Lucas dọn vào phòng mới, đối diện căn phòng cũ bên kia hành lang và không nhìn được ra sông Potomac. Anh vật lộn một lúc với cơn hoang tưởng: mấy thằng ăn mặc bảnh bao lại đột nhập vào phòng khách sạn của cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ? Tại Washington, D.C., ở một nơi có tên là Watergate? Thật sao?
Khi khoảnh khắc ấy trôi qua, anh gọi cho Smalls. Ông ta thốt lên, “Không thể nói chuyện vào lúc này, gọi lại cho tôi sau... bốn phút nữa”.
Bốn phút sau, Lucas gọi lại và hỏi, “Bây giờ có ai đang ở cạnh ngài không?”.
Smalls đáp, “Không, tôi đang trong nhà vệ sinh. Đi dự tiệc trưa. Cố gắng đừng gọi khi tôi đang đi vệ sinh”.
“Rõ rồi.” Anh kể cho Smalls nghe về vụ đột nhập có thể là trái phép, rồi hỏi, “Ngài có nói với ai rằng tôi đang điều tra vụ tai nạn này không?”.
“Tôi phải nói cho hai người tại văn phòng biết. Tôi tin tưởng họ, dặn dò họ không được nói với bất kỳ ai. Tôi dẫn vợ đi dự tiệc trưa nhưng thậm chí tôi còn không nói cho bà ta biết.”
“Thượng nghị sĩ, đã có rò rỉ ở đâu đó, có thể là Grant. Ngài có thể nghĩ về chuyện đó,” Lucas nói. “Giờ tôi sẽ không làm việc bí mật nữa. Nếu đây là vụ đột nhập chứ không phải do nhân viên an ninh nhầm lẫn... Nếu đây không phải là nhầm... Ý tôi là chúng biết phòng tôi ở đâu.”
“Tôi nghĩ nhiều khả năng nhất là nhầm - cho dù xét đến âm mưu chúng nhắm vào tôi, cuộc tấn công, cậu không thể biết chắc chắn được đúng không?”
LUCAS CÓ MANG THEO máy ghi âm Sony kích hoạt bằng giọng nói trong ba lô, máy chỉ dài có năm phân và rộng chưa đến một phân rưỡi. Anh lôi nó ra, kiểm tra pin, tìm thấy một chỗ để giấu - dưới tấm nệm đầu giường, chỉ để micro thòi ra. Anh ghi lại đúng mười giây âm thanh từ chiếc ti vi trong phòng, đang phát bản tin trên kênh CNN. Nếu kẻ nào đó tìm thấy máy ghi âm và xóa nó đi, hoặc chỉ đơn giản là lấy nó đi, anh sẽ biết ngay cũng như anh sẽ biết máy có ghi lại được âm thanh kẻ đột nhập vào phòng rồi bỏ đi hay không.
ANH GỌI CHO hai cái tên cuối cùng trong danh sách của Carter, vẫn không ai trả lời. Vì cả hai đều là số di động nên anh nghĩ họ cố tình lờ đi. Anh vừa quyết định giết thời gian chờ ai đó xuất hiện, thì nhận được cuộc gọi từ một số lạ.
Anh trả lời, “Lucas Davenport đây”.
“Cảnh sát Davenport à? Carl Armstrong đây, nhà điều tra vụ tai nạn.”
“Chào Carl. Có chuyện gì vậy anh bạn?”
“Anh từng bảo một bà già xén cỏ đã trông thấy chiếc Ford F-250 màu đen đi qua thị trấn. Có một nhà trẻ ở đó có lắp máy quay lia khắp con phố. Tôi đề nghị được xem qua và đã nhận ra chiếc xe tải và đọc được biển số. Xe có xuất xứ ngoài Virginia. Nhưng đến đây thì có rắc rối.”
“Là sao?”
“Chiếc xe tải trong đoạn phim là màu đen, như bà già xén cỏ ấy đã nói, nhưng khi tôi tra đăng ký xe thì lại thấy thông tin nó có màu xanh.”
“Vậy anh nghĩ sao?” Lucas hỏi.
“Nếu như tôi làm gì đó chẳng hạn như húc xe khác văng khỏi đường, và nếu tôi nghĩ rằng ai đó có thể trông thấy hoặc nhớ mặt mình, thì tôi sẽ ăn cắp một biển số 250 khác rồi thay vào.”
