Sabina
Tháng Tư, năm 2012
Sáng hôm sau, tôi thức dậy thì Ted đã đi rồi, giường bên cạnh tôi lạnh lẽo. Tôi trượt xuống giường, vào buồng tắm thay đồ. Dù vẫn có chút hồi hộp và lo lắng, nhưng tôi hy vọng rằng ngày qua đi, tất cả chúng tôi sẽ cảm thấy thoải mái hơn.
Bước ra khỏi nhà tắm, tôi ngửi thấy mùi gì đó hấp dẫn và tự nhiên thấy đói cồn cào. Tôi chậm rãi đi xuống hành lang, tiến về phía có mùi thơm, trước mắt hiện ra một loạt những tấm ảnh gia đình được lồng khung đen đồng bộ. Tôi dừng bước và nhìn một tấm. Lilly và James thời trẻ ngồi trên những chiếc hộp kỳ quặc bọc vải, tựa vào phông nền xanh thẫm. Đứng giữa họ là một cậu trai cao to với kiểu đầu nấm, cười toe toét khoe răng sún và một bé gái gầy nhẳng với mái tóc xoăn tít cùng vẻ mặt cáu kỉnh.
Tôi nhận ra Simon và Charlotte nhờ mail Lilly gửi. Tôi bước tiếp, nhìn những đứa trẻ lớn dần lên trong mỗi bức ảnh và cảm thấy một cảm giác nhung nhớ lạ lùng. Lẽ ra, tôi đã có mặt trong những bức ảnh này. Lẽ ra, tôi đã đứng giữa họ, vì tôi cao nhất, ít nhất là tới trước khi Simon bước vào tuổi thiếu niên. Cảm giác sẽ thế nào nhỉ? Liệu tôi có cau có như Charlotte không? Hay tôi sẽ cười toe toét như Simon?
Ngày càng nhiều câu hỏi không có câu trả lời. Nhưng ít nhất thì tôi đang ở nhà Piper và có khả năng một vài câu hỏi khác của tôi sẽ có lời đáp.
“Chào buổi sáng, sâu ngủ,” Ted nói, khi tôi bước vào phòng khách. Anh đang ngồi ở bàn ăn sáng, trước mặt là một đĩa thức ăn nóng hổi. Lilly đang đứng bên lò nướng, đang lật một loại bánh kếp nào đó, bà mặc một bộ váy ngủ và một chiếc áo choàng. Trông bà mệt mỏi, nhưng ánh lên hạnh phúc. Khi nhìn thấy tôi, khuôn mặt bà rạng rỡ hẳn lên.
“Chào buổi sáng, Sabina,” bà nói, nở nụ cười tươi tắn. “Con ngủ có ngon không?”
“Say như chết luôn ạ.” Tôi vươn vai. “Món mẹ đang nấu mùi thơm quá.”
“Bánh kếp khoai tây, với thịt xông khói và trứng lấy từ trang trại trên đường,” Ted nói với vẻ thích thú rõ nét. “Mẹ Lilly là đầu bếp cừ nhất thế giới. Em phải thử món này mới được.”
Tôi cắn một miếng bánh kếp, mắt mở to, rồi tôi vờ đẩy Ted khỏi ghế để giành đĩa của anh. Lilly cười lăn lộn, tuy trò đùa của tôi không mắc cười đến vậy và tôi nhìn thấy vẻ hãnh diện ánh lên trong đôi mắt bà.
“Cứ như sự kết hợp hoàn hảo của bánh khoai tây chiên và bánh kếp vậy,” tôi nói.
“Đó là món placki ziemniaczane,” Lilly giải thích. “Bánh kếp khoai tây. Một công thức khác được truyền từ ông ngoại con.”
“Ngon tuyệt!”
“Mẹ sẽ lấy cho con một đĩa. James vừa đi làm chút việc ở trang trại. Ông ấy sẽ về sớm và bố mẹ định sẽ dẫn con đi tham quan quanh đây. Chúng ta sẽ làm một vòng quanh vùng đất của nhà Wyzlecki - có một con đường xuyên qua cả hai khu đất.”
