Sabina
Tháng Tư, năm 2012
Tôi chưa bao giờ bồn chồn như hôm thứ Sáu đó. Tôi đã xin nghỉ làm nên chúng tôi có thể khởi hành sớm và khoảng 9:01 sáng, tôi đã hối hận vì quyết định của mình.
Chẳng có gì giúp tôi xao lãng đi cả. Tôi ngồi ở nhà và nhìn đồng hồ, giải quyết hồi hộp bằng đồ ăn vặt. Tôi cảm nhận được sự bực bội của chứng mất ngủ khi cơn buồn ngủ không chịu kéo đến. Chỉ trừ thay vì đi ngủ, tôi cố gà gật trước chương trình TV buổi sáng nhưng không tài nào bắt bộ não nghỉ được.
Tôi bày ba bộ quần áo trên giường - một chiếc váy đỏ tân thời với thắt lưng đen to bản, quần bà bầu thoải mái, một áo sơ mi hoa, một bộ giản dị hơn với quần bò cạp chun và sơ mi dài tay. Tôi đã lấy chúng ra từ sáng sớm và khi đi tới đi lui khắp nhà như một bóng ma trong suốt phần quảng cáo của chương trình trò chuyện, tôi lại đi tới cửa phòng và nhìn chằm chằm vào mấy bộ quần áo. Lựa chọn này dường như là cực kỳ hệ trọng. Tôi không muốn trông quá nổi bật, không muốn trông quá kín đáo, không muốn trông quá bình thường, cũng không muốn trông quá thành thị. Bên dưới những suy tính thầm lặng đó là một ý nghĩ còn lớn hơn - một ý nghĩ kinh hoàng - mà tới khi Ted về tôi mới bày tỏ được.
“Em không định mặc thế đấy chứ?” anh nói, khi bước vào nhà và nhìn thấy tôi cuộn tròn trên đi-văng trong bộ đồ thể thao. Tôi lo lắng nhìn xuống, rồi nhận ra vệt thức ăn trên ngực. Tôi vùi mình vào ghế sâu hơn.
“Nhỡ mẹ k-không thích em thì sao, Ted?”
“Thật không? Bà ấy đã đợi gần 40 năm để được gặp em đấy.”
“Chính xác! Bà ấy đã đợi gần 40 năm để được gặp em. Nhỡ em làm bà thất vọng thì sao?”
“Sabina, thật ngớ ngẩn.”
“Chuyện đó thường xảy ra trong những tình huống thế này mà. Em dám cá là kỳ vọng của bà ấy đang cao ngất trời.”
“Bà ấy đã đợi một đời để được gặp em, em yêu. Em có là một kẻ giết người hàng loạt thích ngoáy mũi thì anh cũng dám chắc bà ấy sẽ rất mừng khi thấy em.”
“Em chỉ muốn bà ấy thích em.”
“Bà ấy sẽ quý em mà, Hạt Đậu. Nhưng nếu thấy không thoải mái, anh sẽ cứu nguy cho em và kiếm cớ để cáo lui về nhà. Anh hứa. Mặc đồ đi em, đến giờ lên đường rồi đấy.”
Tôi nhấc mình khỏi đi-văng, phớt lờ đám vụn bánh rơi rào rào xuống chân khi đứng lên và vòng tay ôm lấy chồng.
“Cảm ơn anh.”
“Bổn phận của anh mà.”
“Không, nghiêm túc đấy, Ted. Không có anh chắc em không thể làm được.”
“Tất nhiên là em làm được.” Anh hôn lên đầu rồi xoay tôi về phía phòng ngủ. “Đi thay đồ đi, quý bà! Chúng mình mà muộn là tại em đấy.”
Chúng tôi ra khỏi nhà đúng giờ, hơn 2 giờ chiều một chút. Theo tính toán chính xác của Ted, chúng tôi sẽ rẽ vào cổng nhà James và Lilly ngay sau 6 giờ chiều, kịp giờ cho bữa ăn đầu tiên với cha mẹ ruột của tôi.
