Về sau khi anh nghĩ lại tới chuyện này, phần tối sầm là tệ nhất, hơn cả cơn đau. Giấc ngủ thì không hẳn, nó không đen kịt lại. Vẫn có thứ gì đó trong não bạn luôn luôn hoạt động, nên khi hổ dữ vào nhà, bộ não sẽ dựng bạn dậy và thúc bạn đi lấy cây thương gia bảo.
Thứ bóng tối mà Lucas rơi vào thì lại không như vậy. Không có phần nào trong não bộ của anh còn tỉnh táo cả. Rồi, vào một vài thời điểm, anh trôi về một trạng thái ngủ xám xịt của người còn sống, để rồi lại rơi vào bóng tối một lần nữa. Quay trở lại, giống như là chết thêm lần nữa, lần nào cũng vậy.
Một đêm tháng Tám nóng nực, ánh sáng những cột đèn đường rung động với quầng sáng do trời ẩm dọc theo đại lộ sông Mississppi. Lucas trút bỏ chiếc áo phông của mình, cởi trần và chạy, người đổ đầy mồ hôi trên đoạn đường dài hai khối phố về nhà anh và lên lối vào ga-ra. Anh không còn chạy nhanh như hồi mùa xuân, trước khi bị bắn. Khi về đến chỗ cửa ga-ra, anh cúi người xuống, tay chống vào đầu gối, thở dốc.
Lỗ đạn ở trên ngực và lỗ đạn thoát ở sau lưng giờ là các đốm hồng của da non và sẹo. Anh bịt miệng, cố ngăn lại cảm giác buồn nôn vừa ập đến và cuối cùng anh đứng thẳng người lên, mồ hôi chảy đầm đìa trên ngực.
Lưng anh đau, mà có lẽ nó sẽ luôn như vậy. Viên đạn đã bay trúng vào phần dưới xương đòn, xuyên qua một góc cơ ngực, khoan một lỗ trên xương bả vai, hớt một ít đỉnh một lá phổi, suýt trúng cơ delta, và thoát ra ngoài tại một chỗ gọi là cơ dưới gai.
Bob kể lại là anh đã chảy máu như lợn bị chọc tiết vậy.
Các bác sĩ bảo rằng sẽ mất tầm một năm cho đến khi anh có thể phục hồi hoàn toàn. Anh từ chối chấp nhận điều đó. Và kể cả khi Weather van nài anh bớt căng thẳng đi, anh đã không thể. Anh đã không thể bởi vì anh sợ bóng tối – cái chết – sẽ đến ghé thăm anh hết lần này đến lần khác.
Và anh sợ sự yếu đuối, rằng cơ thể anh đang chống lại mình. Khi anh bắt đầu đi ra ngoài, đến siêu thị, đến hiệu thuốc, đôi khi anh phải bám tay vào một giá bày đồ để giữ mình đứng vững. Điều đó chưa từng xảy ra. Chưa bao giờ. Các bác sĩ bảo rằng tình trạng run rẩy sẽ hết, nhưng sẽ phải mất một thời gian.
Trong vòng hai tháng sau khi bị bắn, anh ngờ là mình đã mọc nhiều tóc bạc hơn trước, mặt thì nhiều nếp nhăn hơn. Anh đã luôn luôn nghĩ rằng những câu chuyện về việc mái tóc bạc trắng qua đêm chỉ là truyền miệng, nhưng giờ thì anh không còn chắc nữa.
____________________
Điều cuối cùng anh còn nhớ, trước khi tỉnh dậy ở bệnh viện, miệng thì đeo mặt nạ thở và tay thì đầy kim truyền tĩnh mạch, là khi nhân viên cấp cứu trong xe cứu thương quát to giục tài xế chạy nhanh hơn. Anh được đưa đến một Trung tâm Chăm sóc Chấn thương Cấp độ 2 tại Bệnh viện Huntington ở Pasadena và đã ở đó trong suốt mười một ngày. Bob và Rae đến sau anh vài phút. Letty, con gái nuôi của anh, một sinh viên tại Đại học Stanford, đã đến bệnh viện vào buổi trưa, và Weather đến vào buổi chiều muộn.
Khi Letty đến, cô chống nạnh và nói, “Tốt hơn hết là bố phải khỏe lại. Con không muốn phải chịu đựng mấy chuyện đau ốm thương tật này đâu nhé.” Anh nghe thấy con bé nói vậy, rồi chìm vào hố sâu của thuốc gây mê, và khi anh tỉnh dậy thì nhớ lại.