Chúng tôi ngồi bên nhau ở bàn và cả tiếng đồng hồ sau, ba chúng tôi chuyện trò thoải mái về cuộc sống. Những chi tiết về một người - họ làm nghề gì, học ở đâu, thậm chí là tiêu khiển thế nào - những điều đó không còn quan trọng, một khi bạn đã biết họ. Trước khi bạn biết những điều cơ bản đó về một người thì họ chỉ là người lạ. Lilly và tôi cần phải trao đổi những thông tin giản đơn về nhau. Chúng tôi ngạc nhiên vì những điểm chung và muộn màng chúc mừng những dấu mốc trong đời của người kia. Lilly bị cuốn hút bởi những chuyến du lịch của chúng tôi, tôi bị ấn tượng vì bà quyết tâm giành được bằng cấp dù đến gần 30 tuổi mới có cơ hội.
“Mẹ luôn muốn trở thành giáo viên dạy lịch sử,” bà nói với tôi. “Từ nhỏ mẹ đã có dự định đó, mẹ nghĩ là bởi vì ông ngoại con di cư tới đây sau Thế chiến thứ hai và bị tổn thương sâu sắc vì những gì đã trải qua ở Ba Lan. Mẹ vô cùng tò mò muốn biết chuyện gì đã xảy ra với ông, nhưng ông chẳng bao giờ muốn đề cập đến nó, thế nên mẹ phải tự mình mày mò. Mẹ nhớ đã cảm thấy hổ thẹn vì những gì đọc được và băn khoăn tại sao ông lại không kể chuyện của mình một cách cởi mở hơn. Giờ mẹ đã hiểu những trải nghiệm đó đã gây ra cho ông những tổn thương tinh thần, nhưng mẹ nghĩ do tính hiếu kỳ hồi còn nhỏ, mẹ luôn thiết tha được dạy lịch sử cho trẻ em. Nếu chúng ta không học từ những sai lầm trong quá khứ, làm sao có thể ngăn chúng tái diễn?”
“Gần đây có trường đại học nào không ạ?” Ted hỏi.
“Giờ thì có một trường ở Orange rồi, nhưng khi mấy đứa nhỏ còn học tiểu học, chẳng có trường nào đủ gần để mẹ học trực tiếp. Mẹ hoàn thành bậc trung học theo hệ học từ xa, rồi lấy phần lớn bằng cấp đều bằng cách đó.”
“Mẹ vẫn đi dạy chứ ạ?” tôi hỏi.
“Ôi trời, có chứ. Mẹ lấy bằng lúc đã lớn tuổi, nên có vẻ sự nghiệp sau này của mẹ sẽ không được dài rộng! Dù vậy, mẹ chỉ dạy ba buổi một tuần và mẹ định duy trì như thế đến hết đời. Thỉnh thoảng, James lại muốn mẹ về hưu và làm cùng ông ấy ở đây, nhưng nếu mẹ phải quay về và cả ngày quanh quẩn ở trang trại, chắc cha mẹ sẽ li dị trong một tuần.” Bà đẩy chiếc ghế đẩu đối diện tôi và tự lấy vài chiếc bánh kếp. “Hơn nữa, mẹ mới 54 tuổi, con biết đấy. Còn lâu mới đến tuổi về hưu, dù mẹ chỉ làm bán thời gian để giúp Emmaline và Simon trông hai đứa nhỏ.”
“Tất nhiên rồi,” tôi nói và cảm thấy thật ngốc nghếch. “Con cứ nghĩ mẹ nhiều tuổi hơn vì...” tôi đột ngột dừng lại, mặt đỏ bừng.
“Trông mẹ già hơn tuổi à?” Bà trêu tôi và Ted bật cười.
“Không, không phải. Chỉ là vì...” tôi hắng giọng. “Vì mẹ con nhiều tuổi hơn.”