Tôi đã sắp sẵn một túi đồ cho hai đêm, còn Ted thận trọng đặt hộp ảnh vào khoang sau ô tô. Tôi không chắc chắn liệu có phải lúc không, nhưng nếu thấy được thì tôi sẽ đưa chúng cho Lilly trước khi rời khỏi đó.
Trước đây tôi chưa bao giờ đi tới phía tây của bang. Tôi từng đến tận dãy núi Blue, nơi được coi là rào cản vật lý ngăn cách thành thị và nông thôn, nhưng tôi chưa bao giờ đi qua đó. Ted hiểu biết về địa lý nhiều hơn tôi một chút, nhưng anh tin tưởng hệ thống định vị toàn cầu - thế là chúng tôi đi đến một đường cao tốc hai làn xe vắng tanh trong vùng nông thôn hoang sơ.
Ban đầu, tôi choáng ngợp trước phong cảnh dọc theo tuyến đường Bells Line of Road. Cây cối tươi tốt ngay bên vệ đường, chúng tôi tha hồ thưởng thức quang cảnh hùng vĩ của thành phố và các thung lũng. Tôi bắt đầu cảm thấy có chút lo lắng khi chúng tôi vượt qua một loạt các khúc cua gắt và khó thấy rồi phát hiện ra tình hình giao thông trước mặt có vẻ ùn tắc. Ngay sau khi chúng tôi đến khu vực nơi có một vách đá dựng đứng phía trên ở bên tay trái và một vực thẳm bên tay phải, hết thảy xe cộ đều nối đuôi nhau dừng lại.
Lát sau, tôi cầm điện thoại lên để tìm hiểu tình hình giao thông và xem ở phía trước đang xảy ra chuyện gì, rồi phát hiện ra chúng tôi đang ngoài vùng phủ sóng. Ted cố tìm đường khác bằng định vị, để xem nếu quay đầu xe thì có tránh được ách tắc hay không, nhưng chúng tôi nhanh chóng nhận ra như thế thì gần như sẽ phải quay về thành phố. Lùi lại sẽ mất thêm rất nhiều thời gian.
Nếu tôi nghĩ nửa đầu của ngày trôi qua quá chậm chạp thì lúc này thời gian như ngừng trôi hoàn toàn. Ted và tôi đã có một cuộc tranh luận gay gắt vừa phải về cách anh chọn đường và tôi nói lâu hơn bình thường chỉ để làm bản thân sao nhãng.
Xe chúng tôi đứng yên tại chỗ gần hai giờ đồng hồ thì một cảnh sát bước tới, dừng lại ở cửa sổ xe bên Ted và thông báo chúng tôi phải quay đầu xe. Họ sẽ cấm đường qua đêm.
Cách chúng tôi vài cây số, một chiếc xe kéo sơ mi rơ moóc1 đã gặp tai nạn và cứu hộ đang tìm cách thông đường.
1 Semi-trailer.
Chúng tôi im lặng một lúc, trong khi định vị chỉ đường tới một đường cao tốc khác băng qua núi. Chắc phải 9 giờ tối chúng tôi mới đến nơi.
“Em nghĩ mình nên về nhà thôi. Chúng mình có thể dời lịch sang một ngày cuối tuần khác.”
“Em không thể làm thế được, Hạt Đậu à.”
“Đó là điềm báo đấy.”
“Ôi trời, nhảm nhí. Điện thoại em bắt được sóng chưa? Em nên gọi cho mẹ và báo với bà ấy.”
Tôi nghịch điện thoại một lát, nguyền rủa sự hèn nhát của bản thân.
“Sabina...”
“Em sẽ gọi,” tôi đảm bảo với anh. Rồi thở dài và bấm số điện thoại mà tôi đã thuộc lòng.
“Xin chào, Lilly đây.”
Bà đang hát đầy lạc quan và trái tim tôi chùng xuống như một tảng đá.
“Xin chào, Lilly. Con là Sabina.”
“Ôi, con yêu. Ôi...” Niềm vui sướng của bà vụt tắt. “Ôi, không. Con đổi ý rồi.”