Một bác sĩ nói với Weather rằng hình như Lucas bị trúng một viên đạn bọc toàn sắt, để lại một vết thương sạch hơn so với đầu đạn điểm rỗng. Một ngày sau Rae khẳng định lại điều đó, sau khi khu vực đấu súng được kiểm tra kĩ càng, và nói, “Một lính SWAT nói rằng mấy tên khốn kiếp nặng đô dùng đạn bọc toàn sắt vì chúng nghĩ rằng nó sẽ xuyên qua được các tấm giáp áo chống đạn.”
Và đó là điều mà Weather đã nói. Mấy thứ thuộc về kĩ thuật. Thi thoảng cô lại khóc, nhìn anh, kể cả khi anh cười với cô, còn những lúc khác cô nói toàn những vấn đề chuyên môn với các bác sĩ, nhìn các đoạn phim chụp cộng hưởng từ và các thiết bị đo đạc điện tử, nói chuyện về chiến thuật SWAT với Rae và về việc đáng ra nó phải được triển khai như thế nào.
Các cơ lưng của Lucas giờ sẽ mãi mãi chứa những vụn xương li ti; thà cứ để yên ở đó còn hơn là làm phẫu thuật, sẽ còn nguy hiểm hơn nhiều. Anh cũng có một miếng vá bằng sợi các-bon che lỗ đạn trên xương bả vai, cố định bằng vít để ổn định lại cái xương, hiện đang có các vết nứt xuất phát từ lỗ đạn. Cuối cùng các vết nứt sẽ lành, nhưng miếng vá sẽ ở lại đó.
Ba ngày sau vụ đấu súng, Letty nói, “Bố thực sự có một cái lỗ ở sau lưng. Ý con là, như một cái hố ý. Con có thể đút cả ngón cái vào đó.”
“Đừng làm vậy.” Lucas nói. “Nó đau lắm rồi.”
Đến tháng Sáu, với sự trợ giúp của các phẫu thuật ghép da, cái lỗ đã biến mất.
Nast và một kẻ tên là Randy Vincent đã bị giết trong cuộc đột kích. Nast đã bắn khẩu súng tự động cỡ đạn .223 hạ đo ván Lucas. Người Nast cũng thủng lỗ chỗ do đạn – có lẽ hắn đã bị trúng ba đến bốn viên trước khi xả loạt đạn cuối trúng Lucas, và có thể là gấp mười lần như thế sau đó. Vincent, kẻ bắn khẩu súng ngắn 9mm, đã bị tiêu diệt bởi một viên đạn găm vào mắt. Hắn là kẻ sở hữu chiếc xe đăng kí dưới cái tên Jacob Barber.
Kẻ thứ tư, sở hữu chiếc BMW và bị Bob nhìn thấy tại chỗ ăn sáng, được xác định qua dấu vân tay là John Rogers Cole, đã từng ngồi bảy năm tại nhà tù ở Nebraska do cướp một tổ chức tín dụng.
Hắn lĩnh án nặng hơn bình thường bởi vì một cuộc điều tra trước khi luận án do chính quyền Nebraska thực hiện cho thấy rằng, có thể hắn đã cướp ít nhất tám tổ chức tín dụng khác ở Nebraska và Kansas. Hắn còn có một lần bị bắt giữ ở Omaha, khi mới mười tám tuổi, do nhìn trộm. Người ta đã ngưng truy tố tội danh đó và hắn được tha bổng. Hồ sơ không nói tội danh đó là về quấy rối tình dục hay có khả năng là khởi đầu cho một vụ trộm.
“Đáng lẽ ra chúng ta nên điều tra thêm.” Rae nói. Cô và Bob ngồi bên giường Lucas, hai ngày sau vụ đấu súng. “Những kẻ này đã ở đó ba năm. Chúng ta đã nghĩ rằng thật lạ là tất cả bọn chúng ở đó như trong một kí túc xá. Hóa ra chúng thật sự không sống như vậy.”
“Không phải vậy?” Giọng Lucas nghe như tiếng một cánh cổng han gỉ.
Bob lắc đầu. “Không. Chúng cũng sở hữu căn nhà đằng sau căn chúng ta đã do thám và trồng một bờ giậu đôi ở giữa hai nhà. Anh không thể thấy nó, và chúng tôi cũng không thấy nó cho đến lúc chúng ta ở đó suốt một tiếng và kiểm tra khắp sân. Có hai bờ giậu chạy song song, cách nhau sáu mươi phân, ở rìa sân sau, lên một cái dốc ra ngôi nhà đằng sau. Anh có thể đi từ nhà này sang nhà kia mà không bị phát hiện. Chúng bố trí như vậy để đề phòng trường hợp khi có chuyện ở nhà này, chúng có thể rút lui qua nhà kia.”
