Los Angeles đang vật vã qua đợt nhiệt cao, với việc cắt điện luân phiên khắp khu lòng chảo. Đại lộ Washington không tối mịt, nhưng nó không được chiếu sáng rực rỡ như hồi tháng Năm.
Trên đường tới quán Flower Child, Rae nói, “Được rồi, chúng ta sẽ úp sọt gã này, và anh nói anh có cái sọt. Cái sọt gì thế?”
“Tôi muốn nói chuyện về đời tình của cô.” Lucas nói. “Tôi không thể tin được rằng cô mất ngần này thời gian để cắm cọc được Tremanty.”
“Cô ấy cũng chả làm được.” Bob nói. “Tôi giải thích tại sao với cô ấy, nhưng cô ấy không tin.”
“Im miệng đê.” Rae nói. “Lí do là gì?” Lucas hỏi.
Rae nói, “Im đi, hai ông kia.”
“Trật tự nào. Tôi đang nói với Bob.” Lucas nói.
Bob kể, “Thì, là một gã bảnh trai có công ăn việc làm, xe xịn, quần áo đắt tiền, và một khẩu súng, và làm việc tại khu trung tâm New Orleans, với một trong số những cộng đồng của những cô nàng tóc đỏ, dân làm tóc, và các cô hầu rượu cocktail ở Dallas lớn nhất và rất được biết đến, tôi tin rằng Tremanty đã có khuynh hướng rất rõ rồi. Rae đã sai lầm về việc bày tỏ sự quan tâm của cô ấy, nghĩa là cô ấy sẽ luôn ở đó khi Tremanty cần một phương án dự phòng, hoặc, anh biết đấy, cảm giác như là đi thay đổi không khí trong một kì nghỉ dài ấy.”
“Sai lầm quá lớn.” Lucas nói. “Không thể tin được cô ấy phạm một sai lầm sơ đẳng đến vậy.”
“Tôi đang vũ trang hạng nặng đấy.” Rae nói. “Im đi và kể cho tôi về cái sọt của anh nào.”
“Tôi có một lời cho Tremanty nè.” Lucas nói với Rae. “Cậu ta như là con trai của tôi vậy.”
“Thêm một lời chết tiệt nữa thôi…”
Lucas nói với Bob, “Cô ấy không chỉ mang vũ khí đâu, tôi nghĩ cô ấy thực ra đang phải chịu đau khổ vì tan nát cõi lòng, ở mức độ nào đó. Tốt nhất là để cô ấy yên.”
“Có thể anh nói đúng.” Bob nói. “Kể chuyện cái sọt của anh đi.” Họ sững lại để nhường đường cho một xe đang rẽ phải suýt thì cán vào ngón chân của họ. “Khi tôi còn đang nằm bẹp trên giường bệnh ở St. Paul,” Lucas nói, khi chiếc xe kia đi khỏi. “tôi gọi điện cho một người bạn cũ mà anh ta tình cờ là Phó Giám đốc FBI.”
Rae nói, “Louis Mallard.”
“Đúng rồi. Không chỉ là Phó Giám đốc mà còn là chính trị gia lớn trong ngành cảnh sát. Anh ấy gọi đến một người bạn ở Scotland Yard...24”
24 Scotland Yard: chỉ Sở Cảnh sát Thủ đô tại London, Anh.
“Anh đùa tôi chắc.” Bob nói. “Scotland Yard thực sự tồn tại à?”
“Và hỏi, một cách lịch sự, về bất cứ thông tin nào liên quan đến Oliver Haar. Họ có một hồ sơ. Haar là thành viên trẻ nhất của một băng cướp giật ở London. Hắn đã quá lắm mồm và cảnh sát London sờ gáy hắn. Họ dọa hắn bằng cái chiêu ‘Đừng làm rơi xà phòng trong nhà tắm’ cũ rích, vì là một thằng nhóc ưa nhìn đang phải đối diện với một bản án khoảng năm năm. Hắn đã thỏa hiệp với cảnh sát để không phải đi tù và khai ra toàn bộ băng cướp.”
“Đáng ra phải thử vận may với miếng xà phòng.” Rae nói. “Có thể lắm. Những kẻ bị hắn khai ra là một đám du côn. Mọi chuyện còn hay hơn nữa. Kẻ cầm đầu, tên là George Wilks, thuộc dạng giàu kinh nghiệm, là kẻ chịu trách nhiệm tẩu tán những thứ hàng mà chúng cướp được, và hắn chia tiền rồi trả từng phần mỗi tuần cho cả băng. Hắn nói với chúng rằng hắn không muốn ai đi mua xe Series 7 hoặc bất cứ thứ gì có thể làm cảnh sát để mắt đến. Chúng có đủ để sống khá tốt, mua những chiếc xe đẹp mắt và ma túy, đi du lịch Ý hay Bồ Đào Nha vào mùa đông, kiểu kiểu thế. Đại khái là Wilks và mấy tên khác phải vào tù. Không lâu sau khi chúng bị bắt, có ai đó phá cửa nhà Wilks khi vợ hắn đi vắng, nạy một bức tường giả phía sau bồn cầu, và lôi ra hai trăm nghìn bảng mà Wilks đã cất giấu ở đó. Haar biết về chỗ cất giấu. Dù chỉ là tin đồn, nhưng cảnh sát London nghĩ có thể đúng là vậy. Trong lúc đó, dân Anh để cho Haar giữ hộ chiếu của hắn – nháy nháy, chớp chớp một cái – và người ta không còn thấy hắn ở Anh kể từ khi nhà tắm của Wilks bị trộm.”
“Oliver hư quá đi mất.” Bob nói.
“Người ta nghĩ thế đấy.” Lucas nói. “Đó là chuyện mười hai năm trước rồi. Kể từ khi ấy, tất cả các thành viên băng đảng đã ra tù, dù có hai tên phải vào lại. Những tên khác vẫn còn dính dáng đến nhiều loại tội ác khác, theo lời cảnh sát London. Nếu Cục Di trú Hoa Kì phát hiện ra Oliver che giấu một tiền án, và có dính dáng đến hoạt động phi pháp ở đây, hắn sẽ bị trục xuất. Quay về Anh. Nơi có thể hắn không muốn đến.”