“Không, không,” tôi vội trấn an bà. “Không, chúng con chỉ đến muộn thôi - có một tai nạn xảy ra gây tắc đường. Tối muộn chúng con mới tới được. Chúng con đang tính sẽ nghỉ lại một khách sạn trên đường. Chắc chúng con sẽ tới vào bữa sáng?”
Tôi nghe mẹ nín thở và cảm thấy nhói lên cảm giác tội lỗi, nhưng trong thâm tâm lại thấy nhẹ người khi hoãn buổi đoàn tụ sang một ngày khác. Chúng tôi sẽ tỉnh táo hơn vào buổi sáng và thế nghĩa là chỉ cần ở trang trại một đêm thay vì hai đêm như đã thống nhất.
“Xin con hãy đến ngay trong đêm nay.” Bà nói rất khẽ. “Xin con đấy, Sabina.”
“Nhưng chắc sẽ rất muộn - phải 9 giờ, hay thậm chí là 10 giờ...”
“Mẹ biết mẹ đòi hỏi quá đáng.” Tôi nghe được nước mắt trong giọng nói của bà. “Nhưng nếu con xoay xở được, mẹ sẽ rất cảm kích. Mẹ biết là chỉ thêm một ngày, một giấc ngủ, một lần mặt trời mọc nữa thôi... nhưng mẹ đã đợi...” bà nín thở, “Ôi, mẹ đã đợi quá lâu rồi.”
Quên đi việc này có ý nghĩa với bà thế nào quá dễ dàng. Đối với tôi, bà chỉ là sự hiếu kỳ. Còn đối với bà, tôi là giấc mơ của một đời người.
Vậy là tôi đồng ý sẽ tìm cách tới trang trại trong đêm tối.
***
Chúng tôi nhìn thấy những chiếc bóng trên hiên nhà, hai con người nhỏ xíu trông càng bé lại vì sự trống trải của đất đai xung quanh. Giờ tôi thật sự phát ốm, bữa trưa đang dâng lên trong cổ họng. Ted dừng xe dưới một cây nhũ hương già nua.
“Em sẵn sàng chưa?” Ted thì thầm.
“Làm sao mà em sẵn sàng được chứ?” tôi khẽ đáp lại.
Chúng tôi bước chậm rãi trên đường hướng tới ngôi nhà. Tôi đang tập trung vào hơi thở, cố vượt qua cơn lo lắng, khấp khởi và mệt lả bằng cách tập trung. Tôi nhanh chóng nhận ra làm thế cũng vô ích. Chẳng có cách nào để kìm nén những cảm xúc này, tôi sẽ phải chịu đựng thôi. Rồi bà rời khỏi vòng tay của chồng và chạy xuống cầu thang, băng qua bãi cỏ tới chỗ tôi, bước chân của bà khỏe và dẻo dai, như một đứa trẻ đang chạy nhảy vậy. Khi bà tới gần, thoạt nhìn khuôn mặt của mẹ ruột, tôi nhận ra bản thân trong đó, tôi cũng nhìn thấy ý định của bà. Bà hẳn sẽ chạy qua biển lửa để ôm lấy tôi. Bà đã đợi cả cuộc đời để làm điều này.
Bà suýt làm tôi ngã ngửa. Lilly không cao, nhưng có thân hình nảy nở và khỏe khoắn. Cánh tay bà vòng qua rồi siết chặt lấy tôi. Trong bóng tối nhập nhoạng, tôi ngửi thấy mùi tỏi, thảo mộc và xà phòng khi bà áp mặt vào cổ tôi. Tôi nghe thấy bà đang rùng mình, hít sâu rồi bắt đầu nức nở.
Tôi chưa từng nghe ai khóc như vậy. Bà ôm chặt tôi, nước mắt thấm đẫm vai áo tôi. Giống như bà đang gột rửa tôi, đánh dấu tôi là con đẻ của bà.
Tôi cũng khóc, bởi bạn không thể đứng trong một cơn bão như thế mà không xúc động. Tháng trước, tôi còn chưa biết tới bà, nhưng tiếng khóc của tôi đồng điệu với bà. Tôi không khóc vì nỗi đau của bản thân - tôi đang khóc vì bà và vì những gì lẽ ra đã có giữa chúng tôi.