Rae nói, “Cảnh sát đã đột kích toàn diện cả trước lẫn sau, và chúng không thể đối phó được, nên chúng đã nổ súng. Chúng tôi không rõ Beauchamps ra khỏi ngôi nhà đằng trước khi nào, nhưng có thể là vào tối hôm trước. Thực tế là hắn có thể luồn ra sau, giữa hai bờ giậu, trong khi trận đấu súng diễn ra, ngay trước mắt các lính SWAT, nhưng có một giường ở ngôi nhà thứ hai hình như là của hắn và có người đã ngủ trên đó.”
“Vậy tại sao chúng đều đỗ xe ở ngôi nhà mục tiêu?” Lucas hỏi. “Chúng tôi không chắc, nhưng tôi nghĩ mình có thể đoán được.” Bob nói. “Ga-ra ở ngôi nhà mục tiêu trông giống như là có hai chỗ, nhưng nó đã được tân trang lại mấy năm trước để chứa được bốn. Chúng ta đã thấy điều đó rồi, và nó làm chúng ta tưởng là có bốn tên ở đó. Chúng ta đã thấy bốn tên đến và đi trong ba xe khác nhau. Ngôi nhà đằng sau chỉ có ga-ra chứa hai xe. Chúng tôi nghĩ Beauchamps và Cole sống ở đó, và Nast cùng Vincent ở ngôi nhà đằng trước. Rồi Deese xuất hiện. Chúng tôi có dấu vân tay của Deese, chắc chắn hắn đã từng ở đó. Chúng tôi nghĩ hắn dọn vào ngôi nhà đằng sau với xe bán tải, và Cole bắt đầu đậu chiếc BMW ở căn nhà mục tiêu.”
“Ngoài ra, chúng tôi thu được bảy trăm bốn mươi nghìn đô tiền mặt và vàng từ chiếc BMW.” Rae nói. “Thêm gần nửa triệu từ hai ngôi nhà, gộp chung lại.”
“Một việc nữa, là cả chỗ đó đã được cài báo động.” Bob nói. “Chúng có chuông báo động ở sân, cả sân trước và sân sau. Những người đến từ sân sau đã đánh thức chúng. Khi mà những người tấn công sân trước đi vào với lựu đạn mù, chúng đã thức dậy và vũ trang rồi.”
“Sẽ rất mất công nghiên cứu để tìm được mấy cái chuông báo đó.” Lucas nói.
“Kể cả nghiên cứu nhiều thì cũng có thể không tìm ra được chúng.” Rae nói. “Những thứ này chỉ bé bằng ngón tay của anh, được gắn lên cây, kết nối không dây với nhau. Chúng ta cũng có thể không thấy bờ giậu đó. Ý tôi là, anh thực sự sẽ không thấy nó từ phía sân bên cạnh, kể cả giữa lúc thanh thiên bạch nhật. Nó trông như là một bờ giậu dày vậy. Anh không thể thấy đó là hai bờ giậu, với một đường mòn ở giữa.”
Đã có hàng trăm viên đạn được bắn trong cuộc đấu súng: ba băng đạn ba mươi viên rỗng được tìm thấy nằm rải rác quanh các cửa sở nơi mà Nast đã bắn khẩu súng tự động, và một băng đạn đang gắn trên súng, mà cũng đã gần hết khi hắn gục xuống. Vincent đã bắn hết một băng mười bảy viên và bị giết khi đang dùng dở băng đạn khác.
Lucas chưa tìm ra xem có bao nhiêu viên đạn do cảnh sát bắn vào, nhưng có thể là gấp vài lần lượng đạn mà Nast và Vincent xả ra.
Deese, Beauchamps và Cole đã lái xe chạy mất trong cuộc đấu súng, và chúng không phải là những kẻ duy nhất. Vài hàng xóm ở cả hai con phố cũng bỏ chạy, và một người ở bên kia đường đã thấy những kẻ ở căn nhà phía sau bỏ đi trong một chiếc SUV và một chiếc bán tải trắng. Người ta không bao giờ gặp lại chúng. Một người hàng xóm nghĩ rằng có một cô gái đi theo chúng, một cô tóc vàng. Cảnh sát LA đã tìm thấy bộ vân tay thứ tư ở ngôi nhà đằng sau, nhỏ, như tay phụ nữ, nhưng họ không có kết quả nào trùng khớp trong hồ sơ liên bang.
“Có các lính SWAT đáng lẽ phải dứng ở dưới đường, cạnh căn nhà phía sau đó, phòng trường hợp có kẻ bỏ chạy, nhưng khi trận đấu súng nổ ra và mọi người bắt đầu la hét về chuyện có cảnh sát bị, thì họ chạy vòng qua ngôi nhà và không có ai đứng canh trên phố.” Rae nói. “Không có ai ở trên phố trong suốt hai mươi phút. Chúng tôi nghĩ Beauchamps và những kẻ khác chỉ nhảy ra xe và lái đi. Cửa ga-ra vẫn mở, nhưng đèn treo đầu đã bị đập vỡ.”