Rae: “Ố ồ.”
“Đúng thế đấy.”
“Anh kiếm được một cái sọt tuyệt vời đấy.” Bob nói. “Tôi nghĩ vậy.” Lucas nói.
Một cặp đôi trẻ đi qua. Cậu trai mặc áo phông, quần cộc, đi dép lào, và cô gái mặc một chiếc áo không dây ngắn, quần cộc cũn cùng dép quai hậu. Sau khi họ đi qua, Rae nói, “Nhìn ba đứa mình này, đi bộ trên phố mà mặc quần dài và áo khoác. Hai anh nghĩ liệu có ai ở LA không nhận ra chúng ta là cảnh sát? Chúng ta phải thay đổi cách ăn mặc nếu phải điều tra ở đây.”
“Cô nghĩ sao?” Bob hỏi.
“Những thứ mà cậu trai kia mặc: quần cộc, áo phông, nhưng có thể là giầy chạy. Chúng ta mang một ít vũ khí, nên có thể là quần cộc túi hộp. Chúng ta cần đi mua sắm.”
“Mai đi,” Lucas nói. “dù ngay lúc này tôi đang cảm thấy hơi nhớp nháp rồi. Và tôi nói trước cho hai người nhé, nhà Davenport không mặc quần cộc túi hộp.”
Flower Child vẫn còn vắng người. Theo như những gì Lucas nhớ về lời cô phục vụ nói trong lần ghé thăm đầu tiên, nơi này thực sự như một cái chợ xác thịt của dân trung niên, vòng vàng và mọi thứ, dù không thấy mấy bộ vét rộng rãi nào trong tầm mắt. Hoặc bất cứ bộ vét nào, bởi chính lí do đó – trời quá nóng.
Oliver Haar đang đứng ở một bàn lễ tân hình cái bục, nói chuyện với một cô gái trông có vẻ là khách hàng, một cuộc nói chuyện thân thiện. Lucas nhận ra hắn nhờ các bức ảnh chụp do cảnh sát London gửi. Haar già hơn cả chục tuổi, nhưng hắn già mà có nét, với tóc vàng bồng bềnh trên một chiếc trán cao, mắt xanh, mũi dài với hàm răng hoàn hảo, và da hơi ngăm. Trông hắn cũng như vừa bị một chiếc xe tải của hãng Tommy Bahama va phải, vì mặc áo sơ-mi hawaii cổ mở, quần bông màu nhạt, và giày vải không tất.
Dù đang nói chuyện với khách, mắt hắn vẫn chớp về phía Lucas, Bob và Rae, và Lucas nhận ra cái chớp mắt vô thức của gã gian xảo, sự thôi thúc muốn bỏ chạy, dù nó được che đậy nhanh chóng.
Lucas bước đến bàn và nói, “Chào Oliver. Cậu có thể dành một phút để đi lên văn phòng trên gác và trò chuyện không?”
Hắn gật đầu. “Tôi cho là được.” Với cô gái đang nói chuyện cùng, hắn nói, “Sẽ quay lại ngay nhé, bé yêu.”
Khi họ theo hắn đi ra sau quán, hắn quay sang Lucas và hỏi, “Các người là ai?”
“Cảnh sát Tư pháp Hoa Kì.” Lucas nói.
“Tôi chẳng làm gì cả, ngoại trừ làm việc chăm chỉ.” Haar nói. “Tôi có thẻ xanh mà.”
“Chúng tôi không quan tâm đến tình trạng nhập cư của cậu, dù có thể đấy.” Lucas nói. “Tại sao ta không lên gác nói chuyện nhỉ?”
Văn phòng phía ngoài của Heather, trợ lý của Tommy Saito, đang vắng người, và có đủ ghế cho cả bốn người bọn họ ngồi. Haar ngồi vào một chiếc và hỏi, “Nào… chuyện gì xảy ra thế?”
“Chúng tôi cần cậu hợp tác một chuyện. Và nếu có được nó, chúng tôi sẽ đi khỏi đây. Nếu không, chúng tôi sẽ nói chuyện với Cục Di trú về mấy thứ cậu đã bỏ ra ngoài đơn xin thẻ xanh của mình.” Lucas nói. “Không phải là tôi cố để tỏ ra không thân thiện, chỉ là tôi đang cố liệt kê ra… các khả năng.”
Haar gật đầu và hỏi, “Thế mọi người cần gì? Chính xác là gì?”
“Cậu dùng điện thoại công cộng ở tầng dưới như một máy chuyển tiếp hoặc dịch vụ trả lời điện thoại.” Lucas nói. “Không có cảnh sát nào biết ngoại trừ ba chúng tôi, và không có ai cần phải biết rằng chúng tôi từng nói chuyện với cậu. Chúng tôi tìm một gã tên là Marion Beauchamps, kẻ mà có thể cậu biết đến với tên là Martin Keller hoặc Martin Lawrence, nếu có ai đó gọi điện xin gặp hắn.”
Haar nhìn Lucas chằm chằm một lúc lâu, nhe cái miệng lộ vài chiếc răng nhưng không phải là một nụ cười, rồi lắc đầu. “Gã này là một kẻ khó chơi. Nếu hắn biết tôi kể cho các anh, tôi có thể gặp nguy hiểm.”
“Chúng tôi sẽ cố ngăn điều đó. Nếu chúng tôi tìm ra chúng, và chúng sẽ vào tù mãi mãi.” Rae nói.
Haar nghĩ một vài giây, thận trọng nhìn Bob và Rae, rồi quay lại với Lucas. “Đó từng là Martin Keller và Martin Lawrence cho đến thời điểm vài tháng trước. Giờ là Raymond Sherman. Tôi không biết hắn ở đâu, những nếu có ai gọi cho hắn thì tôi có một số điện thoại để chuyển tiếp.”
“Một số đang dùng à?” Bob hỏi.
