Megan
Tháng Chín, năm 1973
Tôi vẫn luôn cảm thấy cuộc đời nên công bằng. Bạn không nghĩ rằng nếu kẻ xấu gặp chuyện xui xẻo, người tốt được hưởng phước lành - nếu mọi người nhận được đúng những gì họ đáng được nhận thì sẽ hợp lý hơn nhiều ư?
Nếu cuộc sống diễn ra như vậy, tôi đã không bao giờ biết tới Nhà Hộ Sinh thành phố Orange. Thời điểm đó, lẽ ra tôi đã an cư tại Balmain, bận rộn chăm sóc con cái. Và nếu cuộc sống diễn ra như vậy, Lilly Wyzlecki đã không bao giờ gặp tôi. Nếu chúng tôi gặp nhau trong một thế giới công bằng, tôi cam đoan chúng tôi sẽ là những người bạn tốt - mỗi người có một đàn con, sống vui vẻ, không biết gì về một thực tại khác, ở đó, cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi sẽ thay đổi cuộc đời cả hai.
Tôi làm việc ở nhà hộ sinh được gần một tháng thì cô bé được tiếp nhận vào và tôi sẽ không bao giờ quên ấn tượng về cô bé vào ngày đầu tiên đó. Lilly 16 tuổi, nhưng trông trẻ hơn nhiều so với tuổi thật và kể cả đến cuối thai kỳ, trông cô bé vẫn chẳng giống người đang mang thai chút nào. Có thể là do ảo giác nhưng trông cô bé trẻ lắm, hoặc có lẽ là do dáng người hơi mập, nhưng kể cả những ngày trước khi cô bé sinh, thỉnh thoảng, tôi liếc nhìn và chỉ thấy một thiếu nữ hơi đẫy đà chứ không phải người sắp làm mẹ.
Lilly có đôi mắt nâu to tròn, mọi cảm xúc của cô bé hiển hiện trên đó như máy chiếu lên màn hình rạp phim. Cô bé không hề giấu diếm hay tính toán, cô bé thật như đếm vậy. Những ngày đầu ở nhà hộ sinh, tôi nhìn thấy vẻ ngây thơ đáng mến của cô bé, rồi tôi chứng kiến nó dần tan biến. Tôi cũng khó chịu với mọi mặt của nơi này và buồn phiền thay cho tất cả những sản phụ khác, nhưng Lilly thì khác. Tôi không thể giữ khoảng cách với cô bé vì mỗi khi nhìn thấy Lilly, tôi lại nhớ rằng những gì đang xảy đến với cô là sai trái, bất công và cô bé hoàn toàn không đáng bị như vậy.
Tôi nghĩ thế về tất cả các cô gái, nhưng với Lilly thì tôi biết rõ là thế.
Không ai có quyền tước đoạt niềm hạnh phúc của người khác, nhưng ở đây chúng tôi làm vậy với các sản phụ. Chúng tôi đánh cắp hy vọng khỏi họ và tôi chứng kiến quá trình từ từ diễn ra mỗi khi ánh mắt tôi và Lilly giao nhau. Cô bé ngây thơ và lạc quan, thông minh và dịu dàng - nhưng sau đó, cô bé bối bối và lo âu, rồi suy sụp và hoảng sợ. Và mỗi sắc thái của từng cảm xúc đều hiển hiện ngay trên mặt cô bé.
Bố mẹ Lilly phát hiện ra cái thai muộn và cô bé chỉ ở với chúng tôi vài tháng. Đó là vào một buổi chiều thứ Sáu đầu tháng Chín, khi June Sullivan bảo tôi rằng họ chuẩn bị kích đẻ cho cô bé. Lilly có vẻ trầm cảm nặng, hầu như tuyệt thực và June nói rằng các bác sĩ lo cho an nguy của đứa bé. Họ không thể tính toán chính xác ngày cô bé sinh con, nhưng dựa vào kích cỡ của đứa bé, họ chắc chắn chỉ vào tuần nữa, Lilly sẽ sinh.