“Có vẻ như là chuyện kỉ luật tồi của mấy tay SWAT.” Bob nói. “Nhưng khi có cảnh sát trúng đạn, mọi thứ thường có xu hướng tan thành mây khói. Tôi không đổ lỗi cho mấy gã bỏ vị trí dưới phố đó. Họ đã liều mạng cố gắng giúp đỡ.”
Bắn nhau rát như vậy mà chỉ có một thành viên của đội SWAT bị thương, đúng thật là một phép màu. Anh ta bị trúng một viên đạn vào nơi mà theo thông cáo báo chí ghi là hông, nhưng Rae nói là mông. “Tôi không nói rằng anh ta là một cảnh sát nửa vời, nhưng anh ta là một cảnh sát nửa mông đấy.”
Vết thương đó thực sự còn tệ hơn của Lucas. Người cảnh sát đó nằm viện tận gần sáu tuần, và anh ta vẫn còn chưa quay lại đi làm vào tháng Tám.
Cảnh sát LA và Sở Cảnh sát quận LA đã triển khai một cuộc tìm kiếm diện rộng với Beauchamps, Cole và Deese, và chẳng tìm được ai. “LA có ảnh chụp chân dung của chúng khắp California và trên Vegas, Portland và Seattle, cả dưới New Orleans, nhưng chúng ta chẳng tìm được gì.” Rae nói. “Chúng tôi tin là cả bốn tên đã sẵn sàng bỏ chạy ngay khi có biến. Cả Nast và Vincent, mỗi tên có hai giấy tờ tùy thân giả, bao gồm bằng lái thật ở California với bảo hiểm xe hơi đã thanh toán đầy đủ. Ở bất cứ nơi nào chúng đến, sẽ không ai tìm được chúng. Và cũng không ai biết tìm ở đâu luôn.”
“Có khả năng chúng vẫn quanh quẩn gần đây.” Lucas nói. “Có bao nhiêu người sống ở miền Nam California? Hơn hai mươi triệu. Những gã này đã có bằng lái California, và biển số xe, và chúng lại còn thông thạo khu vực.”
“Rocha không nghĩ vậy.” Bob nói. “Cô ấy nói là dưới này quá nóng bỏng – quá nhiều khả năng chúng đụng phải một người quen có thể nhận ra chúng và cần sự ưu ái từ cảnh sát. Anh có thể tìm được một sự ưu ái lớn nếu chỉ điểm một băng đảng đã bắn vài cảnh sát trong một cuộc đấu súng, kể cả nếu chúng không phải là những kẻ bóp cò. Chưa kể đến một tên ăn thịt người.”
“Có thể đúng.” Lucas nói. “Mà cũng có thể sai.”
Trong vụ đấu súng, Nast đã bắn được hơn chục viên đạn vào một ngôi nhà bên kia đường. Nó được làm bằng các khối bê tông và không viên đạn nào bắn xuyên qua được. Không ai bị thương, nhưng chủ nhà đã kiện quận LA vì gây nguy hiểm một cách thiếu thận trọng, và Lucas, Bob và Rae có thể bị gọi về làm chứng nếu chuyện đó ra tòa.
Lúc này, trong một đêm tháng Tám nóng nực, Lucas đứng ở lối vào ga-ra nhà anh, đổ mồ hôi đầm đìa, gượng cơn buồn nôn. Anh biết sớm muộn mình sẽ khỏi hẳn, nhưng thứ làm anh khó chịu nhất là sự yếu đuối dai dẳng.
Anh đã bắt đầu chơi khúc côn cầu từ hồi tiểu học, và khi đó, vào những ngày xưa cũ tệ hại, người ta từng nói với anh rất nhiều về sự can đảm và nỗ lực. Anh chưa bao giờ cảm thấy yếu đuối, kể cả khi còn nhỏ. Anh biết, theo lý thuyết, là nếu có thể sống lâu thì có thể đến một lúc nào đó, anh sẽ cảm thấy yếu dần đi.
Nhưng khi bạn già đi, bạn thích nghi, và bạn có thời gian để thích nghi. Nhưng anh thì không có thời gian. Ở bệnh viện, lúc anh có thể đi trở lại, các y tá đã phải giúp anh ra khỏi giường, để dùng nhà vệ sinh. Họ dẫn anh xuống sảnh, đến khoa hình ảnh, đẩy một cây treo với túi dịch truyền, lê bước theo trong một cái áo choàng như một ông già. Họ bay về nhà trên một máy bay riêng, và anh phải bước xuống một cầu thang xuống mặt đường băng, và phải bám chặt thanh lan can cầu thang để giữ mạng, lo sợ rằng đôi chân sẽ không giúp mình đứng thẳng được.