“Như tôi đã nói, mọi thứ đã thay đổi vài tháng trước, kể cả số điện thoại. Nếu ai đó gọi cho Keller hay Lawrence, tôi không biết họ nói gì. Nếu ai đó gọi cho Sherman, tôi đưa số mới. Tôi mới chỉ có một cuộc gọi cho Sherman.”
“Cậu đã tự mình gọi số đó chưa?”
Haar lắc đầu. “Chưa. Tôi không cần thứ rắc rối đó.”
“Cậu có bao nhiêu khách hàng?” Bob hỏi. “Cho dịch vụ chuyển tiếp của mình ấy?”
“Một vài… mười hai đến mười lăm. Đa số hoàn toàn hợp pháp. Tôi kết nối những người cần luật sư hoặc nhân viên bất động sản… Thậm chí tôi còn có một người chăm sóc chó.”
“Bọn buôn ma túy?”
“Tôi không chơi ma túy.” Haar nói. “Tôi từng hỏi, nhưng bọn buôn mà túy bị bắt. Luôn là vậy. Rồi chúng nôn ra mọi thứ chúng biết. Nên tôi không chơi thứ đó.”
“Làm sao cậu lại có kết giao với Sherman? Ý tôi là lúc ban đầu ấy?” Lucas hỏi. “Dù tên thật của hắn là gì. Hoặc từng là gì.”
“Có một gã thường chơi ở đây rất nhiều lần. Hắn nói hắn đang trên đường chạy thoát khỏi mụ vợ, kể rằng mình có vài trăm triệu tiền cấp dưỡng và phụ cấp nuôi con, và hắn bảo hắn sẽ cho tôi năm mươi đô mỗi cuộc gọi nếu tôi làm máy chuyển tiếp cho hắn.” Haar nói. Hắn nhún vai. “Mọi thứ tôi phải làm là đi hai bước xuống sảnh để trả lời điện thoại, nên tôi đồng ý. Rồi một gã nữa cũng tham gia. Tên tôi được mấy gã này truyền cho nhau. Tôi không biết bọn chúng là ai và làm gì. Tôi chỉ chuyển máy. Sau một thời gian ngắn, tôi bắt đầu nhận ra rằng một số tên là… kẻ xấu. Hai tên, có thể là ba, được lên cả Thời báo LA, và tờ Thời báo thường không viết về bất cứ ai trừ khi chúng làm một vụ gì đó đáng chú ý.”
“Quan hệ của cậu với Sherman như thế nào?”
“Tôi chuyển các cuộc gọi cho hắn. Hầu hết những kẻ đó tôi chưa gặp bao giờ. Sherman – thực ra tôi biết hắn bằng cái tên Keller – đến đây để xem mọi chuyện thế nào. Tôi ngay lập tức biết hắn là dạng chẳng hay ho gì. Nhưng hắn thích chỗ này, và hắn thích các cô gái. Hắn đến đây, như mọi người. Thô bạo hơn nhưng không điên khùng. Vài kiểu phụ nữ chắc chắn sẽ thích thú những gì mà hắn có.”
“Cho tôi số điện thoại mà cậu gọi.” Lucas nói.
Haar móc trong túi quần, lấy ra một quyển sổ địa chỉ màu đen to bằng tấm bưu thiếp và dày ba li. Hắn đọc số điện thoại và nói, “Tôi hi vọng mọi người dùng cẩn thận. Có khả năng không ai gọi số điện thoại này ngoại trừ tôi, nên nếu mọi người gọi vào đó, chúng sẽ biết ai đã khai ra.”
“Chúng tôi sẽ thận trọng.” Lucas nói.
“Tôi ngạc nhiên là cậu không dùng điện thoại thông minh để lưu số, có thể thêm mấy thứ bảo mật nữa.” Rae nói.
Lần đầu tiên Haar mỉm cười, một cái chớp hàm răng trắng, và nói, “Cô biết cách bảo mật tốt nhất không? Hai miếng giấy vo lại và nuốt xuống.”
“Được rồi.” Lucas nói. Anh rút một tấm thiệp ra khỏi ví, viết số điện thoại của mình vào mặt sau, và nói, “Nếu Sherman gọi, hãy gọi cho tôi. Đừng quên. Khi chúng tôi tóm được hắn – mà chúng tôi sẽ làm được – chúng tôi sẽ kiểm tra máy di động của hắn để xem hắn đã gọi cho ai… Và ai đã gọi cho hắn.”
Haar nhìn tấm thiệp, rồi mặt bên kia, và nói, “Tôi cần mua vài tấm thiệp như thế này.”
Rae hỏi, “Như thế nào?”
Haar đưa cho cô xem: cả hai mặt tấm thiệp đều trống, ngoại trừ số điện thoại viết tay. Rae nhìn Lucas và hỏi, “Giải thích đi.”
Lucas nói, “Đôi khi lũ khốn không muốn mang theo một bưu thiếp của cảnh sát trên người.” Và với Haar: “Không có ý ám chỉ cậu là một tên khốn, hay là gì.”
“Thực ra tôi là một chàng trai khá đàng hoàng.” Haar nói. “Với vài tật xấu.”
Nói chuyện thêm chút nữa, và thêm cảnh báo về các hậu quả nếu hắn tiết lộ với ai về cuộc viếng thăm, họ để Haar quay lại bàn tiếp tân.
Rae gọi cho Tremanty ở trên vỉa hè ngoài quán ăn. “Em đang đi với Lucas và Bob. Bọn em có một số điện thoại, nhưng ta cần thận trọng.”
Tremanty gọi lại cho cô khi họ đang đi vào khách sạn. Anh ấy đã nói chuyện với kĩ thuật viên điện thoại ca đêm của FBI, tên là Earl.
“Earl hầu như không làm gì để tránh rút dây động rừng. Cậu ấy chỉ xem các bản ghi và không làm gì khác.” Tremanty nói. “Đó là một máy điện thoại ẩn danh, và đã có bốn cuộc gọi đến và đi. Ở Vegas. Anh đã bảo họ gửi cho bọn em bản đồ thể hiện vị trí chiếc điện thoại khi các cuộc gọi được thực hiện vào thư điện tử rồi. Sẽ mất vài tiếng.”
