Khi Lucas quay lại chỗ chiếc Tahoe sau khi nói chuyện với Smith và Santos, Bob hỏi, “Thế nào rồi?”
“Chúng ta đi tìm một gã tên là Martin Keller, hoặc Martin Lawrence, có thể đang sống ở Marina del Rey, hoặc ở LA hoặc Las Vegas, và từng đi tù.”
“Hắn là ai?” Rae hỏi.
Lucas thuật lại cuộc nói chuyện giữa anh và Roger Smith, và Rae nói, “Nếu Keller hay Lawrence có trong hệ thống, Tremanty có thể tra cứu hắn cho chúng ta. Chúng ta phải báo với anh ấy.”
Lucas gọi cho Tremanty, bật loa ngoài để hai người kia cùng nghe, lặp lại cuộc nói chuyện với Smith lần thứ hai, có sửa đổi vài chi tiết, và thêm số điện thoại mà Smith cho anh. Tremanty nói, “Các anh sẽ đi LA ư?”
“Còn tùy thuộc vào những gì các anh tìm được.” Lucas nói. “Tôi sẽ đặt ưu tiên cho việc này và đẩy tất cả những gì chúng tôi có về hòm thư điện tử liên bang của anh. Nếu cái tên nào trong số kia là thật hoặc là bí danh đã biết, và hắn có trong hệ thống, các anh sẽ có chúng trước khi về đến khách sạn.”
“Được rồi. Có một gã nữa ở đó, cùng Smith. Hắn nói tên hắn là Dick.”
“Trông như thế nào?”
Lucas miêu tả người kia, và Tremanty nói, “Tên hắn là Richard, hoặc Ricardo, họ là Santos. Hắn là dân Mỹ gốc Cuba đời hai; ông bà hắn rời đất nước khi Castro lên cầm quyền. Trông hắn có vẻ là trợ thủ của Smith, nhưng có nhiều tin đồn rằng hắn là đầu mối liên lạc của Smith với các đối tượng xấu ở New Orleans. Hắn có bằng hóa học từ Đại học Miami.”
“Hóa học? Thật á?”
“Hình như là hợp pháp. Dĩ nhiên là bằng hóa học có thể dùng cho rất nhiều thứ không hợp pháp.”
“Tôi có thể kể với anh là hắn chế cà phê cappuccino sủi bọt rất khá.” Lucas nói.
“Vậy đấy.” Tremanty nói. “Tôi đã làm một hồ sơ về hắn, vẫn chưa có gì nhiều. Tôi sẽ gửi cho anh, cả hồ sơ về Martin Keller hay Martin Lawrence.”
Bob: “Ta về khách sạn chứ?”
Cả ba tập trung ở phòng Lucas và đứng sau lưng anh đọc các hồ sơ do FBI gửi đến trong khi anh cuộn qua các trang.
Martin Keller/Lawrence tên thật là Marion Beauchamps. Hắn bị bắt giữ lần đầu về tội cướp có vũ trang ở New Orleans vào khoảng đầu những năm 2000. Hắn dành hai năm ở Trung tâm Cải huấn C. Paul Phelps, được thả sớm một năm do hành vi tốt. Hắn không bao giờ trình diện với sĩ quan giám sát của mình, và một cuộc điều tra ngắn cho thấy hắn đã chuồn đi LA. Phía Louisiana đã báo cho cảnh sát LA, nhưng hắn chưa bao giờ bị tóm.
Hắn bị bắt giữ ở LA năm 2010 với một cáo buộc cướp tài sản dưới cái tên Raymond Carter, nhưng được thả bảo lãnh trước khi nhân dạng thật được xác định, và hắn không bao giờ xuất hiện tại phiên xét xử.
Năm 2014 hắn bị bắt giữ lần nữa dưới cái tên Martin Keller sau khi bị đánh đập tơi tả trong một vụ đánh nhau tại một hộp đêm, mà rõ ràng hắn là người khơi mào, một tính toán sai sót nghiêm trọng từ phía hắn. Khi được vận chuyển trên xe cứu thương, hắn bị phát hiện có mang theo khoảng ba mươi gram ma túy. Do một lỗi xử lý của Trung tâm Y tế USC của Quận LA, hắn đã không bị giam tại một khu vực an ninh và tự mình chuồn khỏi bệnh viện, một lần nữa trước khi nhân dạng thật được xác định.
Một ghi chú trong hồ sơ viết “Liên lạc với LuAnne Rocha, Sở Cảnh sát LA, Tổ Điều tra Đặc biệt về Trộm cướp.”
“Nhiều năm rồi chẳng ai nghe được tin gì về hắn.” Rae nói. “Hắn có thể ở bất cứ đâu. Có khi hắn chết rồi.”
“Có thể LuAnne Rocha biết đấy.” Bob nói.
Số điện thoại mà Smith cung cấp dẫn đến một quán ăn ở Venice, California, tên là Flower Child. Lucas đã từng ở tại Marina del Rey và Venice. “Chúng đều ở bên bờ biển, ngay cạnh nhau, và ngay tại đây của LA.” anh nói với Bob và Rae. “Thậm chí có thể Smith đang nói thật vài phần trong chuyện này.”
Lucas gọi điện cho LuAnne Rocha, tự giới thiệu mình. “Chúng tôi đang tìm một gã tên là Marion Beauchamps, kẻ mà phía cô đã bắt giữ dưới cái tên Raymond Carter và Martin Keller, nhưng có lẽ cô biết hắn với cái tên Martin Lawrence…”
“Đa phần tôi tin anh, nhưng làm sao tôi biết chắc được là anh không phải là chính Beauchamps gọi điện để tìm hiểu xem tôi biết những gì?” Rocha hỏi.