“Tôi cũng sẽ làm thế,” Lucas nói. “Gửi tôi thông tin chi tiết nhé, tôi sẽ xem xét... Thế còn mấy gương mặt thì sao? Anh có thấy được mấy thằng trong xe tải không?”
“Anh có thể thấy chúng, nhưng hoàn toàn không nhận ra được đâu. Tôi chỉ thấy mấy cặp kính râm và mấy cái mũ đen thôi.”
“Gửi tôi đoạn phim đó được không?”
“Tất nhiên, tôi có trong tay đây rồi - tôi sẽ gửi email cho anh. Tôi có anh bạn có thể tạo độ phân giải máy tính cao nhất có thể.”
“Tuyệt vời đấy, Carl.”
ĐOẠN PHIM ĐƯỢC GỬI ĐẾN, nhưng cũng chẳng có gì nhiều để xem. Chiếc xe bán tải màu đen chạy lướt qua máy quay, hai người trong buồng lái bị che khuất sau mấy cái che nắng gắn trên cửa kính. Lucas đồng ý với Armstrong rằng hai tên này đeo kính râm, nhưng anh không chắc lắm về mấy cái mũ. Với Lucas, như một trong hai tên có mái tóc đen dài thì đúng hơn.
Chiếc xe tải đăng ký biển số ở một nơi có tên là Centreville, theo như Lucas tra cứu trên bản đồ của Google Maps. Vùng ngoại ô D.C, thẳng về phía tây, phía bên kia sông, tại Virginia. Anh bật máy ghi âm lên, nhét nó xuống dưới nệm, treo tấm thẻ “Xin Đừng Làm Phiền” trên núm cửa rồi xuống nhà lấy xe.
Trời mới dần về chiều, nhưng Lucas đã gặp phải cảnh tắc đường đầu tiên trong ngày, mất nửa tiếng mới tới được Centreville, theo định vị toàn cầu GPS của Evoque. Biển số xe này thuộc về Gerald và Marie Blake, họ sống trong khu phức hợp bên phải xa lộ tiểu bang I-66. Nơi này không có bãi đỗ xe đúng nghĩa, thay vào đó là một điểm đỗ xe chật kín ngay bên kia đường.
Lucas tìm kiếm địa chỉ nhà Blake. Chiếc xe tải đỗ ngoài mặt tiền - Ford F-250 màu xanh - tuy nhiên biển số xe không còn là biển số Armstrong đã cho anh. Chẳng có dấu hiệu nào cho thấy chiếc xe tải này từng liên quan đến vụ tai nạn.
Cân nhắc một lúc Lucas cho xe tấp vào lề, mở chốt hãm trên quai đeo súng ngắn của anh, bước đến cửa trước rồi nhấn chuông. Một phút sau, cánh cửa bật mở, một cô bé tuổi vị thành niên đứng nhìn anh.
Lucas: “Bố mẹ cháu có nhà không?”
Con bé: “Cho hỏi chú là ai ạ?”
Lucas chìa ra thẻ và phù hiệu. “Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ Lucas Davenport... Chú cần nói chuyện với Gerald hoặc Marie Blake, hoặc cả hai cũng được.”
Con bé quay mặt vào nhà: “Mẹ ơi...”
MỘT PHÚT SAU ĐÓ, Marie Blake bước ra cửa, ngó ngó anh như người cận thị qua cặp mắt kính chống ánh sáng xanh. Bà ta bỏ kính xuống khi con bé nói, “Chú ấy nói mình là cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ. Chú ấy có phù hiệu”.
“Có chuyện gì vậy?” Người đàn bà hỏi.
Lucas giải thích việc anh đang làm, bà ta đáp, “Chúng tôi chưa từng đến West Virginia, ngay cả đi qua cũng không. Chúng tôi chuyển tới đây từ Delaware...”. Bà ta nói chồng mình đang đi làm; ông ta là viên chức ở Cục Quản lý nhà đất.
Lucas hỏi, “Bà có biết biển số xe nhà mình không?”.
“Không... Trong buồng lái có một thẻ bảo hiểm; chắc chắc trên đấy có ghi số xe.”
Lucas biết chuyện gì tiếp theo, nhưng họ vẫn ra ngoài xem xét. Biển số xe tải không khớp với biển số xe trên thẻ bảo hiểm, vì biển số kia của xe Blake đã bị ăn cắp và tráo đổi.