“Anh biết chúng ta đang bàn chuyện gì ở đây rồi đấy.” Lucas nói. “Chúng tôi muốn tóm được bọn chúng trước khi chúng lại cao chạy xa bay lần nữa.”
“Tôi đang giục Earl đây.”
Lucas, Bob và Rae đều ở cùng một tầng ở khách sạn. Họ đi lên thang máy và bước ra lối sảnh đến phòng của Lucas để bàn xem sẽ làm gì tiếp theo.
“Tôi thà ở lại đây. Nơi này trời nóng, Vegas thì sẽ là một cái lò nướng quái quỷ,” Bob than vãn. Anh đang nhìn vào ứng dụng thời tiết trên điện thoại. Lần lượt là 42, 43 và 44 độ vào ba ngày tới. Nếu chúng ta phải làm việc ngoài trời…”
“Rae nói đúng.” Lucas nói. “Chúng ta sẽ cần quần áo mới. Mai có thể ta sẽ đi mua vài thứ đồ. Sáng mai tôi sẽ gọi điện cho Forte và mua vé máy bay… Hoặc chúng ta có thể lái xe.”
Bob mở qua ứng dụng bản đồ. “Ta phải đến sân bay trước chuyến bay ba tiếng, vì đống đồ đạc, súng ống này, và sẽ mất một tiếng rưỡi để đến sân bay. Ngoài ra, Sân bay Quốc tế LA là một cái khu ổ chuột hạng quốc tế. Chuyến bay thì kéo dài một tiếng, và ta phải lấy đồ và thuê xe ở đầu kia. Tổng cộng, có thể mất đến năm tiếng rưỡi. Hoặc, có thể ta đi xe hơi, đến đó trong vòng không quá năm tiếng, và ta sẽ không phải vướng bận chuyện kí gửi mấy khẩu súng và thuê xe. Và chúng ta có thể rời khỏi đây lúc nào mình muốn.”
“Lái xe thôi.” Rae nói.
“Mua sắm, rồi lái xe.” Lucas tán thành. “Chắc chắn chúng ta nên có bản đồ cái điện thoại kia vào tối nay hoặc sáng mai.”
“Hẹn gặp lại vào bữa sáng.” Bob nói. “Chín giờ nhé.” Lucas nói.
Lucas thức dậy lúc 8 giờ, làm vệ sinh cá nhân, và kiểm tra thư điện tử gửi qua đêm từ phía FBI. Số điện thoại họ lấy từ Haar cho biết có bốn cuộc gọi, ba cuộc đến, một cuộc đi. Cả ba cuộc gọi đến đều từ trung tâm mua sắm Forum ở Caesars, một trung tâm thương mại kèm khách sạn và sòng bạc.
“Có thể bởi vì nơi đó đông và lộn xộn với rất nhiều người đi lại, và anh sẽ chẳng bao giờ tìm được một người ở đó.” Rae nói.
Điều thú vị nhất là cuộc gọi đến duy nhất, được quay số từ một bãi đỗ nhà xe kéo ở phía Tây Caesars.
“Chúng ta phải đến đó xem xét thật kĩ.” Lucas nói. “Khoảng mười phút lái xe từ Caesars, nên có thể chúng đã gọi điện từ Caesars bởi vì cũng tiện. Có thể chúng tụ tập ở đấy.”
“Nghe có lý đấy.” Bob nói.
Lucas dành năm phút nhìn bản đồ của phố Dải Las Vegas, rồi gọi cho thư ký của Forte và nói với cô đặt cho họ phòng ở khách sạn Bellagio. Năm phút sau cô gọi lại và báo rằng có một khách sạn Best Western ở trong phạm vị đi bộ được từ Bellagio, và tiết kiệm hơn. “Tôi không quan tâm quãng đường đi bộ ngắn ra sao, hoặc nó tiết kiệm hơn thế nào, hôm nay ở Las Vegas sẽ nóng 42 độ, và chúng tôi biết mấy gã mình đang đuổi theo tụ tập ở Caesars, là ngay cạnh Bellagio. Hãy thuê phòng ở Bellagio cho chúng tôi và kệ cái vụ tiết kiệm đi.” Lucas nói.
Năm phút sau nữa cô ấy gọi lại để nói rằng họ có ba phòng đặt dưới tên Lucas.
“Chúng ta đi tù cả lũ mất.” Rae nói với Bob, khi Lucas ngắt máy. “Sớm muộn gì, ai đó sẽ tính cộng chuyện di chuyển hạng thương gia và các khách sạn bốn sao, và rồi họ sẽ tống tù cả ba đứa.”
“Không phải chúng ta,” Bob nói. “là Forte thực hiện việc đặt chỗ. Với lại, sau những gì xảy ra ở D.C. năm ngoái, tôi không nghĩ có ai ở đâu đó muốn kéo ta ra tòa đâu.”
“Vậy họ sẽ cho CIA đi giết ta.” Rae nói. “Thế cũng tiết kiệm hơn đấy.”
Họ ăn sáng, lái xe đến Santa Monica – Lucas lái một chiếc xe thuê loại Volvo S90, và Bob cùng Rae lái một chiếc Tahoe công vụ ba năm tuổi do Forte sắp xếp – và đi bộ đến một cửa hàng Nordstrom ở cuối đường dạo phố số Ba ngay khi người ta mở cửa. Lúc 11 giờ, tay bê các túi đựng quần cộc, áo sơ-mi ngắn tay và tất cổ ngắn, họ quay lại xe và hướng về Las Vegas.
Ứng dụng bản đồ của Bob báo về một thảm họa giao thông ở đường 405 Bắc phía bên kia thung lũng, ám chỉ rằng sẽ phải tới tận tháng Chín họ mới đến được Las Vegas, nên họ đi về phía Đông qua thành phố, cuối cùng vào đường 210 đến San Bernadino và rồi đường 15 qua Victorville, ngôi nhà của một thảm họa nhân đạo đang diễn ra tại nhà tù liên bang, rồi đến Barstow, qua sa mạc khô cằn, và đến Vegas.