Lucas nối máy cho Rocha với Russell Forte ở Cục Cảnh sát Tư pháp để xác nhận danh tính của mình, và Rocha gọi điện lại ngay sau đó. Cô có một giọng nữ cao ngọt ngào mà có thể là của một GV mẫu giáo. “Nếu các anh tìm ra hắn, hãy báo tôi. Tên khốn đó gây cho tôi nhiều rắc rối hơn cả chục tên khác mà tôi có thể nghĩ đến.” cô nói với chất giọng ngọt ngào.
“Hắn vẫn ở LA ư?”
“Gần như chắc chắn. Mà tôi chưa từng nghe cái tên Lawrence.
Anh lấy ở đâu thế?” cô hỏi.
“Chúng tôi đã đi hỏi loanh quanh ở New Orleans. Thực ra chúng tôi đi tìm em cùng cha khác mẹ của hắn, một gã tên là Clayton Deese.” Lucas nói. “Hắn là kẻ đã giết và chôn mấy người mà chúng tôi đang đào ở Louisiana. Chúng tôi nghĩ rằng có thể hắn sẽ chạy qua đó và tìm kiếm sự giúp đỡ từ Beauchamps.”
“Chúa ơi, hẳn sẽ là một cuộc hội ngộ gia đình vĩ đại, nhỉ?” Rocha nói. “Ngồi một chỗ và bốc phét về các kĩ thuật trộm cướp.”
“Tại sao Beauchamps lại là đối tượng hàng đầu trong danh sách của cô thế?” Lucas hỏi.
“Bởi vì hắn có liên quan đến nhiều vụ đột nhập nhà riêng ở đồi Beverly, Brentwood… ờ, một lần ở Pacific Palisades, hai lần ở Malibu, vài lần ở đồi Hollywood… Như vậy đấy.” Rocha nói. “Chúng tôi thu được các dấu vân tay của hắn trên một cây bút tìm được tại lối vào ga-ra của một trong những căn nhà bị băng của hắn đột nhập, có lẽ là bị rơi ra khỏi cửa xe tải. Chúng có những khuôn mẫu thông thường: bốn tên, đeo mặt nạ, lái một xe dịch vụ giả – xe của dịch vụ sửa ống nước hoặc sửa điện, hoặc có khi là truyền hình cáp.”
“Cùng một xe tải, không phải xe ăn cắp?”
“Không, nhiều khả năng không phải là xe ăn cắp, theo như những gì chúng tôi biết, nhưng là loại rất phổ thông: một chiếc Ford Transit màu trắng. Chúng tôi nghĩ rằng chúng có các biển số gắn nam châm, hoặc bằng cách nào đó khác, để nhanh chóng tháo ra gắn vào. Khi chúng đến nhà, chúng tôi có thể thấy chiếc Transit, nhưng biển số đã bị tháo, nên không bị ghi lại trên máy quay. Có đến cả tỉ chiếc xe tải giống hệt vậy ở LA.”
“Thú vị đây.” Lucas nói.
“Vâng. Chúng đã tính toán chuyện đó, và cách để thực hiện. Chúng đã nghiên cứu, biết có bao nhiêu người trong nhà, không bao giờ đụng vào những người có tiếng tăm lớn – các ngôi sao điện ảnh, hay những người kiểu vậy. Các nạn nhân đều giàu có, luôn luôn có ít nhất vài trăm triệu, và vài người còn là tỉ phú hợp pháp. Các ngôi nhà đều nằm riêng biệt, sau những cánh cổng ra vào điện tử. Chúng tôi nghĩ chúng dùng một thiết bị đọc mã để quét tín hiệu giữa xe của nạn nhân và các cánh cổng. Chúng xuất kích ngay khi chủ nhân trở lại sau một đêm ra ngoài. Chúng đánh xe vào, đóng cổng, lái lên cửa trước, phá cửa bằng một cây đòn cắt từ một trụ điện thoại – các nạn nhân đã thấy nó; đó là một trong những kĩ thuật đặc trưng riêng của chúng – và chúng khống chế các nạn nhân chỉ trong một phút hoặc hơn.”
“Có ai bị giết không?”
“Vẫn chưa, nhưng chúng xông vào cùng súng, và chúng đã đánh một số người khá mạnh tay. Sớm muộn gì chúng cũng sẽ giết ai đó. Chúng đe dọa hiếp dâm vợ hoặc con gái, nếu họ ở gần đấy.
Chúng cướp đồ trong nhà, không chỉ lấy tiền mặt, mà còn lấy đồng hồ, trang sức, bộ sưu tập tiền xu, bất cứ thứ gì có giá trị có thể tách ra và bán đi. Không lấy những tác phẩm nghệ thuật dễ nhận diện, như tranh vẽ chẳng hạn.” Rocha nói. “Tin hay không thì tùy, thu nhập ròng của chúng phải đến gần một triệu đô la mỗi vụ. Có thể chúng chỉ tiêu khoảng hai trăm nghìn, nhưng mà là vậy đấy. Và không đóng thuế. Những người chúng tấn công đều là những cặp đôi giàu có, và các bà vợ thường có một ít kim cương cất trong két phòng ngủ.” Rocha nói.
“Và Beauchamps tham gia vào tất cả các vụ đó?”