“Lúc sinh con, mẹ mới m-mười sáu,” Lilly nói, vẫn nhẹ nhàng, nhưng bà lại đứng dậy dù bữa sáng gần như vẫn còn nguyên và dù biểu cảm trên gương mặt có bình tĩnh, song tật nói lắp lại để lộ nỗi đau của bà. Cuộc nói chuyện đang diễn ra êm ả và xem ra kể cả nhắc tới việc nhận nuôi cũng là một câu nói vấp - một tiếng nấc bất ngờ ngay giữa câu chuyện. Tôi muốn hỏi bà nhiều hơn, nhưng hơn hết, tôi rất muốn sự tương tác thoải mái giữa chúng tôi quay lại và mạnh mẽ hơn.
Tôi chuyển chủ đề. Khi lên tiếng, tôi cố gắng giữ tông giọng vui vẻ và tôi hài lòng vì những câu tiếp theo nghe thật tự nhiên.
“Trông mẹ chẳng giống 54 tuổi chút nào. Bí quyết của mẹ là gì vậy?”
Lilly nhìn tôi mỉm cười.
“Là do gen tốt thôi. Rõ ràng con cũng thừa hưởng gen tốt, nhìn con là mẹ biết. Da con màu nâu chứ không cháy nắng, con không có tàn nhang và màu da màu ô liu đó giữ nguyên quanh năm, đúng không?”
Tôi nhớ lại làn da trắng bệch của mẹ và lại một lần nữa tự hỏi thế quái nào tôi lại không nghĩ đến chuyện chúng tôi không có cùng bộ gen,
“Mẹ nói đúng.”
“Charlotte thì có màu da của James, con bé dễ cháy nắng và tất cả những gì nó phải làm là nhìn vào một ly rượu trước khi mặt nó đỏ au. Nhưng Simon và mẹ... và cả con...” bà mỉm cười và tôi nhận ra chúng tôi đang nói về cái gì đó sâu sắc hơn, “Mẹ con mình là những người may mắn.”
***
Lilly nói rằng cách hay nhất để tham quan trang trại là ngồi sau xe bán tải. Đây chắc là phương tiện làm việc của James, một chiếc xe bán tải đời cũ với phần đuôi xe cũ kỹ. Cửa sổ phía sau bị mất, Lilly coi nó như ‘cái điều hòa’.
Tôi tưởng bà đùa về chuyện ngồi sau xe thăm thú, cho tới khi bà leo lên đuôi xe như một đứa trẻ 10 tuổi nghịch ngợm.
“Như thế có an toàn không ạ?” Tôi ôm bụng, cố nhắc bà nhớ rằng tôi đang mang thai. Bà mỉm cười vẻ khó hiểu.
“Tất nhiên là an toàn rồi,” bà nói, rồi cúi xuống và đưa tay cho tôi. Nhìn thấy tôi vẫn do dự, nụ cười của bà dịu lại.
“Chúng ta không đi nhanh quá đâu, Sabina. Mẹ hứa cả hai sẽ bình an vô sự.”
Tôi vẫn lo lắng, nhưng không thể từ chối, nhất là trước nụ cười dịu dàng, động viên và sự phấn khởi ánh lên trong đôi mắt mẹ. Tôi đưa tay lên và ngay khi bắt được tay tôi, bà thật lực kéo tôi lên. Bà ngồi trên hộp dụng cụ đặt ở cạnh đuôi xe, tôi tự động ngồi xuống phía đối diện. Ted nháy mắt với tôi và trèo vào khoang lái với James.
“Con chưa bao giờ được chở trên đuôi xe bán tải, đúng không?” Lilly đoán. Tôi lắc đầu, rồi vòng tay ra sau lúng túng bám chặt mép khoang khi chiếc xe lảo đảo tiến về phía trước.
“Trong thành phố không có nhiều xe bán tải lắm.”
“Lớn lên ở đó thì thế nào? Con học trường nào?”