Lát sau, một người khác từ cổng chậm rãi tiến về phía chúng tôi, tôi cũng nhìn thấy khuôn mặt ông dưới ánh trăng. Ông lặng lẽ bắt tay Ted, tự giới thiệu mình là James, rồi cố gỡ Lilly khỏi tôi. Bà không chịu, bà còn không đủ bình tĩnh để nói chuyện. Thay vào đó, bà phất mạnh tay ra hiệu với ông rồi bằng cánh tay chắc nịch, bà siết chặt tôi và dẫn tôi vào nhà.
“Mẹ xin lỗi.” Giọng bà khàn đặc, hơi thở đứt quãng giữa tiếng nấc chưa chịu dứt. “Mẹ rất xin lỗi.”
“Không sao đâu ạ.” Tôi cố an ủi. “Con không thể tưởng tượng được...”
Trong số những lần khốn khổ vì từ ngữ trong đời tôi, đây là lần tệ hại nhất. Bạn sẽ nói gì trong tình huống đó? Bạn an ủi thế nào để không vô vị? Tôi cảm giác như mình là người ngoài cuộc đối với bi kịch này. Tôi chưa thực sự cảm nhận được rằng mình cũng là một nạn nhân.
“Mẹ đã tự hứa sẽ kiềm chế. Mẹ đã tự hứa với lòng mình, từ khi con nói sẽ đến,” bà cười yếu ớt. “Nhưng... không một giờ nào trôi qua mà mẹ không nghĩ về con, Sabina. Không một giờ nào. Và 38 năm là biết bao nhiêu giờ đồng hồ.”
***
Mẹ ruột tôi đã dành cả ngày nấu nướng cho tôi.
Bà bảo sẽ mất kha khá thời gian để bà bày biện bàn ăn. Bà đã chuẩn bị các món ăn, đang được hâm nóng hoặc sắp được hâm nóng và trong khi bà chuẩn bị tiệc, James đưa Ted và tôi đi một vòng quanh ngôi nhà.
Nhà không bừa bộn, nhưng nhiều đồ và lộn xộn theo cái cách mà cha mẹ sẽ không bao giờ chấp nhận ở ngôi nhà tôi ở hồi nhỏ. Đồ đạc ở khắp mọi nơi. Có chai lọ và hộp đựng đầy đồ trên nóc tủ bát và tủ lạnh, kể cả trên băng ghế nữa. Còn những khoảnh không gian không bị bao phủ bằng những thứ như vậy thì lại đặt những bức tượng nhỏ được sưu tầm hay đồ lặt vặt. Tôi có thể nghe tiếng mẹ tặc lưỡi trong đầu và tiến về phía ghế dài để chê bai thậm tệ thứ đồ “bám bụi vô dụng”. Cũng không có quá nhiều bụi bặm nhưng đó hẳn là minh chứng cho công sức dọn dẹp của Lilly và tôi trộm nghĩ bà chắc đã rất căng thẳng từ cái ngày tôi đồng ý đến chơi.
Mỗi bức tường đều như một triển lãm ảnh mini với các bức hình gia đình nối tiếp nhau, một số thì đóng khung, một số thì được đính ngay trên tường. Khi theo James tham quan ngôi nhà, tôi chợt nhận ra với gia đình Piper, ảnh chính là đồ trang trí. Không có các tác phẩm nghệ thuật được chọn lọc cẩn thận, nệm gối hay bàn cà phê mây như nhà cha mẹ. Đây là một căn nhà rất thiết thực, với nội thất chắc chắn và sàn gỗ cứng cáp - sinh khí và mùi hương của ngôi nhà đều được tạo ra hoàn toàn bằng những kỷ vật của gia đình.
Đã bao nhiêu lần tôi khổ sở vì bài trí nhà cửa thiếu tinh tế? Cuối cùng, tôi luôn chọn đồ theo chức năng mà bỏ qua hình thức. Tôi chọn đồ trang trí cho nhà của tôi với sự hỗ trợ của mẹ và chẳng bao giờ tôi thấy hài lòng cả. Dù tôi có muốn một ngôi nhà xinh xắn, kiểu cách như ngôi nhà mà mình đã lớn lên đến mấy, đó cũng chưa bao giờ là điểm mạnh của tôi.