“Vâng, chúng tôi nghĩ vậy. Chúng tôi nghĩ hắn là tên cầm đầu. Một nạn nhân có một cái chặn giấy bằng vàng thỏi do vợ ông ta tặng. Đó là một miếng vàng to cỡ nắm tay tôi, được làm bằng cách nấu chảy một xấp tiền xu vàng và được một nghệ nhân điêu khắc tạo hình cho giống cặp ngực của bà vợ của nạn nhân vậy. Phần vàng thô đã trị giá đâu đó khoảng bốn mươi nghìn đô. Dù sao thì chúng tôi đưa ra một thông cáo, và vài tuần sau vụ đột nhập nhà kia, cảnh sát Vegas tình cờ đột kích một tay buôn đồ ăn cắp và tìm được cặp vú vàng đó trước khi tay buôn đồ kịp nấu chảy nó. Một trong số các cảnh sát nhớ về thông cáo của chúng tôi và gọi điện đến. Tay buôn đồ nhận dạng Keller – Beauchamps – từ ảnh chụp chân dung của hắn.”
“Được rồi. Hắn ở quanh đây.”
“Ừ. Chúng tôi còn có một nghi phạm nữa – và khi tôi nói ‘nghi phạm’, ý tôi là ‘chắc chắn’ – tên là Jayden Nast. Hắn là một gã da đen rất to cao, và bạo lực. Hắn đến thẳng chỗ mấy bà vợ, nói với họ rằng hắn sẽ làm gì họ nếu không mở két ra, rằng hắn sẽ mở toang nút bong bóng của bà ấy ra sao. Có những người phụ nữ sống trong nhung lụa không thể đối phó lại được, ờm... anh biết đấy, tình huống, những lời đe dọa. Tất cả đều được tính toán rất kĩ: hắn là một kẻ đe dọa và biết cách làm điều đó.”
“Tôi không biết… ‘Nút bong bóng’ là gì?”
“Xem nào, khi nhìn vào trong một cái nút thổi bóng bay, nó trông giống như là cơ vòng ý.” Rocha nói. “Nhìn giống lỗ hậu môn.”
“À hiểu rồi.” Lucas nói. “Làm sao các cô nhận diện được hắn?”
“Một cô có mắng chửi lại hắn và tát cô ấy, khiến cô ấy gãy mũi rồi ngã gục xuống, nhưng cô ấy lại tóm được cổ chân hắn và cào hắn một cái. Hắn kéo dựng cô ấy lên – bằng cách nắm tóc – và cô ấy đã phải khai ra mã số két sắt, nhưng cô ấy cuộn các ngón tay lại và việc đó giúp chúng tôi có được mấy bằng chứng ADN rõ ràng. Hắn đã được đưa vào cơ sở dữ liệu năm 2011 với cáo buộc hành hung, đã xin tha, được ra tù, nhưng vẫn còn ở trong cơ sở dữ liệu, nên chúng tôi chắc chắn.”
“Vậy chúng tôi sẽ đi tìm gã Beauchamps hoặc gã Jayden Nast này, kẻ có thể đưa ta đến chỗ Beauchamps, từ đó đến với Deese.”
“Nếu anh đánh hơi được tung tích của Beauchamps hoặc Nast, tôi sẽ muốn nghe đó.” Rocha nói. “Anh có hiểu bị mười hai vị tỉ phú đè đầu cưỡi cổ, cả lên cảnh sát trưởng và thị trưởng là như thế nào không, mà trong đó vài người là các nhà bảo trợ chính trị lớn, và tất cả bọn họ đều yêu cầu tên kia bị bắt và bị treo cổ?”
“Cô nghĩ điều đó tệ hơn là truy đuổi một tay ăn thịt người?” Sau vài giây, Rocha nói, “Tôi bái phục anh đó, một tên giết người hàng loạt và ăn thịt người có thể ở ngay đó. Nhưng hắn không phải là tên ăn thịt người của tôi, hắn là của anh. Anh sẽ đến đây chứ?”
“Sớm thôi.” Lucas nói.
“Hãy gọi cho tôi. Nhớ chú ý lời tôi nói, Nast rất tàn bạo. Chúng tôi lần ngược dấu vết của hắn tới tận những ngày tháng còn ở băng đảng giang hồ ở dưới vùng Trung-Nam. Đây là một kẻ thích bạo lực. Hắn được cho là từng xử lý một cô bạn gái cũ với nắm đấm gấu bằng đồng, hủy hoại khuôn mặt của cô ấy. Người ta còn nói một điều khác: hắn ghét cảnh sát. Có nhiều tin đồn rằng hắn đã giết cảnh sát. Chúng tôi không biết liệu điều đó xảy ra ở đâu và liệu có đáng tin hay không. Có thể không phải là ở đây, nhưng các tin đồn vẫn lan truyền khá nhiều. Chú ý, nhé? Một gã đàn ông, có súng, ghét cảnh sát.”
“Hiểu rồi.”
______________________
Điện thoại của Lucas đang ở chế độ loa ngoài, và sau khi anh dập máy, Bob hỏi, “Ta đi chứ?”
“Ta đi thôi.”
“Tuyệt lắm. Xuất kích nào.” Bob nói với Rae. Rae nói, “Yên nào trái tim thùm thụm của tôi.”
Bob nói, “Anh đã không kể với Rocha về số điện thoại.”
“Tôi muốn ghé qua quán ăn này, xem chúng ta tìm được ai.” Lucas nói. “Rocha sẽ hạ Deese nếu cô ấy có cơ hội, nhưng thực ra cô ấy muốn bọn Beauchamps và Nast. Đó là ưu tiên của cô ấy, không phải của chúng ta. Nếu cô ấy tóm được Beauchamps, có thể chúng ta sẽ mất đầu mối liên lạc với Deese.”