“Con học một trường tiểu học tư thục, rồi một trường trung học biểu diễn nghệ thuật.”
“Mấy trường đó tốt chứ?”
“Đó đều là những trường rất tuyệt ạ,” tôi thừa nhận. “Con còn không biết mình may mắn đến thế nào. Trường con đang dạy là một trường tư thục độc lập xinh xắn nhưng chẳng là gì so với những ngôi trường sang trọng của con. Thế còn mẹ đang dạy trường nào?”
“Một trường trung học công lập bình thường. Mấy đứa con mẹ cũng từng học ở đó, cách đây nửa tiếng ở Molong. Đó là một ngôi trường đẹp, nhưng kinh phí eo hẹp, còn học sinh lại không được quan tâm sát sao. Charlotte cũng suýt bị như vậy và hồi ấy, mẹ đang dạy ở đó.”
Chúng tôi trầm mặc vài phút, khi chiếc xe vòng xuống con đường đất gập ghềnh, đi qua một loạt các xi-lô1 và mấy cái nhà kho trông không liên quan. Tôi nhìn các đồng cỏ, cơ man là những loài cây nhỏ xíu mọc lên từ đất, nổi bật lên hàng cây bạch đàn cao vút dọc hàng rào. Nếu mọi chuyện diễn ra theo hướng khác, chắc tôi đã tự do tha thẩn khắp mảnh đất này rồi. Tôi sẽ biết cảm giác ngồi trên đuôi xe bán tải, ngửi mùi đất trong không khí, quen với móng tay đầy đất cát và chắc chắn sẽ có vết chai trong lòng bàn tay giống những vết mà tôi cảm nhận được trên tay Lilly khi bà kéo tôi lên xe.
1 Tháp cao hoặc hầm ủ tươi thức ăn hoặc cỏ cho gia súc trong trang trại.
Sau đó, James lái về phía hàng rào và tôi hết hồn khi ông lao thẳng vào đó. Hàng rào nằm rạp xuống nên xe có thể đi qua. Tôi nhìn hàng dây thép dài bật lại chỗ cũ sau khi chúng tôi đi qua.
“Hàng rào ma thuật ư?”
“Ai còn rỗi hơi đi làm cổng chứ?” Lilly cười.
Chúng tôi đi ngang một nhánh sông, một dòng nước nhỏ trong một thung lũng khá sâu. Lilly giải thích rằng khi trời mưa lớn, dạo này thì có vẻ ngày càng ít, nước sẽ dềnh lên ở nhánh sông nhỏ và đã từng làm ngập đồng cỏ xung quanh. Có những máng thức ăn gia súc ở hai bên, giáp với chiếc cầu bê tông một làn. Chúng tôi tới gần một ngôi nhà, rất giống nhà mà chúng tôi vừa rời khỏi, với hàng hiên bao quanh, một sân nuôi gà và khoảnh đất trồng rau.
“Anh chị em của mẹ vẫn sống gần đây chứ ạ?” tôi khẽ hỏi Lilly. “Ý con là ngoài bác Henri ra.”
“Họ ở khắp mọi nơi. Người thì sống ở Sydney, người thì ở Darwin, một người anh của mẹ thì đang ở Ba Lan. Những người còn lại đang ở Orange hoặc Molong, còn Henri và vợ là Sara thì đang ở đây.”
“Mẹ có cháu trai, cháu gái chứ?”
“Hai mươi tư tiểu quỷ, hầu hết đều đã kết hôn và có con rồi.” Bà nhăn mặt. “Tụ họp gia đình quả là ác mộng. Nhà ta thường họp mặt mỗi năm nhân dịp gì đó. Mẹ nghĩ Giáng sinh này cả nhà sẽ quây quần, mẹ sẽ mời con... nếu con muốn tới, ý mẹ là thế.”
“Tất nhiên rồi. Con cũng muốn vậy.”