Đường 15 ở San Bernadino chạy song song, và rất gần – cuối cùng là cắt qua – Đứt gãy San Andreas25. Lucas đã đọc một bài báo trong một tạp chí rằng nếu vết đứt gãy chỉ trượt một cái, là đường 15 sẽ chìm xuống đáy của một hẻm núi. Bài báo kể tiếp, rằng hai tháng sau sẽ có cỏ lăn bay xuống phố dải Las Vegas vốn bị cắt đứt khỏi các đại gia của LA.
Anh không hẳn tin điều đó, bởi vì luôn luôn có đường 405, nhưng đường 405 cũng chạy qua Đứt gãy, nên nó cũng có thể bị đấng tối cao cho tan tành.
Là một cư dân cống hiến của Minnesota, anh không quan tâm lắm về tất cả những điều đó, miễn là Đấng Tối Cao không bóp toang trái đất ra vào lúc anh lái xe qua chỗ Đứt gãy.
Rae đi với Bob trong phần đầu của chuyến đi, nhưng lại đổi sang đi cùng Lucas ở Victorville bởi vì Lucas muốn nói qua vài ý tưởng và gọi vài cú điện thoại, điều anh không muốn làm khi đang lái xe.
Cuộc gọi đầu tiên là đến Bộ phận Sự vụ Điều tra của Sở Cảnh sát Thành phố Las Vegas. Rae được chuyển máy đến một trung úy phụ trách, cô khai báo danh tính, rồi hỏi nhờ lấy thông tin các vụ đột nhập nhà riêng gần đây ở khu vực Vegas và việc chuyển đăng ký xe tại Sở Quản lý Cơ giới cho bất cứ chiếc Cadillac Escalade hoặc Ford F-150 nào vào đầu tháng Sáu. Người cảnh sát nói sẽ lấy thông tin và một điều tra viên tên là Bart Mallow sẽ gặp họ ở quán ăn vặt tại Bellagio. “Hãy gọi điện khi cô gần đến nơi. Tôi sẽ cho cô số máy trực tiếp của anh ấy.”
25 Là một đứt gãy chuyển dạng lục địa, có độ dài khoảng 1300km cắt qua California, Hoa Kì.
Họ đến được Las Vegas trước 4 giờ, với vài lần dừng xe, trong một buổi chiều trời nóng đến độ những luồng nhiệt tỏa ra từ bê tông làm cho các luồng nhiệt ở Louisiana chỉ như muỗi đốt. Họ đánh xe đến Bellagio, đi ngang qua một người đàn ông cởi trần mặc một chiếc quần bơi đỏ, tất ngón chân kẻ đỏ, và son môi, với các hạt lấp lánh rắc trên má và một vòng lá cây ô liu bằng nhựa trên mái tóc tím; anh ta đang nhảy múa theo nhạc đường phố. Ba cô nàng béo bán khỏa thân với các ngôi sao lấp lánh dán trên đầu vú cũng đang hòa theo động tác của anh ta.
Khi họ lấy phòng ở khách sạn, Bob nói, “Đoán xem có gì ở trung tâm mua sắm Caesars?”
“Có liên quan gì đến đồ ăn không?” Rae hỏi.
“Một cửa hàng Cheesecake Factory. Chúng ta đã không có lúc nào để đến cái ở Marina del Rey.”
“Có lẽ là ngày mai,” Lucas nói, “dù tôi đã bắt đầu nghe thấy tiếng động mạch mình co thắt lại rồi. Ta hãy đi tìm chỗ quán ăn vặt đó và xem Mallow có điều gì để nói.”
Mallow trông như một trụ cứu hỏa từ những năm bốn mươi, kiểu như Bob, nhưng nảy nở hơn và ít cơ bắp hơn. Anh ta có bộ tóc vàng cắt đỉnh bằng được chải dầu gọn gàng và một cái mũi đã gãy nhiều lần. Một bên mũi có dán băng màu trắng, nổi bật lên như một cái mỏ gà. “Phẫu thuật Mohs là một trong những biện pháp đối phó với ung thư26. Vẻ ngoài của tôi đã tan tành rồi.” anh nói, khi họ giới thiệu nhau.
“Chỗ này hẳn phải là căn nguyên của bệnh ung thư da.” Bob nói. “Tôi nghĩ mình đã bị mắc một ít trên đường đến đây.”
“Anh nói đúng đó.” Mallow nói. “Mặt khác thì, tôi không còn bị cóng tuyết nữa. Tôi lớn lên ở Rochester, New York.”
“Đánh đổi công bằng đấy.” Rae nói. Và, “Anh có gì cho chúng tôi không?”
Mallow gật đầu. “Có. Nếu mọi người muốn ăn gì đó…”
Họ đi xếp hàng, lấy bánh kẹp, khoai chiên, pizza và Coca, rồi ngồi xuống để xem tài liệu của Mallow.
“Tôi đã tra thông tin về các bạn trên mạng và thấy chuyện về vụ đấu súng hồi cuối tháng Năm.” Anh ấy nhìn Lucas. “Trông anh có vẻ ổn.”
“Giờ thì ổn. Lúc đấy thì tệ lắm.”
“Thật may mắn là anh chưa chết đứ đừ đấy.” Mallow nói. “Tôi bị bắn một lần, nhưng đó là một viên cỡ .22. Trúng vào chân. Không phải chuyện gì nguy hiểm đến tính mạng, hay là gì, nhưng nó đau phát rồ suốt cả năm. Và đôi khi vẫn đau… Đại loại là tôi tra thông tin mọi người, và đã đọc toàn bộ chuyện về bọn đột nhập nhà cửa, gã Beauchamps và tên Cole này, kẻ ăn thịt người, và tôi đoán có thể có một cô nàng chạy trốn cùng chúng. Một tháng trước, đầu tháng Bảy, ở Vegas này, tại khu Kensington Gardens, có ba tên đeo mặt nạ đột nhập vào một ngôi nhà lúc mười một giờ đêm, làm gã quản lý sòng bạc cùng vợ sợ chết khiếp, và chuồn đi với nửa triệu đô tiền mặt và đồ đạc có giá trị. Nó không xảy ra ở đây. Chúng tôi không kết nối chuyện này tới đám tội phạm LA cho đến khi các anh gọi điện chiều nay.