Anh gọi lại cho Armstrong. “Anh có tiếp cận được cơ sở dữ liệu các biển số xe bị đánh cắp tại Virginia không?”
“Được. Chờ tôi một phút.”
Lucas đọc cho anh ta biển số xe, một phút sau Armstrong gọi lại, “Có khả năng các biển số này của chiếc F-250 màu xanh bị ăn cắp một tuần trước tại Fair Oaks Mall. Không đánh tráo bằng bất kỳ biển số nào khác; chỉ đơn giản là biến mất. Chủ xe phát hiện việc mất biển số ngay sau khi ra khỏi siêu thị nên đã gọi điện báo cảnh sát”.
“Một ngày trước vụ tai nạn,” Lucas nói.
“Đúng.”
“Chúng không muốn nhà Blake phát hiện xe mất biển số, thế nên chúng đánh tráo bằng biển số khác. Bằng cách này, sẽ phải tiến hành hai bước để bắt chúng - cảnh sát sẽ phải chặn xe nhà Blake lại và báo xe bị mất biển số, tiếp theo để ý xe tải của kẻ kia. Nhưng chẳng ai chịu làm gì cả.”
“Có vẻ là thế,” Armstrong đáp.
Họ gặp bế tắc. Lucas ngắt cuộc gọi, bảo bà Blake rằng bà ta đang gặp rắc rối với mấy cái biển số, rằng biển số xe bà ta đã bị ăn cắp và có khả năng bị phi tang ở đâu đó, sau khi phạm tội. Bà ta cần phải mua biển số mới. Anh trao danh thiếp cho bà ta, dặn nếu bị bất kỳ ai ở Cơ quan Quản lý phương tiện cơ giới Virginia gây khó dễ thì cứ gọi điện cho anh.
ANH VẪN CẦN nói chuyện với hai người nữa trong danh sách của Carter. Vì đang ở cách nơi họ sống không xa, anh quyết định ghé qua. Tại điểm dừng đầu tiên, anh trông thấy ai đó đang làm việc trong nhà của James T. Knapp, nên anh nhấn chuông cửa không ngừng cho đến khi một bà to béo ra mở.
“Có chuyện gì thế?”
Lucas tự giới thiệu, rồi nói, “Tôi đang tìm ông Knapp?”. “Tôi là quản gia. Ông ấy đã làm gì vậy?”
“Theo tôi biết thì chẳng làm gì cả. Tôi chỉ hỏi thăm về một người ông ấy biết thôi.”
“Hừm.” Bà ta cau có nhìn anh, như thể đánh giá xem anh có đang nói thật không, cuối cùng bà ta thừa nhận, “Ông ấy đi California có việc gì ấy rồi”.
“Ông ấy ở trong quân đội sao?”
“Không, ông ấy là nhà truyền giáo. Chắc tuần sau ông ấy về, nhưng ông ấy vẫn trả lương cho tôi cả tuần sau nữa.”
TẠI NGÔI NHÀ KẾ TIẾP, dạng nhà trệt sơn màu xanh xám đứng biệt lập trong một khu yên tĩnh, xung quanh là các ngôi nhà có kiểu dáng kiến trúc tương tự, với cây cối và những bãi cỏ xinh xắn. Anh vừa quay bước khỏi cánh cửa trước, thì một chiếc Mustang động cơ năm lít màu đen tiến lên lối xe vào nhà. Một người đàn ông gầy còm, tay chân khẳng khiu, làn da rám nắng đen sạm trong bộ đồng phục quân nhân màu xanh bước xuống xe. Trên hai vai ông ta là huy hiệu lá sồi bạc quân hàm trung tá. “Xin chào?” Ông ta gọi to.
Lucas bước đến tự giới thiệu, viên trung tá nói, “Horace Stout. Tôi có thể giúp gì cho anh?”.
“Tôi cần nói chuyện với ngài về Jack Parrish.”
Mặt nhăn nhó, Stout đáp. “Vào nhà rồi hẵng nói.”
Tuy sống độc thân nhưng Stout vẫn giữ nhà cửa ngăn nắp, trong góc phòng là cây piano cỡ lớn dòng M.Steinway, loại dùng cho studio âm nhạc với một chồng bản nhạc cho đàn dương cầm đang nằm trên nắp phím. Lucas nói rằng vợ anh cũng có loại đàn tương tự. Stout nói, “Đó là những gì tôi nhận được sau mười một năm kết hôn. Cây đàn ấy cùng một con chó bệnh tật mới chết năm ngoái”.