“Giáng sinh ở nhà Wyzlecki khá là trọng thể. Theo truyền thống của Ba Lan, cứ đến đêm Giáng sinh, cả nhà lại tụ họp và ăn tất cả các món truyền thống. Vài người trong gia đình sẽ Rước lễ2. Con làm gì vào dịp Giáng sinh? Có phải chỉ có con và...” Bà dừng lại và sự ngập ngừng ấy thật đau đớn. “...cha mẹ của con?”
2 Một nghi lễ của Giáo hội Công giáo.
“Chỉ có 3 người thôi, nhưng ầm ĩ lắm,” tôi khẽ nói. “Con dậy quá sớm, hầu như năm nào cũng thế, cho tới khi 13-14 tuổi. Con dậy từ 1, 2 giờ sáng. Cha sẽ đem con trở lại giường, nhưng tất nhiên, con sẽ quá phấn khích nên không ngủ nổi, thế là ông ấy phải nằm với con và vỗ về tới khi con chìm vào giấc ngủ. Rồi con lại thức dậy lúc 5, 6 giờ sáng. Sau đó thì không gì có thể bắt con quay lại giường nữa, thế nên họ phải dậy theo. Khi con biết đọc, họ để con chia quà. Lúc nào cũng có rất nhiều quà - mẹ con rất khắt khe trong mọi mặt của cuộc sống, nhưng với quà của con thì không. Con sẽ dành cả buổi sáng để mở quà rồi cả nhà tới nhà ông bà ăn trưa, rồi dành cả buổi chiều để sắp xếp lại phòng để cho vừa hết đống quà.” Tôi vừa quan sát đồng cỏ vừa hồi tưởng. Không thấy Lilly bình luận gì, tôi quay sang và nhìn thấy biểu cảm lạ lùng trên khuôn mặt bà. Không phải nỗi buồn mà là cái gì đó rất phức tạp và tôi ngần ngừ, không biết nên chuyển chủ đề hay nói tiếp. Dù gì cũng là do bà hỏi đấy chứ, nhưng tôi bỗng nhận ra thật vô ý khi say sưa kể mình đã trải qua tuổi thơ tuyệt vời thế nào mà không có bà.
“Nghe tuyệt thật,” rốt cuộc bà cũng lên tiếng. “Thế con có đi nghỉ không?”
“Ồ, vâng - năm nào cũng thế. Họ kéo con đi khắp thế giới. Khi con học xong trung học, mẹ con đưa con tới châu Âu và tụi con ở Ba Lan ba tuần. Con mới 18 và được chiều chuộng quá nên không để ý nhiều, nhưng vẫn rất tuyệt.”
“Thật là...” Lilly hắng giọng và nhìn xuống sàn xe. “Ừm, tuyệt nhỉ.”
“Bà ấy còn từng cố làm món Pierogi cho con,” tôi nhẹ nhàng nói thêm. “Chán lắm. Món mẹ làm ngon hơn nhiều.”
Tôi không ngạc nhiên khi Lilly lái sang chuyện khác.
“Kể cho mẹ nghe về Ted đi. Hai con gặp nhau thế nào?”
Chiếc xe xóc nảy trên đường, vòng qua khu nhà vườn, rồi đi qua sườn núi xuống một thung lũng rất dài.
“Chúng con gặp nhau ở trường đại học. Ban đầu, chúng con có chung vài người bạn, rồi đến năm thứ hai thì chúng con kết bạn với nhau. Chúng con đều đang hẹn hò với người khác - ừm, con thì hẹn hò với một người, còn Ted chuyển hết từ cô này sang cô khác.”
Lilly cười lớn.
“Cậu ấy là một anh chàng đẹp trai.”
“À, vâng. Anh ấy cũng biết vậy. Con chưa từng nghĩ một người như Ted mà để ý đến con. Con biết anh ấy thích đi cùng con. Cách vài ngày chúng con lại gặp nhau một lần và Ted luôn là người khởi xướng các cuộc gặp. Con chỉ không tưởng tượng nổi Ted sẽ ổn định, chứ đừng nói là với người bình thường như con.”