26 Phẫu thuật Mohs được phát triển vào năm 1938, là phẫu thuật được kiểm soát bằng kính hiển vi dùng để điều trị các loại ung thư da phổ biến.
Nghe có vẻ chúng là kẻ mà các anh đang tìm. Mô tả chúng tôi có được khá khớp với Beauchamps, Cole và Deese. Cách thức tiến hành giống với các vụ cướp ở LA, thanh phá cửa, đuổi theo bà vợ, đe dọa cưỡng hiếp – tất cả chuyện đó. Tôi đã nói chuyện với trung sĩ phụ trách các vụ trộm cắp của các anh ở LA, cô Rocha, khoảng một tiếng trước, và cô ấy đồng ý. Cô ấy quan tâm. Và cô ấy gửi lời chào, nói rằng các anh là một nhóm không tệ như cô ấy tưởng.”
“Cảm ơn cô ấy về điều đó.” Lucas nói. “Thế còn những chiếc xe?”
“Vâng. Rất nhiều xe qua lại nơi này, và có đến vài tá xe F-150, loại xe đơn nổi tiếng nhất nước Mỹ, đã qua sử dụng được đăng ký lại khoảng đầu tháng Sáu. Ba xe Escalade, chẳng phải vấn đề gì to tát, nên tôi kiểm tra chúng và không có xe nào có vẻ có liên hệ. Tôi đã nói chuyện với tất cả những người bán, và chúng đều được đăng ký hợp pháp ở đây, tại Nevada.”
“Chuyện này tốt đấy, Bart.” Lucas nói. “Khẳng định điều chúng tôi nghĩ: chúng đang ở đây.”
“Chúng tôi rất muốn tóm chúng – chúng tôi không thích có ai gây rắc rối với các quản lý sòng bạc.” Mallow nói. “Tôi sẽ giúp đỡ các anh hết sức có thể.”
Họ nói chuyện thêm một hồi lâu nữa, rồi Mallow chia tay họ và để lại tài liệu về vụ đột nhập nhà riêng. Lucas nói với Mallow rằng có thể anh muốn nói chuyện với các nạn nhân, và Mallow bảo sẽ thu xếp. “Rõ ràng là họ đã bị điều tra và theo dõi, nhưng họ không hề cảm thấy bất cứ điều gì, không biết chút gì về việc có ai đó theo dõi họ.” Mallow nói.
Khi Mallow đi khỏi, Lucas, Bob và Rae đi lên phòng mình, đổi sang quần cộc túi hộp và áo sơ-mi ngắn tay rộng, để giấu súng của mình. Lucas đã không thể né tránh những chiếc quần cộc bởi vì mấy thứ đồ linh tinh cảnh sát mang theo bên mình, như túi đựng phù hiệu và băng đạn thêm. Anh ngắm nghía mình trong chiếc gương soi toàn thân trước khi rời phòng và lắc đầu. Anh không thường thấy đầu gối mình trong ánh nắng. Không phải phong cách của anh.
Họ gặp nhau ở tiền sảnh, rảo bước qua một tập hợp khổng lồ các máy đánh bạc và lên xuống vài cầu thang cuốn cùng cầu thang bộ, và ra ngoài trời với cái nóng khó tin, rồi vào cửa trước của Caesars. Trung tâm mua sắm Forum nằm cách xa cái thứ giống như một cái sân rộng tới một trăm tám mươi mét chứa toàn máy đánh bạc, đa số không có người dùng, và Bob nói, “Tôi có thể đốt mười đô khi ta ở đây. Có khi là mười hai.”
“Đừng có đốt một phát toàn bộ tài khoản ngân hàng của chúng ta.” Rae nói. Với Lucas: “Chân anh trắng thế, trông như là trong suốt vậy. Nhìn này, Bob. Anh có thể nhìn thẳng qua chúng.”
“Tha cho tôi đi.” Lucas nói. “Tôi ghét quần cộc. Cảm thấy mình như là một gã chơi golf vậy.”
Khi họ đi lên đến lối vào của khu Forum thì một người mặc vét đen với một biển tên bằng đồng chạy theo họ rồi chạm vào vai của Lucas, và nói, “Xin lỗi ông…”
Có thêm hai người nữa mặc đồ đen đi theo sau anh ta, và người đi đầu nói, “Cảnh sát?”
“Cảnh sát Tư pháp.” Lucas nói, “Tôi biết, chúng tôi mặc quần cộc, nhưng ngoài kia nóng lắm.”
Cả ba người kia trông như các cựu cảnh sát hạng nặng hay gì đó, có thể là FBI hoặc ATF27, đều lực lưỡng, với mái tóc đen chải mượt ra sau cẩn thận và đeo nơ cổ màu sáng. Họ phát hiện ra vũ khí mà các Cảnh sát Tư pháp mang theo. Lucas, Bob và Rae lấy căn cước ra khỏi túi, và ba người kia kiểm tra chúng. Rồi người đứng đầu hỏi, “Các anh có chuyện gì xảy ra ở đây ạ?”
“Chúng tôi không chắc.” Lucas nói. “Chúng tôi đang kiểm tra khu vực và truy tìm vài kẻ đã gọi điện thoại từ Forum.”
“Được rồi. Xin hãy chú ý về việc chỗ này đông như thế nào.” Lucas mỉm cười và nói, “Chúng tôi không bắn ai đâu. Hứa đấy.” Người kia không cười đáp lại, nhưng nói, “Được rồi… Xin hãy cố hết sức.”
Lucas nói, “Nếu các anh cho tôi một địa chỉ thư điện tử, tôi sẽ gửi các anh vài ảnh chụp chân dung những kẻ chúng tôi đang tìm. Có thể các anh đã thấy chúng.”
“Chúng đã làm gì?”