Rõ ràng, nó không chỉ nằm trong huyết quản của tôi.
“Đây là căn phòng mà Charlotte đã lớn lên, cũng là phòng của bố hồi nhỏ,” James giới thiệu, đẩy cửa ra để lộ chiếc bàn đầy giấy tờ và hai chiếc ghế bành. “Giờ thì nó đại loại là văn phòng của bố. Lilly thích đọc sách ở đây, nắng phía bắc tràn vào và nhìn ra đồng cỏ trước mặt cũng rất đẹp.”
Chúng tôi đi qua phòng khách với những ghế trường kỷ bằng da rất chắc chắn, James mở cửa thông ra ngoài, đưa chúng tôi ra ngoài hiên với xích đu và một loạt các bức tượng động vật nhỏ.
“Hồi xưa, Neesa giả vờ đây là sở thú của nó,” James hài hước giải thích. “Những thứ này ở đó cũng lâu rồi, chắc là Lilly đã bí mật mua chúng.”
“Không phải!” Lilly nói vọng từ trong ra, nhưng vẫn có ý cười. Đây rõ ràng là trò chơi ưa thích của họ.
“Giờ thì Nee lớn rồi nên không chơi nữa, nhưng sớm muộn gì hai đứa nhóc song sinh cũng sẽ thích chúng nên bầy thú bê tông vẫn còn đó,” James thở dài.
Phòng ngủ tiếp theo mới được sơn - rất mới, dựa theo mùi thoang thoảng còn sót lại. Nửa dưới bức tường màu nâu đậm, nửa trên thì màu be nhã nhặn hơn. Có một chiếc ghế bành và giường gỗ kiên cố với một dãy gối ở đầu giường.
Căn phòng trông hoàn hảo đến đáng ngờ - cả nội thất trông cũng rất mới. Tôi tự hỏi có phải Lilly đã trang trí trong bốn ngày kể từ khi tôi nhận lời đến chơi không. Cũng có thể lắm, cứ nhìn bữa tiệc linh đình, thái quá trong bếp kia thì biết.
“Đẹp quá,” Ted nói khi nhìn quanh căn phòng rộng lớn.
“Đó là phòng của Simon hồi nhỏ, giờ thì nó là phòng dành cho khách, nhưng bố mẹ nghĩ hai con có thể ở đây, cuối tuần này và đương nhiên là cả sau này, nếu các con còn muốn quay lại đây,” James nói, có chút cứng nhắc.
“Cảm ơn bố, James,” tôi khẽ nói. Niềm hy vọng nhẹ nhàng của ông dễ chịu hơn sự phấn khích thái quá của Lilly.
Ông cho chúng tôi xem phòng ngủ và phòng tắm của họ, rồi cuối cùng, tôi cũng nhận ra ông căng thẳng thế nào khi dẫn đường tới phòng giặt rồi đứng sững lại.
“Trong này chẳng có gì đáng xem đâu. Bố không biết sao lại đưa các con xuống đây nữa.”
“Chúng con đã biết phải đi đâu nếu cần giặt đồ trong thời gian ở đây,” Ted nói, tôi cho là anh đang cố lịch sự trò chuyện. James bật cười.
Hành lang chạy vòng quanh nhà bếp và phòng ăn lớn. Ted huýt sáo khi nhìn thấy đồ ăn trải khắp mặt bàn. Lilly đã bày bộ bát đĩa sứ và xếp dao dĩa kiểu trang trọng, nhưng phần còn lại trên bàn thì đầy những bát đĩa không cùng bộ.
“Xong xuôi,” bà nói. “Các con sẵn sàng dùng bữa chưa nào?”
Bên trên chiếc bàn khổng lồ là một chùm đèn lớn, bóng đèn vàng nhạt hắt xuống luồng sáng ấm áp khắp phòng và tạo ra cảm giác thân mật đến ngạc nhiên. Ted và tôi cùng trợn tròn mắt nhìn nhau khi thấy một bàn đồ ăn đầy ắp trước mặt. Có bánh kem và bánh quy, bánh mì cắt lát, súp, salad và hàng loạt món ăn truyền thống của Ba Lan mà tôi chưa từng nghe qua.