“Tôi cho là vậy.” Rae nói. “Nếu chúng ta tóm được Deese thì rồi chúng ta cũng sẽ tóm được cả Beauchamps. Nhưng chiều ngược lại thì chưa chắc. Khi nào chúng ta khởi hành?”
“Tôi sẽ gọi điện cho trợ lý của Russ Forte.” Lucas nói. “Chúng ta cần đọc đã… Tôi nghĩ sáng mai – sáng sớm ấy.”
Việc đi từ New Orleans đến Los Angeles không đơn giản như dự kiến, và họ đã không thể khởi hành từ sớm. Việc làm thủ tục bay luôn mất thời gian, với chiếc túi đầy súng cùng áo giáp mà Bob và Rae khuân theo, và cuối cùng họ đến được sân bay quốc tế LA trên một chuyến bay của hãng hàng không Delta lúc một giờ chiều.
Bởi vì hình ảnh phía lực lượng liên bang quá dễ nhận ra với xe SUV, và cảnh sát địa phương với xe cũ nát, nên họ thuê hai chiếc Chevy Malibu từ cửa hàng Avis. Lucas đã đến LA rất nhiều lần và thường ở Santa Monica, tại khách sạn Shutters on the Beach. Anh nghĩ là khó có khả năng Cục Tư pháp sẽ cho thuê phòng ở Shutters, nên họ thuê ở Marina del Rey Marriott. Không lấy được phòng hạng sang khiến Bob và Rae thất vọng, nhưng họ có cửa sổ nhìn ra bến du thuyền và một cửa hàng Cheesecake Factory mà Bob phát hiện ra. Họ cách quán nhậu và đồ nướng Flower Child mười phút đi bộ qua đại lộ Washington.
Cả ba người ra khỏi khách sạn lúc 4 giờ. Ngày hôm đó sáng trong và ấm áp, nhiệt độ khoảng trên 24 độ, với làn gió thoang thoảng từ biển thổi đến, lướt trên da mặt họ khi đang trên đường đi bộ đến quán rượu: mọi lí do để sống ở LA, cộng thêm mùi hương của đại dương.
Quán Flower Child là một công trình thấp hai tầng trát vữa stucco, nằm cách biển Thái Bình Dương vài khối nhà, với mái hiên sọc hồng rủ bóng lên vỉa hè. Mái hiên cũng được trang trí bằng các bông hoa, lá cần sa, và đàn ukelele vẽ bằng sơn.
Bên trong, quầy rượu chính ngăn cách tiền phòng với hậu phòng. Quầy rượu được trang trí bởi các ống đèn mỏng tỏa ánh sáng màu sáp hồng, xanh và vàng làm nó trông giống một thùng máy chơi nhạc kiểu cổ điển. Tiền phòng có những chiếc bàn nhiều cỡ và được bật đèn sáng choang, với thực khách ngồi đọc báo trong khi ăn. Hậu phòng tối hơn và được chia thành các buồng riêng, khoảng một phần ba số đó có người ngồi.
Họ lấy một buồng ở tít cuối dãy, Bob ngồi một bên, Lucas và Rae ngồi bên kia. Một cô phục vụ đi đến và nói: “Bánh kẹp thịt ở đây rất tuyệt… Mọi người muốn uống gì?” Cô ấy đánh kẻ mắt màu ngọc lam, áo ống không dây, quần đùi ngắn, và có một bộ sưu tập khuyên đeo ở môi và rốn. Một hình xăm hình trăn xiết mồi bắt đầu từ phần gáy của cô, chạy xuống lưng phía phần trên áo ống, xuất hiện trở lại ở phần dưới nó, và đi theo xương sống của cô xuống quần đùi. Cô đang nhai kẹo cao su.
“Hình xăm đẹp đấy.” Bob khen.
“Cảm ơn anh. Một người bạn trai cũ của tôi làm cho đấy. Nó đi xuống tận giữa hai bên mông tôi.”
“Thật nhiều thông tin hay ho.” Rae nói.
“Ờm, cô biết đấy…” cô ấy đáp, mắt nhìn lên ngao ngán. “Gì cũng được…”
Họ gọi bánh kẹp thịt và khoai tây chiên, Lucas uống Coca ăn kiêng, còn Bob và Rae dùng bia Dos Equis. Một bài hát đang được phát qua hệ thống âm thanh mà Lucas nghe quen tai nhưng không nhớ ra được bài gì. Bob nhận ra đó là bài “Plastic Fantastic Lover” của nhóm Jefferson Airplane, “Khá hợp với nơi này.”
Khi quay lại cùng Coca và bia, cô phục vụ nói với họ rằng một ban nhạc tri ân phong cách dân híp-pi thường chơi ở hậu phòng các buổi chiều: “Nhạc của các mẹ và cha (Mamas and Papas), Yêu thương đong đầy (Lovin’ Spoonful) – nghe chán òm. Nói thật với mọi người là tôi sẽ tót ra khỏi đây trước khi buổi biểu diễn bắt đầu. Tôi sợ rằng nó sẽ làm óc mình lòi ra khỏi tai mất.”
“Chủ quán là dân híp-pi à?” Lucas hỏi.
Cô ấy khịt mũi. “Không. Ông ấy làm bất cứ điều gì ông ấy nghĩ cái quán phải thế. Nó từng được gọi là Hang Eleven, bởi vì ông ta nghĩ rằng có thể thu hút được đám dân lướt ván học đòi. Trước đó, nó có tên là Duder14, bởi vì bộ phim nọ. Và, trước đó nữa, gọi là Shredder. Chỉ mỗi tên quán đổi thôi, những cái khác vẫn thế. Chúng tôi còn dùng đi dùng lại tấm biển ‘Quản lý mới’. Tiếp khách du lịch và dân địa phương vào buổi sáng, những gã trung niên tìm tình vào buổi đêm, mấy gã đeo vòng vàng ấy.”
