ tử Phật, đây thật là điều không nên. Tốt nhất là theo quy cách của Ấn Độ ngày xưa, mỗi ngày phải có ba thời, đêm có ba thời tu hành, số lần không nên quá nhiều và thời gian cũng không được quá ngắn. Khi tu Tam quy y, cần phải cảm niệm về công đức thù thắng khi được trở về nương tựa Tam bảo: Một là trở thành người Phật tử, hai là được thụ nhận giới pháp vi diệu, ba là nghiệp chướng được tiêu mòn, bốn là tích lũy phúc đức rộng lớn, năm là không bị đọa vào ác thú, sáu là người và phi nhân không thể quấy nhiễu, bảy là những việc lành đều sẽ thành tựu, tám là có thể trọn thành Phật đạo. Nếu như có thể luôn luôn nhớ đến vô lượng công đức quy y Tam bảo mà tu hành, thì khi đó việc tu học Phật đạo sẽ thành tựu dễ dàng, nhờ có được một niềm tin vững vàng không thoái chuyển mà thu được công đức thật hiếm có ở đời.
Quy y tối tôn này,
Là quy y tối thắng.
Không do dự quy y,
Được vui được an ổn.
Như đã nói ở trên, quy y Tam bảo là việc làm cao quý nhất và lợi ích nhất trong tất cả, nếu như sự quy y ấy chân thành không hư dối. Đương nhiên, để làm một người Phật tử thì không thể không quy y Tam bảo. Không nên tà chính bất phân và cho rằng quy y với tôn giáo nào cũng như nhau. Nên hiểu rằng: các giáo chủ, giáo lý và giáo đồ của tất cả những tôn giáo khác chưa từng đưa ra được con đường giúp chúng ta rời xa phiền não tạp nhiễm để đạt đến cứu cánh giải thoát khổ đau, cũng không thể có được đầy đủ công đức. Đã chẳng thể tự cứu được mình, thì làm sao có thể trở thành nơi đáng tin cậy cho tha nhân nương dựa? Cho nên, khi đi theo ngoại đạo tà giáo, chẳng thể nhờ đó mà đạt được công đức và an lạc tự tại của công đức vô vi. Sự an ổn này, chính là muốn nói đến thường lạc của cứu cánh Niết bàn.
Nói về người quy y,
Lấy tín nguyện làm thể.
Nương theo và hướng tới,
Nhờ đó được cứu ra.
Nghi thức quy y, đối tượng quy y và yêu cầu quy y đều đã nói qua rồi. Nhưng những điều nói về quy y là gì? Đây chính là niềm tin sâu sắc, đức tin xác quyết, là sự quy y chân chính, chắc chắn là nhân lành để đạt được nhiều quả công đức. Biết được Tam bảo có công đức như thế, thì lập nguyện làm đệ tử của Phật, tín thụ phụng hành, khẩn cầu uy đức của Tam bảo gia trì và nhiếp thụ. Quy y là lấy niềm tin và sự phát nguyện làm thể tính, cho nên khi đã quy y rồi thì nên đem hết thân tâm mà hướng về Tam bảo, không còn chút ý tưởng nào để ý đến thiên ma ngoại đạo. Lại tùy lúc tùy nơi, mà tùy thuận Tam bảo, để hết tâm ý mà nghĩ về Tam bảo. Cũng giống như đứa trẻ đang bị lạc đường, đứng giữa ngã tư mà gào khóc trong khi xe ngựa qua lại như thác chảy; không chỉ lạc đường mà còn có thể bị nguy hại đến tính mạng bất cứ lúc nào. Trong lúc nguy kịch như thế, bỗng nhiên nhìn thấy mẹ đứng trước mặt, ngay lập tức nó vội lao ngay đến sà vào lòng mẹ, vì được trở về với mẹ là sự bình an và vui sướng nhất. Tâm thái của chúng ta khi phát tâm quy y với Tam bảo cũng giống như vậy, có niềm khát ngưỡng tuyệt đối trở về nương tựa uy đức của Tam bảo để nhận được sự nâng đỡ. Sự quy y trong Phạn ngữ còn hàm chứa ý nghĩa là được cứu giúp. Cho nên, uy lực và công đức của Tam bảo có khả năng cứu giúp và giáo dưỡng người đã quy y, khiến cho họ rời xa khổ nạn mà đạt được cảnh giới thường an lạc. Nói tóm lại, từ việc hành giả có khả năng quy y mà nói, chính là xác lập và quyết định niềm tin với hạnh nguyện, tha thiết và thành khẩn mong cầu sự gia hộ của Tam bảo. Từ việc quy y Tam bảo, là đạt được công đức và uy lực không thể nghĩ bàn, có thể giúp đỡ và dẫn dắt chúng sinh đến được nơi chốn thiện lành mãi mãi.
Nếu người tự quy y,
Tự lực tự y chỉ.
Chính là người khế hợp,
Chân thật nghĩa quy y.
Thông thường, quy y là kính ngưỡng, hy vọng và tự nguyện chịu nhận sự trợ giúp từ bên ngoài, thường thì tha lực của các tôn giáo đều vậy cả. Tuy nhiên, Phật pháp không chỉ như vậy, mà còn có nhiều điều diệu dụng không giống như những đạo khác. Phật tại Niết bàn Hội thượng, trong những giây phút cuối cùng đã chỉ dạy các đệ tử rằng: “Hãy nương tựa vào chính mình, nương dựa vào pháp, đừng nên nương dựa vào một thứ gì khác”1. Đây là lời nhắc nhở chúng đệ tử Phật phải tự lực, phải dựa vào chính pháp để tu học, không nên nương dựa vào bất cứ một thế lực nào bên ngoài. Chính như trong Lăng nghiêm kinh mà Ngài A Nan đã nói: “Tôi theo Phật phát tâm xuất gia, nhờ uy thần của Phật, thường tự suy nghĩ, tôi tu không vất vả chính là nhờ diệu lực Tam muội của Như Lai, không biết được thân và tâm căn bản không thể thay nhau, tất cả nên dựa vào bản thân mà tu hành”2. Cho nên ý nghĩa sâu xa của việc quy y chính là quay trở về với bản tâm, bản tính của mình, bản thân mình có Phật tính, tự mình có thể thành Phật. Đương thể thân và tâm của mình chính là Niết bàn chân thật, tự ta theo chính pháp tu hành thì ta với Tăng già cùng một thể. Phật Pháp Tăng, Tam bảo đều không rời tự thân, đều là từ thân tâm của mình biểu hiện ra sự thành tựu. Từ bên ngoài có thể thấy, quy y chính là tin tưởng vào sự thụ trì giúp đỡ của tha lực, nhưng nhìn sâu bên trong thì đây chỉ là “tăng thượng duyên” làm phát khởi từ thân tâm thực hành hạnh nguyện. Cho nên nói, người tự quy mạng về với chính mình, được xem là sự tổng hòa giữa thân và tâm, quy mạng chính là sự dâng trọn cuộc sống này về ngôi Tam bảo. Có thể tự lực, tự nương tựa vào mình, tự mình tu hành theo chính pháp mà không giống như Ngài A Nan “nhờ vào uy thần của Phật, tu hành không vất vả”, đó mới là khế hợp với ý nghĩa chân thật của việc quy y.
1 Đại trí độ luận, quyển 2. Đại chính tạng, quyển 25, trang 66a.
2 Đại Phật đỉnh Như Lai mật nhân tu chứng liễu nghĩa chư Bồ tát vạn hạnh Thủ lăng nghiêm kinh, quyển 1. Đại chính tạng, quyển 19, trang 109a.