Khi June nói sắp có ca kích đẻ, tôi không ngờ cô ta ám chỉ ngày hôm đó. Hôm thứ Hai, khi đi làm, tôi lúng túng khi nghe họ nói Lilly đã đau đẻ suốt mấy ngày cuối tuần. Tôi đến buồng sản, nhưng các bà đỡ bảo tôi rằng trong phòng đang rất căng thẳng và tôi không nên cắt ngang.
Thế là sáng hôm đó, tôi ngồi trong phòng trực và hồi hộp đợi tin. June làm giấy tờ rất cẩu thả nên trong khi chờ đợi, tôi cố hoàn thành hồ sơ của ca nhận nuôi trước, nhưng gần như không tập trung được. Gần đến giờ ăn trưa thì điện thoại reo và sau cuộc đàm thoại lặng lẽ, June quay sang tôi và lắc đầu.
“Liliana W. có vẻ không ổn rồi”
“Có vẻ không ổn ư?” tôi ngây người nhắc lại.
“Đến rặn cũng lười. Họ tính đưa con bé vào phòng mổ.”
Tôi rời khỏi phòng trực, phớt lờ tiếng June hốt hoảng phía sau, tôi chạy thẳng tới buồng sản. Ngay khi đẩy cửa, tôi thấy ngay cô bé đang gặp rắc rối nghiêm trọng.
Họ trói cô bé vào giường. Cổ tay bị giữ bằng dây trói da to bản, chảy máu và thâm tím sau hàng giờ vùng vẫy. Lilly đang nằm ngửa, chìm lút vào đệm và một bác sĩ sản khoa đang loay hoay giữa hai chân cô với chiếc kẹp. Mấy người đang gào lên bắt cô rặn, một bác sĩ khác ấn bụng cô bé.
Mắt Lilly đang mở nhưng trống rỗng - cô bé đang nhìn chòng chọc về phía cửa sổ. Môi khô nứt, một vệt máu khô đọng lại dưới cằm.
Trong thời gian Lilly ở nhà hộ sinh, chúng tôi đã nói chuyện vui vẻ đôi lần. Tôi ngưỡng mộ cô bé và tôi chắc chắn rằng dù tình hình hiện tại có khó khăn, cô bé vẫn đủ mạnh mẽ để bước tiếp và gầy dựng một tương lai tươi sáng cho bản thân. Tôi đã định nhắc Lilly nhớ tới sức mạnh đó khi cô bé tập thích nghi với việc phải sống mà không có con. Khi nhìn thấy cô bé trên giường, tôi biết mình không thể đợi lâu đến thế.
Tôi cởi trói ở tay cho Lilly, cúi xuống và bắt cô bé nhìn vào mắt tôi. Đôi mắt cô đờ đẫn - có Chúa mới biết bọn họ đã tiêm thuốc gì cho cô bé. Tôi được biết chuyện các bác sĩ cho các cô gái ở nhà hộ sinh uống thuốc an thần trong khi sinh là chuyện bình thường. Họ sẽ thấy thoải mái hơn, June từng nói với tôi, nhưng dù thuốc đó có là gì thì nó cũng không làm các cô gái dễ chịu hơn. Họ vẫn đau đớn, nhưng khó mà phản kháng hay kêu cứu - hay rặn, nghĩa là những chiếc kẹp trở thành thông lệ và các cô gái sẽ phải chịu tổn thương nặng nề sau sinh.
Tôi lay nhẹ Lilly, nhưng khi thấy cô bé không phản ứng gì, tôi lại lay mạnh hơn rồi hét lên, cho tới khi cảm thấy cô bé nhận thức được sự hiện diện của tôi. Khi nước mắt dâng đầy trong đôi mắt nâu to tròn ấy, tôi biết cô bé đã tỉnh táo hơn, đủ để nhận ra tôi.
“Cháu làm được mà, Lilly,” tôi nói. Cô bé gật đầu và rên rỉ. Tôi siết tay cô bé chặt nhất có thể. Cô bé khóc thút thít và tôi nhìn các bác sĩ ở cuối giường. “Các bác sĩ định mổ lấy thai à? Có chắc là lâu quá rồi không?”