“Bọn đàn ông vẫn làm thế á?” Rae hỏi.
“Ở đây họ làm thế.” Cô ngắm nghía Lucas, rồi Bob. “Nếu hai anh đi tìm tình, hai anh sẽ ổn.” Và với Rae: “Cô thì cao cấp hơn.”
Làm họ bật cười, và khi cô ấy đi khỏi để lấy bánh kẹp thịt thì Bob nói, “Cô ấy chăm chúng ta để lấy tiền boa.”
“Có thể sẽ lấy được đấy.” Rae nói.
Mấy cái bánh kẹp thật là ngon, như lời cô phục vụ nói, món khoai chiên thì nóng hổi, mặn, mỡ màng, đúng như chúng phải thế. Họ đang ăn dở bữa thì hai cảnh sát mặc cảnh phục LA đi vào, bỏ kính râm xuống, và nhìn quanh. Hai người này chọn ngồi vào buồng ở phía sau, và khi đi ngang qua chỗ ba người sĩ quan tư pháp, cả hai nhìn họ chằm chằm. Cô phục vụ biết hai người này, gọi cả hai bằng tên riêng.
Sau khi gọi món, họ vẫn nhìn Lucas và Rae – từ chỗ họ không nhìn thấy Bob – và Rae lẩm bẩm, “Hai tay cảnh sát kia đang săm soi ta.”
14 Dude là một bộ phim hài kịch dành cho lứa tuổi mới lớn của Mỹ ra mắt năm 2018.
“Ừ, tôi nghĩ thế.” Anh móc ví đựng phù hiệu ra khỏi túi và nói, “Sẽ quay lại ngay.”
Trong khi cô phục vụ không ở gần, anh ra khỏi bàn mình, đến chỗ hai tay cảnh sát, đặt phù hiệu lên bàn. “Rất cảm tạ nếu các anh có thể giữ im lặng về chuyện này.” Lucas nói.
“Có gì xảy ra ở đây ư?” một trong hai cảnh sát hỏi.
“Chúng tôi đang đi tìm một gã có thể đã lui đến đây vài lần.” Lucas nói. “Các anh biết người chủ ở đây không?”
“Tommy à? Có biết chứ. Ông ta ổn,” một cảnh sát nói, “gần như thế.”
“Gần như?”
“Ông ta từng bán một ít ma túy và cỏ cần sa, để đạt chỉ tiêu doanh thu. Mấy năm vừa rồi thì không nhiều lắm. Quá nhiều cạnh tranh.”
“Các anh nghĩ ông ta sẽ nói chuyện với chúng tôi chứ?”
“Ồ, chắc chắn. Ông ấy vừa đủ thân thiện, cũng thích các cảnh sát ghé qua – để giữ chỗ này bình yên. Ông ta có một văn phòng trên gác, cầu thang ở phía sau chỗ nhà vệ sinh. Tên là Tommy Saito. Ông ta thường ở trên đó vào các buổi chiều và tối, nếu không ở dưới này.”
Lucas cốc tay xuống bàn. “Cảm ơn.”
______________________
Khi xong bữa, trả tiền bo vượt mức, họ lang thang ra phía sau, qua chỗ phòng vệ sinh, rồi đi lên trên một cầu thang gỗ rộng đến văn phòng. Một cánh cửa với ô kính cao có biển đề “Mời vào” nên họ đi vào trong, nơi họ thấy một người phụ nữ to béo ngồi sau một chiếc bàn gỗ, đang xem những thứ có vẻ như là các biên lai thanh toán và bấm một chiếc máy tính to bằng quyển từ điển.
Bà ấy nhìn lên và nói, “Vô tội!”
“Ông Tommy có ở đây không?” Lucas hỏi.
Bà ấy quay sang chỗ một cánh cửa nằm lùi sâu vào trong một lối sảnh ngắn và gọi to, “Này, Tommy. Có vài cảnh sát đến tìm ông đấy. Có thể là bên liên bang.”
Tommy Saito thò đầu ra khỏi văn phòng, nhìn ba người họ, và nói, “Liên bang? Ờ, xin mời vào. Tôi giúp gì được cho mọi người? Tôi đã đóng thuế đúng hạn rồi.”
“Trước hạn.” người phụ nữ sửa lại.
Saito giữ cánh cửa văn phòng mở. Lucas dẫn Bob và Rae vào trong, nơi họ thấy một bàn làm việc bằng gỗ khác, kê trên một tấm thảm lông xù màu cam cháy, với ba chiếc ghế cho khách đối diện với bàn. Saito, một người Mỹ gốc Á, dáng thấp, đầu hói, có lẽ khoảng sáu mươi tuổi, ngồi xuống chiếc ghế phía sau bàn. Bức tường đằng sau ông ấy treo đầy ảnh đóng khung, chụp cùng một người phụ nữ và ba đứa trẻ con ở các độ tuổi khác nhau, và vài bức với các đứa nhỏ khác, còn trẻ hơn nữa, có thể là các cháu ruột.
Lucas chìa cho ông xem giấy tờ của mình, rồi rút ra khỏi túi áo khoác các bản sao ảnh chụp chân dung của Deese, Beauchamps và Nast, giở chúng ra, và thảy chúng qua mặt bàn.