Không giống như bất cứ lần bị thương nào khác – trước đó anh bị bắn hai lần – lần này nó đã trúng vào đầu óc của anh.
Khi anh đứng đó, cố lấy lại nhịp thở, Weather bước ra rồi đặt tay lên lưng anh và hỏi, “Anh nôn ra chưa?”
“Không hẳn.”
“Chết tiệt thật, Lucas, anh đã cố quá rồi đấy.” Cô nói. “Phải cố. Thà kiệt sức còn hơn là để chết dần chết mòn.”
“Đó không phải là hai lựa chọn duy nhất… Mà này, Rae đang chờ máy đấy.”
Lucas đi theo cô vào trong, cầm điện thoại di động của mình lên, và nói, “Chào cô em. Đã cắm cọc Tremanty chưa?”
“Không thể nói chuyện đó được.” Rae nói. “Nghe này, anh bảo tôi gọi cho anh tối nay. Tôi đang gọi rồi đây. Mọi chuyện thế nào rồi?”
“Tôi sẽ quay trở lại LA.” Lucas nói. “Chúng tôi có được theo anh không?”
“Nếu hai người muốn.” Lucas nói. “Tôi thích có bạn đồng hành.”
“Trời, tuyệt.” Anh nghe thấy cô quay đi một lúc và rồi quay lại, “Chúng tôi sẽ quay lại.”
“Bob ở đó hả?”
“Ừ. Chúng tôi xuống đây để xem họ đóng cửa hiện trường tại nhà Deese. Người ta đã lắp hàng rào chống bão cao đến hai mét rưỡi quanh cả khu vực, dành cả ngày để dựng cọc, đổ bê tông chung quanh chúng. Họ biến nó thành một pháo đài. Mười một cái huyệt, mười hai cái xác.”
“Nhân tiện nói về pháo đài, mai tôi phải gọi pháo đài Russ Forte của mình.” Lucas nói. “Tôi không biết chính xác lúc nào… Lịch của hai người như thế nào?”
Họ bàn chuyện xếp lịch, và vì đằng nào họ cũng quay lại California, Lucas muốn dành một ngày để ghé qua Stanford thăm Letty. Cô sắp lên năm cuối đại học và đang cố gắng hình dung ra sẽ làm gì tiếp: học cao học hay đi làm.
“Ý tôi muốn nói là một tuần hoặc độ chục ngày.” Lucas nói. “Tôi đã nói chuyện với Rocha vài ngày trước, và cảnh sát LA đã sa lầy. Họ rất muốn tóm được Beauchamps và Cole, nhưng họ tin rằng chúng đã cao chạy xa bay. Có thể họ đúng.”
“Ta bắt đầu từ đâu đây?”
“Gã Anh quốc ở quán Flower Child. Cô chưa nói với Rocha về hắn, phải không?”
“Có thể tôi đã quên.” Rae nói.
“Được lắm. Chúng ta sẽ bắt đầu từ đó.”
Weather đã biết rằng Lucas đang chuẩn bị sẵn sàng để quay trở lại LA. Cô không phản ứng, nhưng lo lắng về cái đầu cũng nhiều như cái thân anh.
“Lần bị bắn vào cổ họng cũng không ảnh hưởng đến anh nhiều như lần này.” cô nói. Nhiều năm trước, Lucas đã bị bắn bởi một cô gái trẻ với một khẩu súng cỡ đạn .22 rác rưởi và có thể đã chết nếu Weather không ở đó để thông khí quản với một con dao cạo.
“Đó chỉ là một chuyện xui xẻo xảy ra khi em là cảnh sát. Anh không làm gì sai mà. Không có lí do gì để ngờ rằng con bé có súng, nó chỉ là một đứa trẻ.” Lucas nói. Họ đang ngồi trong bếp, nhai những miếng dưa vàng từ cốc nhựa. “Lần này khác. Anh đã làm một việc cực kì, cực kì ngu ngốc. Đáng lẽ anh không bao giờ nên đứng ở sau cái cây và thò người ra ngoài như thế, khi biết là có một tay súng giàu kinh nghiệm và khó chơi ở trong đó với một khẩu súng máy… Thật là quá đỗi ngu ngốc. Anh đã nghĩ trận đấu súng đã chấm dứt và chỉ bước ra một chút để nhìn vào ngôi nhà. Anh cứ liên tục nhớ về lúc đó. Lúc còn trẻ liệu anh có làm thế không? Có phải anh đã mất đi sự sắc sảo?”
“Anh chưa mất đi chút sắc sảo nào đâu, lạy Chúa.” Weather nói một cách bực tức. “Anh quá trẻ để mất đi sự sắc sảo. Thi thoảng người ta vẫn làm những điều ngu ngốc.”
“Kể cả khi ngu ngốc có thể giết họ?”