Lilly cuống quít, lấy cho tôi mỗi thứ một ít vào đĩa, còn James ngồi lặng lẽ quan sát bà. Tôi cố nói chuyện, nhưng hầu như tôi chỉ nhìn họ - vẻ sốt sắng của bà và sự âm thầm quan tâm của James. Đôi khi, tôi thấy ông rơm rớm nước mắt, nhưng ông không nhìn tôi, chỉ nhìn vào Lilly. Ước gì tôi đọc được suy nghĩ của ông.
“Thử món này trước đi con,” Lilly nói khi cuối cùng bà cũng chịu đặt chiếc đĩa trước mặt tôi. Bà chỉ vào món bánh đầy nhân, nhồi giữa thịt hun khói và hành tây. “Pierogi đấy.”
“Pierogi,” tôi lặp lại như thể lần đầu nghe từ này, cố uốn lưỡi chữ r giống bà. Tôi liếc sang Ted và anh gật đầu với tôi. Chúng tôi đều đang nhớ lại nỗ lực đáng thương của mẹ với món Pierogi: vỏ bánh cháy xém, dai nhách bao quanh thịt bò băm nhạt nhẽo và quá lửa. Sự cố gắng của mẹ bỗng trở nên chẳng ra sao nếu đem so với những miếng bánh nhỏ gọn gàng được chiên với thịt hun khói và hành này.
Tôi cầm dĩa lên và lúng túng xắt chiếc bánh, rồi xiên một miếng bỏ vào miệng. Rất ngon - đậm vị và ngon lành, vỏ bánh mềm mịn - tất cả hòa trộn trong một chiếc bánh nhỏ xíu, rất vừa ý. Tôi thốt lên một tiếng thích thú rồi ăn nửa còn lại, Lilly đan hai tay trước ngực và khẽ reo lên.
“Mẹ vẫn luôn muốn được cho con xem những món ăn gắn liền với tuổi thơ của mẹ. Tên Sabina bắt nguồn từ Sabinka - bà của mẹ. Bà mất trong chiến tranh, nên mẹ chưa từng được gặp, nhưng món Pierogi của bà thì đã trở thành huyền thoại. Mẹ có thể cho con công thức. Mẹ còn làm cả bánh rán cho con nữa, làm theo cách của ông ngoại mỗi dịp lễ Phục sinh. Thấy mấy cái bánh ở đó chứ?” Bà chỉ một chiếc bánh rán giòn được làm vụng về ở cạnh đĩa, gần bánh kem. “Cả đời, mẹ luôn ăn những thứ này trong tất cả các dịp lễ Phục sinh. Thỉnh thoảng, mẹ làm bột bánh nở ra bằng cách đỗ xe dưới nắng và để bột trong đó. Còn món cá đó là sledzi, nó được ngâm giấm với hành và nhũ hương...”
“Lilly,” James nói khẽ. “Bà nó à, làm ơn ngồi xuống đi.”
“Tôi phải lấy một đĩa cho Ted cái đã. Thằng bé lái xe cả ngày rồi. Gia đình con thế nào, Ted?”
“Gia đình con là nơi tập hợp các nền văn hóa, nhà con đa dạng lắm,” Ted nói và đứng dậy, rồi nhẹ nhàng đón lấy đĩa từ tay Lilly. “Con tự lấy được mà, Lilly. Sao mẹ không ngồi xuống nói chuyện với Sabina?”
Đôi mắt bà vẫn đỏ hoe. Lilly nhìn tôi và nước mắt lại dâng lên. Bà đưa đĩa cho Ted, rồi siết chặt hai tay với nhau và gật đầu với tôi. Cuối cùng, bà cũng vòng qua bàn để ngồi cạnh tôi.
“Mẹ không thể tin con đang ở đây,” bà thì thầm. Miệng tôi đang đầy bánh rán và tôi lẩm bẩm điều gì đó, hy vọng nó thể hiện niềm vui của mình. “Thỉnh thoảng, mẹ lại có những giấc mơ như thế này. Chỉ có điều, ngoài đời con còn xinh đẹp hơn trong giấc mơ của mẹ.”