“Ông có từng thấy tên nào trong số mấy gã này ở đây không?”
Saito nhìn cả ba bức ảnh, thảy ảnh của Nast sang bên kia bàn, và nói, “Chúng tôi không có nhiều khách da đen ở đây. Với những người chúng tôi đã tiếp, thì không có hắn.”
Ông ta chần chừ với bức ảnh của Deese một lúc lâu, rồi cũng thảy nó về bên kia bàn. “Gã này trông khá quen, nhưng nếu hắn từng vào đây thì cũng từ khá lâu rồi. Ý tôi muốn là kiểu như đã hơn một, hay có khi là vài năm rồi. Hắn có khuôn mặt làm anh ghi nhớ.”
Ông ta xem bức ảnh của Beauchamps lâu nhất, rồi nói, “Gã này lâu lâu lại đến, tăm tia mấy cô ả đã ly hôn. Thường sẽ đưa một cô về nhà cùng – bất luận là ở đâu. Không biết tại sao tôi lại nghĩ như thế này, nhưng tôi không nghĩ hắn ta ở ngay quanh đây. Có thể có một lần hắn nói với tôi rằng hắn qua đây vì lí do công việc và muốn dừng chân để ăn bánh kẹp, khoai chiên, và tìm một cô nàng đã ly hôn.”
“Ông có biết bất cứ cô nào đã ly hôn mà hắn đưa về nhà không?” Saito nhìn bức ảnh một hồi nữa, rồi la lên, “Heather! Bà vào đây được không?”
Người phụ nữ đi vào, nói, “Tôi nghe thấy câu hỏi rồi.” nhìn bức ảnh, rồi quay đi và nhìn chằm chằm vào chiếc cửa sổ được phủ rèm che, chỉ ngón tay về Saito, và nói, “Suzie-Q.”
Rae: “Thật ư? Suzie-Q?”
Saito nói, “Thực ra đó không phải tên thật của cô ấy. Chúng tôi gọi thế bởi vì mỗi khi đến quán cô ấy hay chọn chơi một bài hát cũ của Creedence15 từ chiếc thùng máy phát nhạc của chúng tôi. Cô ấy sống ở một căn hộ ở Marina, điều đó thì tôi biết chắc chắn. Cô ấy đi bộ đến đây vài lần mỗi tuần. Tên thật của cô ấy là cái quái gì nhỉ? Tôi biết cơ mà…”
Heather lại quay sang nhìn chằm chằm vào chiếc rèm, rồi nói, “Jackman.”
15 Creedence Clearwater Revival (còn gọi là CCR hoặc Creedence) là một ban nhạc rock của Mỹ.
Saito nói, “Barbara…?”
Heather đáp, “Đúng rồi. Barbara Jackman.”
Lucas ghi lại cái tên vào cuốn sổ của mình. Rồi anh nói, “Một người bạn của Beauchamps nói là có thể liên lạc với hắn bằng cách gọi về đây. Ông có biết tại sao lại thế không?”
Cả Saito và Heather đều thực sự ngạc nhiên, hoặc là vô tội, hoặc là diễn rất đạt. Saito lắc đầu. “Không phải ở đây. Anh có chắc đó là của chúng tôi không?”
Lucas nhìn xuống cuốn sổ ghi chép và đọc lại số điện thoại. Saito nói, “Đó không phải là điện thoại của chúng tôi.”
Nhưng Heather lại nói, “Đó là một máy công cộng.”
Saito nói, “Thật à?” như kiểu ông ấy ước Heather giữ mồm miệng. Rồi với Lucas: “Chúng tôi có một máy công cộng ở phía sau chỗ phòng vệ sinh. Một vài khách hàng của chúng tôi đôi khi không muốn dùng máy của họ…”
“Tôi biết chuyện đó là thế nào.” Rae nói. “Không muốn kẻ buôn hàng gọi điện cho ông hay thậm chí có số di động của ông trong điện thoại.”
“Không chỉ là lũ buôn hàng… Ừ, có thể là đôi khi.” Saito nói. “Nhưng các anh chị sẽ làm gì? Chiếc điện thoại đó nhả ra hai trăm đô mỗi tuần đấy, nên… chúng tôi cần tiền mặt.”
“Nếu anh muốn giữ liên lạc với Beauchamps, anh không thể cứ gọi điện thoại và hi vọng hắn sẽ đi ngang qua. Nhất là nếu hắn chỉ đến đây mỗi vài tuần một lần.” Bob nói.
Lucas: “Chúng tôi được bảo là phải gọi sau chín giờ theo giờ LA.”
Saito nói, “Sau chín giờ à?” và nhìn lên Heather lần nữa, mà bà ấy tiết lộ, “Là gã Anh quốc chết tiệt đó. Tôi đã nói với ông rằng hắn sẽ là rắc rối mà.”
Saito nói với Lucas, “Ôi trời. Thế thì phải là Oliver rồi. Chúa ơi, tôi ghét điều đó. Cậu ta đã ở với chúng ta được bao lâu nhỉ? Tám năm?”
Lucas: “Oliver?”
Saito thở dài. “Oliver Haar. Cậu ấy là tay người Anh làm việc mở cửa mỗi tối. Cứng cựa, khi cần, để giữ bầu không khí yên tĩnh lúc cần thiết. Tủ điện thoại ở ngay dưới sảnh, từ vị trí cậu ấy đứng ở chỗ cửa. Cậu ấy đến lúc sáu giờ chiều, làm việc cho đến khi chúng tôi xua tất cả mọi người ra về lúc hai giờ sáng.”