“Lâu quá rồi,” một bà đỡ lẩm bẩm sau lưng tôi. “Nhịp tim của đứa bé đang giảm, không còn thời gian nữa. Chúng ta phải lấy nó ra ngay... nếu không...”
Tôi chợt nhận ra tiếng bíp trong phòng, tiếng của nhịp điệu bất ổn điểu khiển mọi hành động trong phòng như nhịp trong một bài hát. Nhịp tim quá nhanh, rồi lại quá chậm và giống như những người khác trong phòng, tôi bắt đầu hoảng sợ.
“Nào, Liliana! Vì Chúa, rặn đi!” bác sĩ la lên và tôi nắm lấy vai Lilly, áp mặt tôi vào mặt cô bé.
“Cháu không làm được,” cô bé thì thầm với tôi. Tôi nghe giọng cô bé khàn đặc vì kêu gào suốt bao ngày. “Cháu không thể.”
“Chúng ta sẽ cùng làm,” tôi thì thầm. Tôi nhìn cô bé và hít sâu một hơi. “Rặn theo cô, được chứ, Lilly? Cùng đếm đến mười nào. Cháu làm được mà. Cô biết cháu làm được.”
Cô bé gật đầu, rồi lóng ngóng bám lấy vai tôi. Chúng tôi cùng đếm đến mười, hết lần này đến lần khác, cứ đếm một số, Lilly lại khóc khản tiếng, nhưng cô bé đã làm được - cô bé thật sự làm được rồi, sau bao nhiêu giờ đồng hồ. Lilly đưa đứa bé đến thế giới như thế - mắt cô bé nhìn thẳng vào mắt tôi, tay chúng tôi đặt trên vai nhau. Vài phút sau, đứa bé trượt ra và không khí căng thẳng trong phòng giãn ra theo tiếng khóc yếu ớt nhưng quyết liệt của đứa trẻ, phản đối vì bị lôi ra ngoài không khí lạnh. Lilly đổ ập xuống giường, nhưng rồi ngay lập tức gượng dậy, ngồi thẳng lên.
Tôi có thể nhìn thấy niềm vui thoáng qua trên gương mặt Lilly khi cô bé nhìn đứa nhỏ. Chỉ thoáng qua thôi, nhưng nó thể hiện rõ qua đôi mắt lấp lánh của cô bé. Như thường lệ, họ đưa đứa bé đi ngay lập tức và tôi tự hỏi liệu Lilly có nhận ra mình may mắn đến nhường nào khi các bác sĩ bị không khí căng thẳng vào những phút cuối làm quên dùng gối bịt mắt cô bé như họ vẫn thường làm..
Rồi cô bé sụp xuống, vùi đầu vào gối, trông cô không còn giống một người còn quá trẻ để mang thai và tôi cảm thấy tội lỗi khủng khiếp khi nghĩ đến hai từ Lilly và may mắn trong cùng một câu trước những gì xảy ra với cô bé. Giờ đây, Lilly trông già hẳn đi, héo hon và kiệt quệ. Cô khép mắt lại và tôi chờ đợi những giọt nước mắt tuôn rơi.
“Giỏi lắm, Lilly,” tôi thì thầm, nhưng cô bé quay đầu đi, lưng hướng về cửa sổ. Tôi lại cầm tay Lilly và cô bé yếu ớt siết ngón tay tôi, rồi thả lỏng dần ra. Tôi chợt nghĩ chắc cô bé ngất đi rồi. “Lilly?”
Lilly khẽ lắc đầu và tôi nhận ra cô bé cần suy nghĩ. Tôi buông tay cô ra và lùi lại, cảm thấy thật khó xử và gượng gạo. Không khí trong căn phòng chuyển từ hỗn loạn sang công việc như mọi khi, các bác sĩ thì chuẩn bị cắt nhau thai còn các y tá nhẩn nha bàn tán về ngày cuối tuần.