“Những tên cướp giật nặng đô.” Bob nói. “Một phần của một băng đảng đã bắn vài cảnh sát ở LA hồi tháng Năm vừa rồi. Đột nhập nhà riêng. Có thể chúng đã cướp nhà một quản lý sòng bạc ở Cyril, và vợ anh ta, ngay tại Vegas này vài tuần trước.”
“Toni và Cal? Vụ trộm đêm?”
“Đúng vụ đó.” Lucas nói.
“Thật là tởm lợm.” người đứng đầu nói. “Tôi nghe nói Toni vẫn còn sang chấn về chuyện đó. Hi vọng các anh sẽ tóm được chúng… dù mất một thời gian các anh mới đến đây.”
“Ừ, thì, chính tôi là một người bị chúng bắn.” Lucas nói.
27 Cục Rượu, Thuốc lá, Súng và Chất nổ
Mấy nhân viên an ninh nhìn nhau, và rồi người đứng đầu nói, “Ái chà.” và một người khác nói, “Chắc đau lắm.” và rồi người đứng đầu lấy một tấm bưu thiếp từ túi và viết địa chỉ email lên mặt sau.
“Hãy gửi tôi mấy tấm ảnh chân dung. Tôi sẽ cho tất cả nhân viên an ninh nhìn ngó xung quanh.”
Lucas gật đầu và đưa một tấm bưu thiếp của mình cho anh ta. “Hãy gọi tôi nếu anh thấy gì đó.”
“An ninh tốt đấy.” Rae nói, khi họ đi tiếp.
“Mọi người có biết tại sao có thể nhận ra rằng họ không phải là cựu cảnh sát tư pháp?” Bob hỏi. “Họ quá còi.”
“Quan sát tốt đấy.” Lucas nói. “Một đám ẻo lả.” Bob lẩm bẩm.
Họ đi vào Forum, một trung tâm mua sắm trong nhà với trần mái vòm sơn xanh, cam và trắng để trông như là một bầu trời chiều mây thưa thớt trên sa mạc. Nhiều lối sảnh được tô điểm bởi các nút giao, trưng bày các hoạt cảnh ngoại cỡ bằng tượng điêu khắc La Mã giả - các vị chúa, nữ chúa, hoàng đế, võ sĩ giác đấu.
“Trời, phụ nữ La Mã thực là có bộ vú đẹp tuyệt.” Bob nói, khi dẫn họ vào. “Ý tôi là ngực.”
Rae: “Anh biết sao không? Họ đều chết khi mới hai mươi tuổi.”
“Tôi không muốn nói chỗ này trông phò phạch…” Lucas nói. “Tôi sẽ nói thế.” Rae đáp. “Trông khá phò phạch. Nhưng không phải là không thú vị. Nó như là một kiểu nghệ thuật riêng biệt. Phò mát Vegas. Tôi hơi thích cái này. Nhắc tôi nhớ để viết cái gì đó về nó và dùng từ ‘Phò mát Vegas.’ Nó vừa chuẩn lại vừa thâm.”
Một nhân viên bảo vệ đi qua trên một chiếc xe Segway; một người nữa đi ngang qua, đội một chiếc mũ có vành kiểu cũ, như những chiếc mũ hiệu Open Road của hãng Stetson mà Tuần tra Cao tốc Texas từng dùng. Anh ta nhìn thăm dò ba người họ, gật đầu, và đi tiếp. Một phút sau, một người nữa đi qua. Và rồi một người nữa.
Rae nói, “Hẳn họ không thích bọn ăn cắp vặt.”
“Tôi hiểu cảm giác đó.” Lucas nói.
Từ nơi họ đứng, Lucas có thể thấy các cửa hàng: Dior, Zegna, Armani, Tiffany, Louis Vuitton, Ferragamo, Versace, Cartier. Hàng tá người đang trố mắt nhìn tại một đài phun nước như thể họ chưa từng thấy nước bao giờ, một vài người dừng lại để chụp ảnh tự sướng với đài phun nước đó làm nền.
“Đài nước làm tôi mắc tiểu.” Bob nói.
“Tôi không chắc anh thuộc nhóm dân mà các nhà thiết kế đang hướng tới.” Rae nói.
Lucas nói, “Hai người biết gì không? Đi lòng vòng ở đây sẽ chẳng đưa chúng ta đến đâu. Có quá nhiều người. Kể cả nếu chúng có ở đây thật thì chúng ta sẽ không thấy được.”
“Ta có thể chia ra, đi càn một lượt.” Rae nói.
“Có thể thử.” Lucas nói. “Làm thế trong nửa tiếng nhé.” Trong khi họ làm như vậy, một trong số các nhân viên an ninh lôi một tờ giấy từ ví của mình, gọi số điện thoại ghi trên đó, và nói, “Anh bảo tôi tìm một khuôn mặt. Hắn vừa đi ngang qua chỗ tôi xong.”
“Hắn ta có ở đó không?” Một giọng nữ, điều anh ta không ngờ tới.
“Tôi không biết.” người bảo vệ nói. “Tôi đang đứng đây như thể đang để mắt tới bọn trộm vặt. Tôi nghĩ anh ta đang đi mua sắm, nên có thể đang trọ ở bất cứ đâu.”
Sau một hồi im lặng, người phụ nữ ở đầu bên kia nói, “Tôi cá là có thể ngay tại đó. Quá nóng để bước ra ngoài trời và đến một trung tâm mua sắm. Không phải là vào lúc 5 giờ chiều. Có thể là 9 đến 10 giờ.”
“Chịu. Dù sao thì, tôi được bảo là sẽ có một trăm đô dành cho tôi, nếu tôi nhớ chính xác.”
“Được rồi. Chúng tôi sẽ liên lạc lại cho anh vào lần tới chúng tôi qua đó.”
Tút tút.
Bất chợt người bảo vệ có cảm giác rằng sẽ không sớm có một trăm đô nào. Lũ lưu manh khốn kiếp.
Khi Lucas đang ở cửa hàng Canali, ngó nghiêng đống cà vạt, thì điện thoại reo. Một cuộc gọi của Russell Forte từ Washington.
“Anh đang chen vào chuyến mua sắm của tôi đấy.” Lucas nói. Và, “Mấy giờ rồi nhỉ? Anh gọi từ nhà à?”