Bob: “Hắn có rắc rối gì với pháp luật không?” Heather: “Có tin đồn...”
Saito: “Chỉ là tin đồn thôi.”
Heather: “Rằng hắn cần phải lánh mặt ở London và phiêu bạt lên đây. Hắn trông cửa, và đàn bà con gái thích hắn – giọng nói, và mọi thứ.”
Saito: “Và hắn bảnh trai.”
“Được rồi.” Lucas nói. “Có thể chúng tôi muốn nói chuyện với anh ta sau. Đừng nói gì với anh ta về chuyện này. Và đừng có làm khó anh ta, chưa có dấu hiệu nào cho thấy có vấn đề. Cứ để anh ấy làm việc. Được chứ?”
“Các anh sẽ theo dõi cậu ta ư?” Saito hỏi.
Lucas lắc đầu. “Không. Nếu Oliver chỉ truyền thông điệp, có thể anh ta còn không biết là mình đã nói chuyện với ai – hoặc thậm chí là không biết mình đã nói chuyện với bọn xấu xa. Có thể là anh ta gọi vào các máy ẩn danh, mà sẽ chẳng dẫn chúng tôi đến đâu.”
“Tôi phải nói là, tôi ghét việc mất cậu ta.” Saito nói. “Tôi thì không.” Heather nói. “Hắn là một tên đểu.”
“Cần có một tên đểu đứng canh cửa,” Saito nói. “Nhất là một gã có hành vi lịch sự kiểu Anh.”
“Cái này thì công nhận.” Heather nói, một cách miễn cưỡng. “Tôi sẽ để chuyện đó tùy hai ông bà giải quyết.” Lucas nói.
“Xin nói lại, đừng tiết lộ cho Oliver. Đây là chuyện hệ trọng, và hai người sẽ không muốn nó ảnh hưởng đến mình đâu. Nhưng cũng có khả năng anh ta hoàn toàn trong sạch.”
Heather lắc đầu, không tin điều đó.
Rae gọi điện cho Tremanty, anh bắt đầu bằng việc kể với cô rằng họ tìm được cái huyệt thứ bảy và khá chắc là sẽ có cái thứ tám. “Sức ép đang tăng lên.”
“Chúng em đang làm việc đây.” Rae nói. “Chúng em cần tìm một người phụ nữ tên là Barbara Jackman sống ở Marina del Rey. Anh có thể cho ai đó kiểm tra không?”
“Các em tìm được một đầu mối thực sự rồi à?”
“Có khả năng.”
“Sẽ gọi lại ngay khi có thể.” Tremanty nói.
Lucas, Bob và Rae quay trở lại khách sạn Marriott. Tremanty gọi lại ngay lúc họ bước vào cửa. “Anh có địa chỉ và vài chi tiết. Cô ta có ba vé phạt giao thông trong vòng năm năm trở lại đây – chạy xe quá tốc độ – và có một lần bị phát hiện có mang một ít cỏ cần sa, trước khi thứ này được hợp pháp hóa ở đó. Cái gói đó nằm ở bên ghế lái phụ của cô ta. Cô ta bị phạt tiền, không gì khác. Giấy phép lái xe của cô ta dùng ảnh hiện tại. Cô ta làm nhân viên bất động sản bán thời gian. Có một bức ảnh tốt hơn trên trang web của cô ta, nhưng trông trẻ hơn nhiều so với ảnh trên giấy phép, nên có thể là chưa cập nhật. Anh đã hỏi báo cáo tín dụng. Tất cả sẽ ở trong email.”
Trong phòng của Lucas, họ mở email do Tremanty gửi. Giấy phép lái xe của Jackman có địa chỉ ở Marina del Rey, một căn hộ ở đường Marina City. Họ tìm ra nó trên Google Maps, cách chỗ họ khoảng tám trăm mét, và quyết định lái xe ghé qua.
“Tôi đang cảm thấy quá may mắn.” Bob nói. “Nó làm tôi thấy bồn chồn lo lắng. Chúng ta còn chưa làm việc đủ hăng để đạt được điều này.”
Tòa căn hộ của Jackman, một tòa nhà cao, tròn, giống hình một cái bánh ga-tô, có một chòi gác mà không có ai ở trong. Họ đậu xe ở một khu vực “Cấm đỗ” dọc theo lề đường, Rae dựng tấm biển “Cục Tư pháp” trên bảng điều khiển, nhưng rồi một nhân viên của khu căn hộ đi bộ ra đó để đuổi họ đi, cuối cùng lại dẫn họ đến chỗ được phép đỗ và đưa họ đến thang máy.
“Cá năm đô rằng cô ta không có ở nhà.” Bob nói, khi họ đi lên. “Tôi muốn nói là mọi chuyện đang quá dễ dàng.”
Họ tìm được cửa phòng nhà Jackman, gọi cửa, và mười giây sau cô ra hé cửa, ngó nhìn qua sợi xích chốt cửa chống trộm, và hỏi, “Vâng?”
“Tôi muốn biết ai bảo các anh là tôi về nhà với hắn.” Jackman nói, khi Lucas hỏi. Họ đã ở trong căn hộ của cô, có góc nhìn ra phía bến du thuyền và tuốt ra phía đại dương. Cô ấy giận dữ. “Là Oliver, phải không?”
Jackman là một người phụ nữ dáng cao, hấp dẫn ở tuổi bốn mươi ba – họ tìm được tuổi của cô thông qua giấy phép lái xe – với mái tóc vàng óng bồng bềnh cùng đôi lông mày màu tối hơn, và hai bên tai đeo hai viên kim cương thật nặng hai cara. Nếu cô ấy chỉ làm việc bán thời gian tại văn phòng bất động sản, Lucas nghĩ cô ấy có gia tài riêng.