“Rất tiếc về chuyện đó,” Lucas lẩm bẩm.
“Anh muốn nước cam hay nước khoáng đây?” Stout hỏi. “Tôi không có rượu.”
“Nước cam được rồi.”
Hai người ngồi tại bàn bếp của Stout, Lucas trấn an ông ta rằng bất kỳ điều gì ông ta nói về Parrish sẽ được giữ kín. “Tôi không ghi lại lời khai đâu, chỉ là đang cố gắng tìm hiểu thật sâu về tên này. Gã là ai, gã là người thế nào và gã làm gì.”
“Ngay bây giờ gã làm việc cho Thượng nghị sĩ Taryn Grant,” Stout nói, “nhưng điều đó anh biết rồi mà”.
“Tôi biết.”
“Trải nghiệm của tôi với gã là ở Iraq - các chuyến công tác của chúng tôi chồng chéo lên nhau. Gã đi hai chuyến, tôi đi năm chuyến, công việc chủ yếu là lo hậu cần từ Kuwait đến Baghdad.”
“Gã được trao Huân chương Trái tim Tím và Huy chương Ngôi sao Đồng,” Lucas nói. “Tôi cho rằng gã có tham gia chiến đấu.”
Stout thở dài, cuối cùng nói, “Tôi... anh biết đấy, cảnh sát Davenport, nói xấu một sĩ quan vắng mặt là điều không hay đâu”.
“Chi tiết này có thể quan trọng,” Lucas nói. “Tôi cho rằng ngài có thể nói xấu nếu muốn?”
Im lặng một lúc, Stout nhìn ra chỗ khác rồi nói, “Vài kẻ... được nhận huân chương. Vài binh sĩ thực sự bị thương nhưng không nặng, được y tá địa phương chăm sóc và cấp thuốc, nhưng chẳng bao giờ được trao Trái tim Tím. Những kẻ khác chỉ bị vài vết bầm, anh có thể gọi như thế, thì lại được nhận. Với Ngôi sao Đồng cũng tương tự. Chẳng ai trong quân ngũ nhắc đến chuyện này, nhưng thi thoảng nó là lợi thế chính trị để được lên lon”.
“Ngài đang nói rằng Parrish...”
“Tôi chẳng nói gì cụ thể cả,” Stout đáp. “Tôi đang nói chuyện xảy ra với một số người.”
Lucas nói, “Lý do tôi nói chuyện với ngài là thế này, tôi nghe nói ngài không bận tâm đến Parrish. Khi tiến hành điều tra, chúng tôi sẽ nói chuyện với những người mà...”.
“Tôi biết, tôi biết... Tôi biết anh đang làm gì,” Stout nói. “Tôi không bận tâm đến Parrish. Không một chút nào. Anh biết đấy khi đang làm hậu cần, trong vùng chiến sự, mọi việc phải được tiến hành rất nhanh chóng, và đôi khi quân trang bị... thất lạc.”
“Parrish đánh cắp à?”
Stout chỉ một ngón tay vào anh. “Tôi không nói gã ăn cắp quân trang, tôi chỉ nói là... một số lượng quân trang khá lớn thất lạc sau khi đi qua đơn vị của gã. Gã có một tên E-8 làm việc cho mình...”
“Xin lỗi, tôi không quen các cấp bậc trong quân đội.”
“E-8, thượng sĩ. Chuyện quân đội có vài thằng sĩ quan biến chất không phải là bí mật to lớn gì, nhưng tôi tin thằng này là một trong những thằng bịp bợm nhất tôi từng gặp. Tôi nghe nói hắn đang hưởng thụ cuộc sống xa hoa dưới vịnh Mexico. Nhưng ngay cả thế...”
Ông ta ngừng lại, cân nhắc. Lucas ép ông ta nói thêm, “Chuyện gì? Không có ai nghe trộm đâu”.