Tôi ra khỏi phòng và ngay khi ra hành lang, tôi thấy nôn nao trong người - buồn nôn vì sốc. Không có thì giờ để tìm nhà vệ sinh - tôi may mắn tìm được một thùng rác và cúi xuống nôn thốc nôn tháo.
“Chị ổn chứ?” Một y tá trẻ tiến lại đỡ tôi, cơn buồn nôn qua đi và tôi dựa vào tường cho lại sức. Cô ấy hất cằm về phía bụng tôi. “Có phải chị...”
Tôi vội lắc đầu - hơi dữ dội, rồi bắt đầu khóc.
“Ôi, tôi xin lỗi...”
“Khỏi,” tôi nói, có chút to tiếng, rồi lại thấy tội lỗi khi thấy cô y tá xịu mặt xuống. “Tôi xin lỗi. Thật là một buổi sáng mệt mỏi. Giờ tôi ổn rồi, cảm ơn vì đã giúp đỡ.”
Tôi ngẩng đầu lên và bước về phía nhà vệ sinh. Tôi rửa mặt, súc miệng và soi mình trong gương. Trong 5 tháng làm việc ở nhà hộ sinh, đã bao lần tôi cảm tưởng như mình đã ở đáy vực, nhưng chắc chắn chưa có hôm nào tồi tệ như hôm nay.
Tôi đến phòng cho trẻ sơ sinh, bà đỡ đang quấn chăn cho con của Lilly. Có một vết bầm ở bên kia đầu đứa trẻ, một màu tím nhạt lạ lùng đối lập với làn da hồng hào.
“Con gái phải không?” tôi khẽ hỏi.
“Đúng.”
“Cô biết tại sao con bé bị mắc kẹt không?”
“Con bé nằm không đúng chiều, ngôi thai ngược, tư thế đó luôn gây khó khăn mà. Có lẽ nếu họ cho sinh muộn vài tuần, tới khi đứa bé sẵn sàng ra đời thì sẽ dễ sinh hơn. Dù sao cũng xong rồi. Chúng ta không thể đẩy con bé ngược trở lại được.”
“Nhưng nó có ổn không?”
“Tình trạng rất tốt, dù tôi dám chắc chỉ thêm mấy phút là câu chuyện đã khác rồi.”
Tôi thở dài và nhìn xuống đứa bé. Con bé đang ngủ, trông thật yên bình, như thể nó vừa vượt qua chấn thương và giờ là lúc chợp mắt. Tôi thường không chạm vào trẻ sơ sinh, chúng có vẻ quá nhỏ bé và mong manh.
Nhưng đứa bé này có gì đó rất khác. Tôi cảm thấy như thể mình vừa tham gia đỡ đẻ. Tôi dùng đầu ngón tay chạm vào má con bé.
“Tìm được gia đình cho con bé chưa?” bà đỡ mau mắn hỏi tôi.
Tôi thở dài và lắc đầu.
“Vài tuần qua, chúng ta đã sắp xếp cho mấy đứa trẻ rồi, không còn nhà nào đang chờ nữa.”
“Vậy thì nó sẽ vào một tổ chức nào đó? Đôi khi như thế có vẻ không đúng đắn. Chúng ta khiến những bà mẹ trải qua từng ấy chuyện và đứa bé cuối cùng cũng không có gia đình.”
“Có vẻ không đúng đắn,” tôi lặp lại, rồi lại cảm thấy nóng bừng và buồn nôn nên tôi rụt tay khỏi mặt đứa bé. “Tôi sẽ quay lại sau để xem tiến triển thế nào.”
Tôi bước ra ngoài, khí lạnh của mùa xuân phả vào tôi, làm dịu cơn buồn nôn và cảm giác nóng bừng ở hai gò má.
Tôi ở đây 5 tháng rồi và suốt thời gian đó, tôi đã đấu tranh với sự phản đối ngày càng tăng trong nội tâm. Hầu như đêm nào khi đặt mình lên giường, tôi không thể tin mình lại sống qua một ngày nữa. Đôi khi tôi gần như thoát ly khỏi công việc mình đang làm. Có lẽ, cách duy nhất tôi có thể tiếp tục là ngăn cách công việc và đời sống riêng rồi vờ như tôi hoàn toàn không can dự vào những gì đang xảy ra ở nhà hộ sinh.