“Chúng tôi chưa gặp Oliver.” Lucas nói. “Kể cả nếu có, chúng tôi cũng không thể nói nguồn tin của mình là ai. Xin hãy lắng nghe. Chúng tôi không nghĩ rằng cô đã làm gì sai. Đời sống xã hội của cô thì là của cô, và chúng tôi không quan tâm. Chúng tôi muốn biết cô đã đi đâu, chỉ thế thôi.”
“Tôi không biết chính xác là nơi nào.” Jackman nói. “Chỗ đó ở ngoài Pasadena, phía Bắc đường 210. Cách đây nửa giờ đi đường, lúc 11 giờ đêm, trên một chiếc Cadillac, và về nhà mất bốn mươi lăm phút, lúc 3 giờ sáng, bằng Uber.”
“Lạnh lùng vậy.” Rae nói. “Hắn không lái xe đưa cô về nhà ư?”
“Hắn gọi một chiếc Uber rồi tống tôi ra đường.” cô kể. “Từ đó tôi chẳng gặp lại hắn. Nếu có, tôi sẽ chửi cho hắn một trận, khó nghe hơn tất cả những gì hắn từng nghe trong đời luôn đấy.”
“Cô có nghĩ mình có thể tìm...”
“Không, tôi đã không thể. Lúc đó khi chúng tôi đến nơi thì đã gần nửa đêm, và tôi đã uống vài cốc nên cũng không để ý nhiều. Đó là một khu vực dân sinh ngoại ô thông thường của California dành cho giới trung lưu giống như hàng triệu chỗ khác. Có thấy một căn nhà kiểu Phục hưng Tây Ban Nha đẹp mắt ở trên đường – tôi sẽ định giá nó vào khoảng một triệu rưỡi, có thể là hai triệu, tùy vào tình trạng. Mà giờ nghĩ lại, có khi không phải là ở Pasadena mà có thể là Altadena. Nhưng các anh biết sao không? Vì các anh là FBI...”
Bob: “Cục Tư pháp.”
“Gì cũng được… Tôi biết các anh sẽ lần ra hắn như nào. Hắn có một máy điện thoại thường dùng trong phòng ngủ. Khi hắn đi vào nhà tắm, tôi đã tự gọi cho mình bằng máy đó.”
Rae: “Cô gọi à?”
“Vâng. Để tôi ghi nhớ số điện thoại của hắn, nếu muốn gọi cho hắn. Hóa ra tôi chưa bao giờ muốn. Dẫu vậy tôi đã không kể với hắn về việc tự gọi vào máy tôi.”
Lucas: “Cô vẫn còn…?”
Cô ấy vớ lấy chiếc ví, lôi điện thoại của mình ra, bấm nút, và nói, “Sẵn sàng chưa?”
______________________
Khi họ rời khỏi, đi thang máy xuống, Bob nói, “Tôi muốn nói với hai người là mọi chuyện đang quá dễ dàng.”
“Quà biếu đấy.” Lucas nói. “Đừng có xét nét.”
“Tôi theo Bob.” Rae nói. “Anh chưa từng theo đuổi mấy vụ trốn chạy như thế này, Lucas ạ. Có thể có một vụ, ở dưới Texas, phải không?”
“Vài vụ ở Minnesota.” Lucas nói.
“Ừ, nhưng chúng là lũ nghiệp dư. Anh mới chỉ bắt được một tên cứng cựa.” Rae nói. “Điều anh nhận ra là sẽ luôn luôn có rắc rối. Nó có thể xuyên suốt luôn nên anh có rắc rối suốt cả chiến dịch, hoặc mọi thứ có thể đang ngon ăn, nhưng rồi ngay vào khúc cuối, một đống rắc rối bục ra và cho anh ăn ngay quả đắng. Luôn là vậy.”
“Tôi sẽ lưu ý, nhưng nghe như là chuyện mê tín vậy.” Lucas nói. Họ đi qua lối sảnh, và Lucas đeo kính râm lên. “Hai người chưa từng làm việc với một điều tra viên tinh tế, đẹp mã như tôi, nên hai người chưa cảm kích việc mọi chuyện có thể êm ấm ra sao. Với hai người, luôn là đánh đấm mệt mỏi, súng đạn, đạp phá cửa.”
“Thế chẳng có gì là sai.” Bob nói. “Và anh có thể lấy cái chuyện đẹp mã, tinh tế với hai cân cát biển và nhét vào đít nha.”
“Đó là cách nói của bên Lính thủy đánh bộ.” Rae nói với Lucas. “Chuyện cát kiếc ý.”
“Hỏi Tremanty kiểm tra số điện thoại đó đi. Chúng ta cần đến chỗ ấy – Pasadena, hay bất cứ nơi nào.” Lucas nói. “Cô ấy bảo là bốn mươi lăm phút vào lúc 3 giờ sáng. Vào lúc này, có thể mất hai tiếng. Cái thứ giao thông ở đây thật là khó tin.”
Rae gọi cho Tremanty, năm phút sau anh ấy gọi điện lại với địa chỉ của một số điện thoại bàn. “Các anh cứ như thiên tài vậy.” anh nói.
“Bọn tôi biết rồi,” Lucas đáp, “nhưng bọn tôi đang cố giữ yên lặng.” Anh viết địa chỉ vào sổ và nói với Bob và Rae. “Đường Altadena. Suzie-Q biết chỗ cô ta đã ở.”