“Có rất nhiều nhà thầu quân sự tư nhân lảng vảng quanh Iraq. Các nhân viên bảo vệ của chúng tôi được tuyển mộ làm việc tại châu Phi chẳng hạn. Hầu hết là Uganda, cho dù họ thường xuyên làm việc cho các công ty đặt trụ sở tại Mỹ,” Stout tiếp lời. “Kể anh nghe nhé, Parrish thân thiết với mấy cha giám đốc người Mỹ này lắm. Các sĩ quan trung thực sẽ chẳng bao giờ dây dưa với lũ chó ấy. Nhưng Jack thì không. Có vẻ Jack nghĩ rằng chúng là những chiến binh lãng mạn. Gã thích giao du với chúng. Không thể chứng minh, nhưng tôi nghi ngờ rằng một số quân trang bị mất bị tuồn cho những kẻ này.”
Lucas nói, “Thú vị đấy. Gã còn thân thiết với mấy công ty đấy nữa không?”.
“Người ta đồn thế. Gã vào CIA làm việc sau khi rời quân ngũ, CIA cũng sử dụng rất nhiều các tổ chức nhà thầu tương tự. Sau CIA, có thời gian Parrish làm việc cho một trong các tổ chức này. Tôi không ưa gã, gã cũng chẳng ưa tôi, gã cho rằng tôi là kẻ khệnh khạng.” Ông ta liếc nhìn Lucas, như cố tìm hiểu xem anh có hiểu “khệnh khạng” nghĩa là gì không, rồi nói tiếp, “Điều tôi không thích đó là gã... không phải là sĩ quan chuyên nghiệp. Gã là kẻ lừa đảo. Kẻ lừa đảo trong quân đội, kẻ lừa đảo trong CIA. Mọi người nói rằng Thượng nghị sĩ Grant đang chạy đua vào ghế tổng thống. Nên giờ gã đang xúc tiến việc đó”.
“Cái từ này lặp lại rất nhiều khi mọi người nói về Parrish,” Lucas nói. “Khi gã còn làm trong Ủy ban Tình báo Thượng viện, đã xuất hiện điều tiếng về vụ đánh bom một khu chợ tại Syria...”
“Tôi biết chuyện đó,” Stout nói. “Nếu nơi đó chứa đầy khí độc thì gã là người hùng. Nhưng nếu hóa ra nó chẳng có gì hết ngoài một đống xác chết đầu quấn khăn, cũng có ma nào thèm quan tâm đâu? Một hoạt động điển hình của Parrish, theo ý tôi là thế.”
“Gã có gắn bó với nhà thầu quân đội đặc biệt nào không?”
Stout gật đầu. “Có một nhà thầu nơi gã từng làm việc một thời gian... Heracles Personnel,” ông ta đáp. “Đừng nói với ai là tôi nói. Họ rất có uy tín trong giới nhà thầu quân sự. Họ có quân đội riêng cùng với đội ngũ nhân viên hỗ trợ là thường dân.”
Hai người nói chuyện thêm một lúc lâu nữa, đến khi Lucas ra về. Stout bắt tay anh và nói, “Nghe này, anh cảnh sát, hãy gọi cho tôi khi phá xong vụ này nhé. Tôi muốn biết đã xảy ra chuyện gì”.
“Nếu tôi có thể,” Lucas nói.
ANH ĐANG TRÊN ĐƯỜNG quay về khách sạn thì Armstrong lại gọi, từ West Virginia.
“Tôi không định quấy rầy anh đâu,” Armstrong nói. “Anh có quấy rầy tôi đâu, Carl,” Lucas nói. “Chuyện gì thế?”
“Tôi đang suy nghĩ. Chiếc F-250 đó là loại xe tải phổ biến, nhưng là phổ biến ở nông thôn chứ không phải ở thành thị. Bất cứ kẻ nào đổi biển số chắc phải biết hai loại xe tải này rất giống nhau, có thể là bọn chúng đã theo dõi hai xe này từ trước. Có thể chúng thực sự sinh sống hoặc làm việc trong khu vực chung.”
“Phải, có khả năng đó.”
“Thế nên tôi bắt đầu tự hỏi, có bao nhiêu chiếc F-250 theo mã bưu chính đó? Cơ quan Quản lý phương tiện cơ giới Virginia có thể phân loại xe theo mã bưu chính - tôi kiểm tra rồi,” Armstrong nói. “Nếu anh kiếm đâu được một danh sách sau đó so sánh với các ảnh bằng lái, rồi tìm hiểu về mấy anh chàng này trên Internet, anh có thể phát hiện được điều gì đó. Ý tôi không phải là chắc chắn có thông tin để lần theo...”