“Ừ. Tôi đang xem HBO và ăn bỏng ngô. Ở đây đã quá 8 giờ rồi. Anh đang ở trung tâm mua sắm Forum tại Caesars phải không?” Forte hỏi.
Lucas nhăn nhó trong điện thoại. “Sao anh biết? Anh cài theo dõi vào máy tôi à?”
“Không, tôi nhận được cuộc gọi từ cái cậu Earl kĩ thuật viên điện thoại. Một thông báo đã hiện ra trên màn hình của cậu ấy. Có ai đó gọi vào chiếc điện thoại mà anh đang tìm. Cuộc gọi được thực hiện từ trung tâm mua sắm Forum. Khoảng sáu phút trước.”
“Ý anh là, có vẻ có ai đó phát hiện ra tôi?”
“Hoặc Bob hoặc Rae. Nhưng có thể là anh.” Forte nói. “Sau khi bị bắn, tên anh xuất hiện trên khắp các mặt báo của LA, nên có thể chúng biết ai đang đi tìm chúng. Có cả triệu bức ảnh của anh trên mạng, kéo dài đến hai mươi năm về trước, ở Minnesota.”
“Chết tiệt. Chiếc điện thoại ở đâu khi nhận cuộc gọi?”
“Cũng cùng chỗ nó trả lời cuộc gọi lần trước, gần khu đỗ nhà xe kéo. Tôi cá là chúng hủy máy sau cuộc gọi đó rồi. Có thể chúng đã di chuyển mất rồi.”
Lucas gọi báo cho Bob và Rae. “Về xe. Mau.”
Anh đã không gặp lại họ do đám đông trong các sòng bạc cho đến khi họ quay trở về Bellagio. Họ đều chui vào chiếc Volvo, Rae ngồi ghế sau, bởi vì cô ấy là người duy nhất trong số họ chui vừa. Bob bật ứng dụng bản đồ trên điện thoại, và hai phút sau họ đã ra đại lộ và đi vòng qua khu nhà rồi tiến về phía Tây.
Đường không đông lắm. Các con phố rộng, các ngôi nhà màu cát phẳng và mái lợp. Họ đến Cộng đồng Nhà lưu động Jacaranda Estates mười lăm phút kể từ khi chạy ra khỏi trung tâm mua sắm Forum, và hơn thế vài phút kể từ lúc cuộc gọi được thiết lập.
Cộng đồng này là một khu đất vuông vắn, mỗi chiều rộng chừng bốn trăm mét, bao bọc bởi bức tường bê tông cao hai mét với lớp sơn trắng đang tróc mảng. Chòi bảo vệ ở lối vào bỏ trống.
Một biển hiệu hình mũi tên nhỏ màu đỏ nằm bên kia đường so với căn chòi bảo vệ và ghi “Quản lý, 300 Dodgers”. Hóa ra các con phố được đặt tên theo các đội bóng chày. “Dodgers” là con phố dẫn ra khỏi lối vào, và họ đi theo nó đến số 300, là một ngôi nhà di động cũ và hoàn toàn bất động, được bao bởi các bông cúc ngũ sắc và cúc vạn thọ cháy nắng.
Họ đỗ xe lại, và Lucas dẫn đầu đi vào cửa. Họ gõ cửa và một người phụ nữ đeo ống cuốn tóc màu tím ra mở, nhìn họ, nhăn nhó, và hỏi, “Các người là ai?”
“Cảnh sát Tư pháp Hoa Kì.” Lucas nói, đoạn cho cô ta xem phù hiệu.
“Các anh nên vào trong đi. Ngoài này nóng kinh khủng, có thể đun sôi nước trên vỉa hè đấy.”
Họ chui vào trong nhà xe kéo, bốc mùi kem và súp nấm, và thức ăn trẻ em hiệu Gerber – đậu cây sậy, Lucas nghĩ vậy, một thứ mùi anh không thể dễ dàng mà quên được, dù là đi vào hay đi ra một đứa trẻ – và người phụ nữ hỏi, “Phải giữ yên tĩnh. Tôi mới đặt thằng nhóc nằm ngủ.”
Lucas cho cô ta xem các ảnh chân dung của Deese, Beauchamps và Cole. Một lúc sau, cô ấy gõ vào bức ảnh của Beauchamps và nói, “Hắn từng ở đây. Ở… Astros. Số 712. Đã không thấy hắn vài tháng nay rồi.”
“Giờ ai ở đó?”
“Sinh viên đại học. Kelly gì đó. Có một con chó lông đen- trắng; anh có thể thấy cô ấy dắt chó đi vào buổi tối. Tôi bảo cô ta, ‘Nghe này em, nếu em ở trường và điều hòa ở đây mà hỏng, cúp điện, con chó sẽ chết ở đây mất.’ Thế nên vài ngày sau cô ấy bảo tôi là đã thu xếp với người phụ nữ sống ở bên kia đường giúp đảm bảo rằng con chó sẽ ổn nếu có vấn đề về điện. Một cô gái tốt.”
“Cô ấy có thân quen gì với gã này không?” Lucas giơ bức ảnh của Beauchamps. “Bạn gái, hoặc gì đó tương tự?”
“Chịu, tôi không ghi nhớ mấy thứ đó. Nhưng tôi không nghĩ vậy. Tôi nghĩ cô ấy thuê từ chúng. Tên này” – cô ấy hất cằm về phía bức ảnh trong tay Lucas – “nói với tôi rằng hắn đi Alaska và không biết chính xác bao giờ về. Hắn để lại cho tôi một nghìn năm trăm đô để sửa chữa và nói nếu tốn nhiều hơn, tôi phải đuổi người thuê đi và khóa lại cho đến khi hắn trở lại.”
“Làm sao cô biết là cô gái kia thuê nó.” Rae hỏi. “Làm sao cô biết rằng chúng không quen biết nhau?”
Người phụ nữ nhún vai. “Tôi không biết. Đó chỉ là những gì tôi nghĩ.”
Lucas nói với Bob và Rae, “Ta đi xem nào.”