Grae đã bẫy tôi, bạn thấy đấy. Một hôm, hết giờ làm việc, theo phong cách đặc trưng của Graeme Baxter, anh lướt từ cửa vào ngôi nhà cổ kính của chúng tôi ở Balmain với một chai sâm panh và một nụ cười láu cá, thông báo rằng anh đã được thuyên chuyển tới bộ phận tài chính cho một cơ sở ý tế ở thành phố Orange. Thế đã đủ sốc rồi, nhưng rồi anh còn thuyết phục họ nhận tôi vào làm cùng. Anh cảm thấy chúng tôi cần thay đổi không khí sau những nỗi buồn và vất vả vài năm qua. Thế là anh thẳng tiến, thu xếp một cuộc sống mới.
Ngày đi làm đầu tiên tôi mới nhận ra anh quên không đề cập tới công việc mà tôi được bố trí ở nhà hộ sinh là làm việc với dịch vụ cho nhận con nuôi. Tôi cho rằng mình sẽ chăm sóc người già, giống như tôi vẫn làm kể từ hồi mới tốt nghiệp đại học. Tôi vừa sảy thai lần thứ bảy và không đời nào... đương nhiên không đời nào tôi lại chủ tâm chấp nhận làm công việc phải tiếp xúc với những sản phụ tuổi vị thành niên khốn khổ.
Nhưng đáng lẽ tôi nên biết. Grae từ lâu đã từ bỏ ý định có con. Anh đã không còn chịu đựng được việc cứ chờ đợi, khao khát và hạnh phúc trong chốc lát trước khi nỗi đau quay trở lại, nhưng tôi chắc chắn chúng tôi chỉ cần thời gian. Những điều kỳ diệu diễn ra hàng ngày, tôi đã được chứng kiến trong hơn 15 năm làm nhân viên xã hội ở viện dưỡng lão. Đã bao lần chúng tôi phải gọi gia đình và cha sứ tới để từ biệt một bệnh nhân cao tuổi sắp qua đời, chỉ để bệnh nhân đó tỉnh dậy và đi dạo khắp các hành lang sau vài ngày hay thậm chí là vài giờ? Tôi đã luôn tin rằng sớm muộn gì mình cũng sẽ đậu thai và bằng cách nào đó, cái thai sẽ sống được rồi tất cả những thống khổ này đều đáng giá.
Vả lại, tôi mới là người phải vật lộn qua những lần sảy thai và nếu tôi sẵn sàng tiếp tục cố gắng thì anh là ai mà lại bảo tôi làm khác chứ?
Người ấy là Graeme. Người chồng cứng cỏi, quyến rũ quá đáng và ngày càng gia trưởng của tôi. Và sau vài lần tôi nài nỉ thử thêm lần nữa trước khi xem xét chuyện nhận con nuôi, khi sự thúc giục, chất vấn và đòi hỏi của anh trở nên không thể chịu đựng nổi, tôi đổi chiến thuật trì hoãn, nói với anh rằng tôi yêu công việc và muốn kiên nhẫn chờ đợi thêm chút nữa, trước khi nhận nuôi một đứa con. Và có lẽ có đôi phần là sự thật khi ở viện dưỡng lão, nơi tôi cảm thấy mình đang tạo ra sự khác biệt.
Nhưng rồi anh lại lôi kéo tôi vào một vị trí mà ngày nào tôi cũng phải đối diện với chứng hiếm muộn của mình. Tôi lạc lõng trong nhà hộ sinh, làm việc trong một tổ chỉ gồm hai nhân viên xã hội, cùng với June Sullivan, người luôn hết lòng tin tưởng vào công việc. Từ ngày đầu tiên, tôi đã biết chắc rằng mình đang đi qua sảnh với vẻ hổ thẹn hiện rõ trên mặt và có chuyên nghiệp đến mấy cũng không giấu nổi sự khinh thị.