“Em đọc một bài viết trên trang thời sự nói rằng năm ngoái có ba mươi bảy nghìn người chết trong các vụ tai nạn xe cộ và hơn hai triệu người bị chấn thương. Hầu hết các trường hợp xảy ra do sự ngu ngốc nhất thời.” Weather nói. “Nếu anh vừa điều khiển một phương tiện nặng hai tấn rưỡi đi với tốc độ gần 140 cây số giờ vừa nghe điện thoại, anh là kẻ ngu ngốc. Nhưng ai cũng làm vậy. Kể cả anh. Khi Shrake bị thương mùa xuân vừa rồi và Virgil phải đưa anh ta đi bệnh viện ở Fairmont, Shrake nói rằng phần đáng sợ nhất của vụ đó là khi Virgil vừa lái xe vừa nói chuyện với Tuần tra Cao tốc, nói rằng Virgil suýt giết chết cả hai mấy lần liền. Có thể cậu ta tiết kiệm được năm giây bằng sự ngu ngốc, và thường Virgil không ngu ngốc.”
“Trò thổi phồng của Shrake thôi.” Lucas nói.
“Chẳng giống vậy đâu.” Weather nói. “Hãy thôi u sầu đi. Anh đã làm điều gì đó ngu ngốc. Hãy vượt qua chuyện đó.”
Anh biết cô nói đúng; bản thân cô cũng đã vượt qua một vài thời điểm tồi tệ. Nhưng lần này… khác.
Về lý thuyết, Lucas không tin vào sự báo thù, nhưng có một thời gian dài chơi khúc côn cầu, từ đội Mite đến Squirt, Peewee Bantam một lần Midget bạn phải bắn trả hắn một lần đến trung học, rồi đại học. Nếu ai đó bắn bạn một lần, bạn phải bắn trả hắn một lần. Mạnh hơn. Trong trường hợp này, kẻ bắn anh đã ở ngoài tầm với, hắn xong đời rồi.
Dù vậy, về mặt tâm lý, nó như một phi vụ còn dang dở vậy: ngoài kia vẫn còn ba tên đang nhởn nhơ. Anh phải cho chúng một phát… Và mạnh hơn.
Weather rất nghiêm khắc với anh sau khi anh về nhà. Khi cô đến Huntington, cô đã nửa hi vọng thấy anh đang chết dần hoặc chết rồi, nhưng khi cô đến phòng bệnh và thấy anh đang cố cười với mình, cô quay đi và chạy ra ngoài. Letty đuổi theo sau Weather và kể lại với Lucas sau đó rằng mẹ đã ngất xỉu giữa hành lang, không thể chịu được cơn stress bỗng chốc tan biến.
Rồi cô ấy trở nên rất nghiêm túc.
Ở nhà, cô áp đặt một chế độ dưỡng thương và hồi phục nghiêm ngặt. Vào giữa tháng Sáu, anh tập đi quãng đường dài; đến đầu tháng Bảy, anh tập đi nhanh. Đến giữa tháng Bảy, anh tập chạy nhưng còn yếu. Đến đầu tháng Tám, anh đã chạy khỏe hơn. Đến giữa tháng, anh đã sẵn sàng để tiêu diệt địch, và Weather thả anh ra, để đi làm điều đó.
Nhưng anh vẫn đau, và đôi khi thấy sự yếu đuối lẩn trốn trong sâu thẳm.
_____________________
Ngày 18 tháng Tám, Lucas bay đến San Francisco, thuê một chiếc xe, và lái đến Palo Alto, nơi Letty thuê một căn hộ cho cả mùa hè từ một giáo sư dạy kinh tế hiện đang ở London, để nghiên cứu về tiền tệ.
“Con được một món hời.” cô nói với Lucas khi gọi kể cho anh về căn nhà mấy ngày trước khi Lucas bị bắn. “Con có thể ở đấy với giá hai nghìn đô một tháng. Có bể bơi tuyệt vời, dù thường đầy những gã lập dị. Mọi thứ con phải làm là trông con chó. Con còn chẳng phải lên giường với ông thầy.”
“Tốt lắm, bởi vì nếu thế bố sẽ không phải qua đó và giết hắn.” Lucas nói.
“Con biết là bố sẽ đồng ý mà. Bố gửi chi phiếu cho con được không?”
Anh làm vậy.
Anh đón cô bé ở căn hộ. Khi ra mở cửa, cô lùi lại một bước, và anh hỏi, “Chuyện gì thế?”
“Bố trông như bộ xương biết đi vậy.” cô nói. “Bố khỏe không?”
“Tụt vài cân đấy.” anh trả lời.