“Carl... anh thông minh thật đấy.”
VỤ VIỆC CỦA LUCAS ĐANG TIẾN TRIỂN: Kẻ nào đó cố gắng đột nhập phòng khách sạn của anh, có thể hắn thực sự đã thành công; anh có một cái tên, Heracles Personnel; và bây giờ anh có ý tưởng làm thế nào để lần ra F-250.
Sếp trên danh nghĩa của anh đang làm việc ngoài trụ sở cảnh sát Tư pháp, cách nơi anh ở không quá vài dặm, nhưng gọi điện thoại sẽ nhanh hơn. Khi quay về Washington, len lỏi qua dòng xe giờ cao điểm, anh vẫn đang gọi cho Russell Forte. Anh ta đang chuẩn bị về nhà.
Lucas đề nghị anh ta thu thập bất kỳ thông tin gì có thể về Heracles Personnel, tìm hiểu xem liệu Cơ quan Quản lý phương tiện cơ giới Virginia có thể cung cấp danh sách xe tải F-250 quanh khu vực đang bị mất biển số, cùng các ảnh bằng lái của những lái xe đã đăng ký không.
“Ôi chết tiệt, tôi chả muốn về nhà nói chuyện với mụ vợ và lũ nhóc chút nào, với tất cả những rắc rối về chuyện nướng thịt ngoài trời, rồi làm sao để nấu mấy cái giẻ sườn mụ ấy mua chiều nay...”
“Về nhà đi, Russell,” Lucas nói. “Ngày mai trời lại sáng mà. Tôi còn hai nơi nữa phải đến thăm tại Washington. Tôi sẽ kiểm tra lại với ông vào sáng mai. Không cần sớm quá đâu.”
“Cảm ơn nhé,” Forte nói.
LUCAS QUAY VỀ KHÁCH SẠN, dùng bữa tối, về phòng mình tắm qua loa, rồi cẩn thận lựa chọn bộ complet sắc màu êm dịu hợp với mùa hè, áo sơ mi kẻ sọc, cà vạt Hermès cùng đôi giày John Lobb màu đen.
Anh nghĩ đến chuyện mang theo khẩu Walther, nhưng khẩu súng cứ cộm lên trong áo khoác. Cuối cùng anh cất nó trong két an toàn của phòng, dù anh vô tình biết rằng trung bình chỉ mất có tám giây là kẻ gian mở được bất kỳ két an toàn nào trong phòng. Xong xuôi anh gọi xuống lễ tân nhờ gọi một chiếc taxi. Mười phút sau anh đã trên đường đến đại lộ New Hampshire, tới Figueroa & Prince, một nhà may đồ nam anh từng đọc trên báo, tiến hành tìm hiểu rồi cuối cùng gọi cho họ trước khi rời St. Paul.
Tiệm may nằm trên phố N, dưới tầng trệt của một nơi trông như ngôi nhà xây bằng đá nâu tại New York, cho dù nó được xây bằng gạch đỏ. Đó là một tòa nhà ba tầng chỉ có tấm biển hiệu bằng bạc nhỏ cạnh cửa ra vào, cho thấy đây là một cơ sở kinh doanh. Khi Lucas thử mở cửa, thấy nó bị khóa, dù anh được báo rằng cửa hàng vẫn mở đến chín giờ.
Anh lùi lại một bước, nhận thấy một tấm biển hiệu khác, ghi dòng chữ “Làm ơn nhấn chuông trước khi vào.” Anh nhấn chuông cửa, một thanh niên má ửng hồng ngó ra ngoài cửa sổ nhìn anh, tiếng ting ting vang lên mời Lucas vào nhà.
Cậu thanh niên liếc nhanh qua trang phục của Lucas, mỉm cười rồi hỏi, “Chúng tôi có thể giúp gì cho ngài?”.
“Tôi muốn tìm các bộ trang phục thu đông... Tôi được bảo đến tìm Ted.”
TED LÀ MỘT NGƯỜI GẦY CÒM, già hơn anh và hói đầu, có nụ cười e thẹn và giọng nói mềm mại. Lucas tự giới thiệu, Ted nói, “Ồ đúng rồi, quý ông đến từ Minnesota”.