Không phải tôi phản đối gì việc nhận con nuôi. Tôi thấy rằng trong nhiều trường hợp, đó là cách hữu hiệu để giúp những người phụ nữ trẻ chưa sẵn sàng làm mẹ, giúp các bé có một mái ấm và giúp các gia đình vô sinh.
Tất nhiên, tôi không coi mình là một người phụ nữ vô sinh, có thể chỉ là hơi khó khăn mà thôi và tôi khá chắc rằng chúng tôi không phải nhận con nuôi... ít nhất là chưa cần. Tôi không đơn thuần là muốn một đứa con, tôi muốn một đứa con của chúng tôi... tôi muốn toàn bộ quá trình - ốm nghén, rạn da, sinh nở, hạnh phúc khi nhìn xuống cơ thể mình và chứng kiến tình yêu của chúng tôi kết tinh theo cách tự nhiên. Tôi muốn nuôi dạy con mình mà không cần bận tâm chuyện con bé còn có những gia đình khác ngoài kia... nhớ nó, yêu thương nó và tệ nhất là, bỏ lỡ cơ hội với nó. Hơn nữa, tôi chắc chắn rằng cô gái nào trong nhà hộ sinh cũng có thể nuôi nấng con của họ nếu được hỗ trợ đầy đủ. Tôi cảm thấy thật độc ác nếu thuyết phục họ tin vào điều ngược lại.
Grae thì khác, anh nghĩ rằng công việc này là sáng suốt và anh không hiểu được nỗi vất vả của tôi. Ban đầu, khi tôi đi làm về, lòng khó chịu và bực bội, anh tìm đủ cách để khích lệ tôi. Anh bóp lưng cho tôi, rót rượu và bảo tôi cố gắng lên. Anh độc thoại về các ích lợi của việc nhận con nuôi đối với những người mẹ tuổi thiếu niên, tua đi tua lại những lời dối trá mà ngày ngày tôi vẫn phải nghe từ miệng June... cố ý quên rằng tôi đang nhìn thấy khía cạnh nhân đạo của việc đó và rằng tôi còn hiểu thực trạng của nó hơn anh nhiều.
Khi tôi khó chịu ra mặt, anh lại nhắc tôi rằng bệnh viện đã hào phóng thế nào khi tìm cho tôi một vị trí để chúng tôi có thể chuyển nhà và nắm bắt được cơ hội ngàn vàng này. Anh nhanh chóng kết thân với tổng giám đốc của bệnh viện và nhắc đi nhắc lại rằng nhà hộ sinh là niềm tự hào của các sếp trong ngành y tế. Lần đầu tiên tôi đề nghị nghỉ việc, Graeme kinh hoàng khi nghĩ các đồng nghiệp của anh sẽ cảm thấy mếch lòng nhường nào và thế là chỉ trong vài giây ngắn ngủi, tôi hoàn toàn từ bỏ ý định đó.
Tôi phân vân và luôn cảm thấy không chắc chắn về quan điểm của mình, nhất là trong những việc hệ trọng như thế này, vì Graeme thường không phạm sai lầm. Cuộc đời đã hết lần này đến lần khác chứng minh cho tôi thấy khi Grae và tôi bất đồng luôn, thường là vì anh hiểu chuyện hơn tôi.
Hôm sau, sau 3 phút làm việc, tôi lại quay lại với kế hoạch nghỉ việc.
Một thời gian sau, có vẻ nỗi khổ của tôi không làm anh bận lòng lắm và anh bắt đầu tránh mặt khi tôi về nhà. Anh nhốt mình trong phòng để nghiên cứu giấy tờ và nếu tôi vào bắt chuyện, anh sẽ phẩy tay, khăng khăng là đang bận và hỏi tôi không thể chờ được sao? Tôi có thể thấy rõ sự bực bội của anh, nhưng chuyện đến nước này là do anh mà ra và khi anh bắt đầu mất hết kiên nhẫn, cũng là lúc tôi bắt đầu cảm thấy oán giận.
Và rồi, Lilly sinh con.