“Mẹ chỉ nói vậy vì con trông giống mẹ thôi,” tôi cố pha trò khi đã nuốt hết. Bà ngắm nghía tôi thật kỹ, thu hết hình ảnh của tôi vào mắt. Đương nhiên rồi. Trong tình huống này, tôi đã mong đợi bà sẽ thể hiện cảm xúc mãnh liệt. Tôi chỉ không mong sẽ cảm thấy khó xử, nhưng ngồi đây như một tượng đài, đối với một người phụ nữ mà tôi không biết rõ, lại khiến tôi e dè.
“Trông con giống mẹ thật,” bà vẫn nói rất khẽ. “Nếu tình cờ gặp trên đường, chắc chắn mẹ sẽ nhận ra con. Mẹ đã luôn tìm kiếm con.”
“Trang trại này,” Ted bỗng nói và tôi nhìn anh đầy cảm kích. “Có bao nhiêu thế hệ sống trong gia đình này vậy ạ?”
“Bốn,” James dựa lưng vào ghế và nói. “Cụ của bố gộp nhiều lô đất lại thành mảnh đất mà hiện nay nhà ta đang sở hữu. Ở kế bên, em trai của Lilly - Henri và vợ ông ấy sở hữu mảnh đất thuộc về nhà mẹ của Lilly cũng qua bốn thế hệ rồi.”
Thật lạ lẫm khi tôi ngồi trên mảnh đất đã thuộc quyền sở hữu của gia đình tôi hàng trăm năm nay. Tôi nghĩ phần nào đó của tôi ít nhất nên có cảm giác như đã về nhà, nhưng tôi chẳng cảm thấy gì quá sâu sắc, chỉ kiệt sức, căng thẳng và không thoải mái. Và, may mắn thay, cả đói nữa.
“Gia đình bố mẹ có đông người không ạ?” tôi hỏi.
“Bố có một anh trai đang sống ở Melbourne,” James nói với tôi.
“Mẹ có bảy anh chị em,” Lilly khẽ nói.
“Ồ.”
Cả hai người đều cười vì vẻ ngạc nhiên của tôi.
“Hai con sẽ... hai con có nghĩ là sẽ có thêm...” Lilly nhìn xuống bụng tôi và tôi bật cười.
“Vài đứa nữa ạ, hy vọng là thế.” Ted trả lời thay tôi. “Không phải bảy. Có lẽ, hơi muộn để đẻ nhiều như vậy rồi.”
“Chúng con đã đi nhiều nơi, tới tận vài năm trước,” tôi giải thích, dù tôi chắc chắn mình không cần phải thanh minh. “Sau đó, chúng con ổn định. Đến nay mới đúng thời điểm. Bố mẹ có ba đứa cháu rồi, phải không?”
Tôi muốn dùng từ khác và khi nói ra, tôi định như thế. Phút cuối, tôi đã sửa lại. Thay vì hỏi họ có phải họ đã có ‘ba đứa cháu khác rồi’ phải không, tôi chỉ xác nhận rằng họ đã có ‘ba đứa cháu’. Có vẻ hơi vồn vã khi coi đứa con chưa ra đời của tôi là cháu của họ.
“Simon và vợ nó - Emmaline cũng lần lữa. Nó kém con ba tuổi và hai đứa trẻ song sinh vừa ra đời năm nay. Còn Charlotte thì...” James và Lilly trao đổi bằng ánh mắt. “Con bé kết hôn rồi ly hôn sớm. Năm nay, Neesa 12 tuổi, còn Charlotte thì 34. Con bé kể nó có thai từ cái ngày hoàn thành chương trình học nghề. Rồi đương nhiên chồng nó bỏ đi và hầu như nó tự vun vén từ đó đến nay. Mẹ không thể tin con cũng là giáo viên.” Lilly cười thật tươi, rồi hít một hơi mãn nguyện. “Hẳn là có gen rồi. Ai mà ngờ?”