“Vài cân thôi á? Đừng nói dối con. Bố tụt từ năm đến bảy cân, mà từ trước đã không có tí mỡ nào rồi. Bố mất cơ bắp đấy. Giờ bố nặng bao nhiêu?”
“Gần đây bố chưa kiểm tra, nhưng bố đã tập chạy chăm chỉ. Bố ổn mà.”
Cô không tin lắm nhưng đi vào nhà để lấy túi đeo vai. Lucas kiểm tra giá sách nhà thầy giáo, gần như toàn bộ là về kinh tế. Và nhiếp ảnh khêu gợi. Anh nhìn qua vài cuốn sách ảnh, và hỏi, “Này, con có chắc là con ổn với gã này không?”
“Có. Ông ta có gợi ý rằng có thể sẽ chụp con vài tấm vào một ngày nào đó, nhưng con kể với ông ta về hai điều luật trước nhất của bố mình về cuộc sống của một cô gái.” Letty nói.
“Bố không thực sự chắc chắn mình nhớ mấy thứ đó.” Lucas nói.
Letty đếm chúng trên đầu ngón tay: “Không xăm; đeo khuyên vào đâu cũng được, nhưng không xăm. Và không bao giờ cởi áo khi đứng gần máy quay.”
“Giờ thì bố nhớ ra rồi.” anh nói. “Phải nói là lời khuyên tuyệt vời đấy.”
“Nhưng bố chưa từng nói với con việc đeo khuyên môi dưới đau đến thế nào…”
Lucas tái nhợt đi. “Lạy Chúa, Letty…”
Cô cười vui vẻ và nói, “Lừa được bố rồi nha. Đi ăn thôi.”
Hai bố con dùng bữa trưa muộn tại một quán cà phê ngoài trời theo kiểu California khá đẹp, với bánh kẹp thịt gà kèm bơ quả thái lát và khoai tây chiên kèm ớt Indonesia và một loại trà tốt cho sức khỏe có tác dụng giúp an thần, hoặc để xổ ruột già, hoặc có thể là làm cả hai điều đó cùng lúc.
“Có hai hướng đi cho tương lai.” Letty nói. “Một người có tầm quan trọng ở Yale nói rằng có thể sắp xếp một học bổng cho con ít nhất là đến khi lấy được bằng thạc sĩ, và có thể là tiến sĩ, nếu muốn đi theo con đường đó. Và thứ hai, Slocum Haynes – bố biết ông ta không?”
“Một tay siêu giàu. Dầu mỏ và hàng không và tàu thuyền và… những thứ khác. Cả tên lửa.”
“Vâng. Ông ta đề nghị cho con một chân thử việc mà con sẽ là một trong những trợ lý của ông ta. Lương thì cũng chỉ gần được thôi. Con có thể thuê một căn hộ một giường ở thành phố Oklahoma. Con sẽ đi rất nhiều. Ông ta cũng nói là chỉ cần hai năm ở chỗ ông ta, con sẽ không cần bằng thạc sĩ hay bất cứ thứ bằng cấp nào khác.”
“Đôi khi các cô thực tập viên trẻ đẹp...”
“Bị diều hâu cú vọ để mắt.” Letty nói. “Bố phải thôi lo lắng cho con đi. Haynes nói rằng con không cần phải quan hệ tình dục với ông ta. Hoặc bất cứ ai ở công ty. Nói rằng ông ta không cho phép. Thực sự dùng từ ‘quan hệ’.”
“Bố mong là con bắt đầu dùng từ ‘quan hệ’ nhiều hơn.”
“Bố, nếu bố không nói ‘đụ’ ít nhất mỗi năm phút một lần, chắc đầu bố sẽ nổ tung quá.”
“Bố không phải là một cô gái trẻ.” Lucas nói.
“Vâng, ờm, con cũng thế, vẫn chưa là thế.” Cô bé đã hai mươi mốt tuổi, nhưng anh biết ý cô bé là gì.
“Bố không hiểu biết đầy đủ mọi thứ để khuyên bảo con.” Lucas thú nhận. “Thật là hay ho khi con đặt lên bàn cân bằng cấp ở Yale với một công việc lương thấp. Điều đó gợi ý cho bố thấy rằng con nghĩ công việc có thể có giá trị hơn… về nhiều mặt.”
“Con nghĩ có thể là thế. Haynes là một thiên tài. Và con luôn có thể quay lại với bằng cấp.” Letty nói.
“Làm sao ông ta nghe về con?”
“Ông ấy được mời đến đây để dự một hội thảo.” Letty kể. “Con đã thích nó, con ngồi vào và hỏi một đống câu hỏi. Ông ấy mời con ăn tối, cùng với vài thành viên của khoa. Chúng con nói chuyện và vài ngày sau ông ấy gọi cho con và đưa lời đề nghị.”
“Con có hỏi gã thầy dâm dê của mình về chuyện đó không?”