“Con không hề bình thường, Sabina.”
“Nhưng con từng như thế,” tôi cười lớn. “Ted có xu hướng cặp kè với các cô mình dây... con thì chắc chắn không phải rồi. Nhưng trong nhiều năm liền, chúng con chỉ là bạn, cho tới khi con ngưng làm việc trên tàu và quay về Sydney rồi... cái duyên cái số nó vồ lấy nhau.” Lilly mỉm cười và tôi hỏi, “Thế còn mẹ và bố James?”
“James hơn mẹ hai tuổi và mẹ khá chắc là mẹ học đi chỉ là để theo ông ấy. Không có câu chuyện bọn mẹ phải lòng nhau - đơn giản là bố mẹ yêu nhau và sẽ luôn như vậy.” Lilly mỉm cười, rồi tôi thấy bà liếc nhìn về phía khoang lái. “Hầu như lúc nào ông ấy cũng khiến mẹ phát rồ. Ông ấy chẳng nói một lời rồi khi ai đó đề cập tới đất cát hay hạt giống là ông ấy nói liến thoắng hàng giờ đồng hồ. Trời ơi, ai lại yêu việc đồng áng thế chứ?”
“Các quý bà, chúng tôi nghe thấy hết đấy, biết không,” James nhắc, qua ô cửa sổ hỏng.
“Tôi biết,” Lilly nhún vai. “Nhưng ông nói nhiều thật mà, James.”
“Tôi đã rất lịch sự đợi cho hai người ngừng huyên thuyên những chuyện sướt mướt để giải thích cho Ted về những loại cây trồng.”
“Đúng là một quý ông,” Lilly nháy mắt với tôi. “Vậy ông nói tiếp đi.”
Khi chúng tôi tiếp tục đi qua hết mảnh ruộng này đến mảnh ruộng khác, James nói vô cùng kỹ càng về luân canh, tạo giống cây trồng và họ đã tăng sản lượng lúa mì lên bao nhiêu bằng cách tuân thủ theo khoa học. Lilly đảo mắt với tôi và tôi cười khúc khích, rồi cũng chuyển qua một câu chuyện khác. Bà kể cho tôi nghe quá khứ bằng hồi ức của bà về trang trại.
Có những nơi đáng ra đã thuộc về tôi - con đập cuối cùng mà Charlotte từng bơi, sau khi con bé bị một con đỉa to tướng bám vào chân vào một ngày hè nóng nực năm 12 tuổi, cái cây mà Simon rơi khỏi và gãy chân, rồi nền đất phẳng nơi James đốt lửa mỗi năm. Lilly kể với tôi về bữa tiệc lớn khi họ đốt lửa lên vào thời điểm lạnh nhất của mùa đông. Rất đông người tới và khi lũ trẻ học trung học, tất cả thiếu niên từ các khu lân cận sẽ tới cắm trại.
“Chúng đã trải qua giai đoạn buồn cười này. Chúng thách nhau khỏa thân rồi chạy qua đồng cỏ.”
“Vào mùa đông?”
“Phải, thường là những lúc lạnh cóng, nhưng điều đó chẳng ngăn nổi chúng. Chúng thách nhau hàng tiếng liền rồi lần lượt biến mất. Con sẽ thấy những vệt trăng trắng từ xa trong bóng tối và nghe tiếng chúng vừa chạy vừa ré lên. Chúng ở đủ xa để giữ thể diện, nhưng đủ gần để con có thể cảm nhận chúng lạnh thế nào. Lũ quỷ sứ. Trong khi đó, người lớn sẽ ngồi bên đống lửa nướng kẹo dẻo hoặc xúc xích và uống sô-cô-la nóng.”
“Ở thành phố thì chúng con không làm thế,” tôi chun mũi và Lilly cười phá lên, cái điệu cười mà tôi bắt đầu yêu thích.
“Mẹ rất mừng khi nghe con nói vậy đấy!”