“Không phải con,” tôi cười nhẹ. “Cha mẹ thuyết phục con lấy bằng thạc sĩ ngành sư phạm. Con không định dùng tới nó cho tới khi đi nước ngoài về và nhận ra mình cần phải làm gì đó chứ không phải chỉ hát hò trong quán bar 1 đêm mỗi tuần.”
Nói xong, tôi mới nhận ra mình vừa nhắc đến cha và mẹ. Tôi đợi họ phản ứng, nhưng Lilly tiếp tục cuộc trò chuyện như thể chưa nghe thấy gì.
“Mẹ đảm bảo con thừa hưởng giọng của bà ngoại, bà chưa từng được đào tạo nhưng vẫn hát hò suốt ngày. Hồi xưa, bà thường vừa dạo quanh trang trại vừa nghêu ngao hát. Cả nhà chỉ cần nghe tiếng hát là biết bà đang ở đâu.”
“Mẹ và bà có thân thiết không ạ?” Tôi hỏi và mắt mẹ ánh lên nỗi buồn.
“Với ông bà ngoại thì chuyện lằng nhằng lắm,” bà lẩm bẩm. “Từ khi mẹ bỏ nhà đi, mẹ và bà đã không nói chuyện trong nhiều năm. Tới trước khi bà mất, mẹ và bà mới làm hòa... nhưng mẹ ước bà có thể nghe con hát, hẳn bà sẽ tự hào lắm.”
“Charlotte và Simon có thích âm nhạc không ạ?”
“Charlotte giống bố. Con bé còn không bật iPod theo nhịp được,” James cười khúc khích. “Simon có thể có chút năng khiếu nhưng không muốn phát triển nó. Neesa thì...”
“Phải, Neesa ra dáng ca sĩ đấy. Con bé còn nhỏ tuổi nhưng đã thực sự đam mê ca hát. Cả nhà đều rất háo hức được gặp con vào bữa tối mai.”
“Con cũng rất nóng lòng mong được gặp họ,” tôi nói. Phấn khởi và hoảng hốt.
Đâu đó trong nhà, một chiếc đồng hồ đổ chuông. Chúng tôi nghe ngóng, ai cũng nhẩm đếm tiếng chuông.
“Mười một tiếng,” James nói, như thể ông không tin nổi. “Lilly, tốt nhất là chúng ta nên để hai con đi ngủ khi chúng ăn xong.”
Tôi thấy Lilly xịu mặt và tôi với tay sang nắm lấy tay bà.
“Chúng con ở đây cả mấy ngày cuối tuần mà,” tôi khẽ nói và mỉm cười với bà. “Mẹ con mình còn rất nhiều chuyện để nói. Ngày mai, chúng ta có thể nói chuyện cả ngày.”
Bà cũng mỉm cười, rồi bà nắm tay tôi, ngón tay chúng tôi đan chặt vào nhau.
“Nào,” James đứng dậy. “Bố sẽ đem hành lý của các con về phòng.”
***
Khi đèn tắt, căn nhà chìm trong tĩnh lặng, Ted và tôi cuộn mình trong chăn. Tôi quay sang anh và thì thầm,
“Bà ấy hơi căng thẳng.”
“Cũng không có gì lạ.”
“Em biết.”
“Em thấy thế nào, Hạt Đậu?”
“Ổn, ổn. Em vui vì chúng mình đã ở đây. Em đang mong ngày mai sẽ đỡ...”
“Ngượng ngập?”
“Ngượng ngập. Em cảm thấy thật tồi tệ khi nghĩ thế. Bà ấy thật tuyệt... nhưng em thấy có chút choáng váng.”
“Họ có vẻ là người tốt.”
“Em có rất nhiều câu muốn hỏi mẹ. Tối nay, em thậm chí còn muốn hỏi bà những câu đơn giản, nhưng bà có vẻ mỏng manh quá.”
“Anh biết. Nhưng không phải điều đó khiến em thắc mắc... Chúa ơi, người phụ nữ tội nghiệp đó đã phải trải qua những gì chứ?”
Ted đã ngủ say từ lâu nhưng tôi vẫn nghĩ mãi về câu hỏi đó.