“Có. Ông ấy hỏi nếu con không nhận việc chỗ Haynes, liệu con có thể đề cử ông ta không. Con nghĩ là ông ta đùa, nhưng con không chắc lắm. Ông ấy nói rằng nếu Haynes thích con, con sẽ giàu có và quyền lực.”
Lucas xoa cằm và nói, “Bố không thích nói về cái trò này lắm, nhưng… bố suýt thì bị giết cuối tháng Năm vừa rồi. Chỉ cần chệch xuống vài phân và sang phải vài phân…”
“Con biết điều đó rồi. Chính xác là bố đang nói về cái gì thế?”
“Di chúc của bố. Weather lấy phần lớn, nhưng nếu mai bố bị giết thì con sẽ có mười triệu.”
“Giời ạ. Và con quên mang súng theo người.”
“Bố không đùa đâu.” Lucas nói. “Ý bố muốn nói với con là, dù con làm gì, con không cần phải bắt đầu tiết kiệm cho tuổi nghỉ hưu. Khi bố mất, con sẽ khá giàu có. Nếu mẹ Weather mất, con còn giàu hơn. Con là đứa nhóc có quỹ ủy thác. Con không cần Haynes.”
Letty nhìn xuống mặt bàn, rồi nói, “Bố đang nói với con là con có thể làm gì con muốn. Con không phải làm điều con có thể không thích bởi vì con nghĩ thế sẽ là thận trọng.”
“Đúng rồi.”
“Đó thật là một gánh nặng. Suy nghĩ cho bản thân mình.”
“Đúng là thế.”
Họ ngừng nói chuyện về tiền nong và dành thời gian lái xe đi loanh quanh, bàn luận về vụ của Deese, về Bob với Rae, và về Virgil Flowers, Jenkins và Shrake. Khi anh tiễn cô bé ở chỗ căn hộ, anh đang đối diện với sáu tiếng đi xe xuống LA.
Trước khi ra khỏi xe, cô bé hôn lên má anh, và nói, “Cảm ơn bố. Con cần cuộc nói chuyện này.”
“Hãy nói cho bố suy nghĩ cuối cùng.”
“Slocum Haynes nói rằng con có thể gọi cho ông ấy khi ở nhà vào bất cứ buổi tối nào sau 7 giờ tối theo múi giờ chỗ ông ấy. Để trò chuyện. Con sẽ gọi điện cho ông ấy tối nay. Xem xem ông ấy nói thêm những gì về bản thân và công việc của mình.”
Lucas dành chút thời gian nghĩ về Letty khi lái xe đi về phía Nam qua Thung lũng Trung tâm. Khi cô bé nói, “Và con quên mang súng theo người.” dù chỉ đang đùa, nhưng đúng là cô có một khẩu súng. Cô cất nó trong một hộp gửi an toàn, và một người bạn cảnh sát của Lucas làm việc ở Phòng Điều tra California sẽ dẫn cô ra trường bắn vài lần một năm để xả vài viên đạn 9mm. Lucas đã nghĩ có thể con bé sẽ nhắm đến làm việc cho FBI hoặc có thể là CIA, hoặc mấy cơ quan thực thi luật pháp có vũ trang khác, nhưng mối quan tâm của con bé đã thay đổi tại Stanford.
Anh không biết cô sẽ kết thúc ở nơi nào, nhưng không nghi ngờ gì về việc chỗ đó sẽ thú vị.
Chuyến đi đến LA trôi đi thật nhanh: Anh đến nơi sau giờ cao điểm, và đi đường 5 đến đường 405, dẫn thẳng xuống Marina del Rey. Anh lại lấy phòng ở Marriott, gọi cho Bob và Rae, và gặp họ ở cửa quán ăn.
Cả hai người họ nhìn Lucas gần năm giây, rồi Rae ôm lấy bắp tay của anh và nói, “Trông anh ổn đấy.”
“Tôi ổn mà.” Lucas nói.
Bob: “Trông anh tàn tạ lắm. Có hơi xám xịt. Anh phải bắt đầu ăn mạnh vào đi, anh bạn.”
“Ờ, ờ, tôi ổn mà.” Lucas nói, gỡ tách ra khỏi Rae. “Phải mất một thời gian để mọi thứ trở lại như cũ, nhưng tôi đã hồi phục rồi… Ta làm gì đây?”
“Gã Anh quốc đó đến làm lúc 6 giờ ở nhà hàng Flower Child.” Rae nói. “Chúng ta có thể làm vài cốc bia rồi đi ngủ và bắt tay làm việc vào ngày mai, hoặc ngay bây giờ ta đi thẳng xuống đó và úp sọt hắn.”
“Tôi không cần uống bia.” Lucas nói. “Và tôi có cái sọt đây.”