Sau đó là bốn mươi nhăm phút nghiên cứu các mẫu vải và chuyện trò về màu sắc, không chỉ về chất liệu mà còn liên quan cả đến mắt, tóc và sắc mặt của Lucas. Ngoài ra là bài phỏng vấn tế nhị về nơi anh từng mua quần áo, phụ kiện và giày. Rồi mất bốn mươi phút nữa đo lường các kiểu, sau rốt Ted nói, “Trước mắt thế này thôi đã, ngài sẽ còn phải đến nữa để tiếp tục điều chỉnh... có thể trong vòng hai, ba tuần nữa?”.
“Không sao mà,” Lucas nói. “Tôi muốn nhận hàng sớm không về nhà lại lạnh mất.”
“Chúng tôi sẽ cố gắng xong cho ngài vào giữa tháng Chín.”
Lucas vụng về tính toán giá cả mấy bộ đồ, nhập hết tất cả vào thẻ American Express. Thanh toán xong xuôi, Ted gọi taxi, Lucas bắt tay ông ta rồi nói, “Đây đúng là trải nghiệm tuyệt vời”.
“Rất vui mừng được giúp đỡ,” Ted nói khi tiễn Lucas ra cửa. “Không nhiều người quan tâm như ngài đâu ạ. Phần lớn họ chỉ muốn mặc bộ sẫm màu, đừng nhăn quá nhiều và lúc nào cũng chỉ muốn nhanh.”
Lucas mỉm cười, tiến ra cửa, nghe tiếng cửa đóng sau lưng, anh bước xuống bậc thềm ra phố, nơi buổi tối dễ chịu sắp qua đi.
CÓ BA TÊN. Thoáng nhìn sẽ nghĩ chúng có vẻ là dân sành điệu - quần áo hợp mốt, quá dày dù trời nóng, với mấy cái mũ có vẻ kỳ quặc. Tuy nhiên quần áo của chúng quá sạch, giống hệt nhau về kiểu dáng lẫn màu sắc, cho dù có thể đó là cách các bộ đồ ấy được làm ra. Không đứa nào để râu. Và chúng không bước đi theo kiểu chậm chạp, ngập ngừng của dân thị thành, mà di chuyển hệt các vận động viên khỏe mạnh. Chúng đang tiến đến rất nhanh. Bàn tay chúng trống không.
Ngoài ra, cách tiếp cận này cho thấy những khía cạnh đáng chú ý hơn: (1) Mấy cái áo khoác trông có vẻ nặng nề, có thể mặc bên trong là giáp chống đạn, bảo vệ chúng rất tốt khi buộc phải đánh lộn. (2) Cả ba đều đội mũ kéo sụp xuống trán - một thằng đội mũ lưỡi trai, hai thằng kia đội mũ quần vợt. Mấy thằng vô tích sự đội mũ quần vợt à? Không thể nào. (3) Lucas có thể cảm thấy chúng đang nhắm vào anh. Một thằng nhanh nhẹn ập vào từ bên trái, một thằng băng qua phố tiến thẳng về phía anh còn một thằng ập vào từ bên phải.
Không mang súng. Không thể quay vào trong cửa hàng, cửa ra vào đã khóa sau lưng. Chỉ mất hai giây nhìn lướt qua cả ba tên và hiểu rõ ý đồ của chúng, anh đưa ra quyết định trong tích tắc.
Chạy.
Thằng bên phải nặng nề nhất, có lẽ là đứa chậm nhất, Lucas chạy thẳng về phía nó, ngoặt sang bên phải. Khi nó di chuyển để chặn đường anh, Lucas tránh sang trái, nó vung nắm đấm về phía anh, Lucas chặn được cú đấm đó rồi dùng chính gan bàn tay vừa đỡ đòn đánh thẳng vào mặt nó, phía dưới mũi. Bàn tay trượt lên thúc mạnh gờ lông mày của nó, khiến nó loạng choạng ngã ngửa ra.
Khi đánh vào mặt thằng đó, anh nhận ra không thể nhìn rõ được miệng của nó: nó đang đeo mặt nạ dệt kim màu nâu vàng nhạt. Cú va chạm khiến Lucas lảo đảo đến nỗi có thể trông thấy hai tên khác gần như ở ngay phía trên mình. Anh xoay người nhảy sang trái, khiến thằng nhanh nhất lại vướng thằng gần hơn, nên Lucas chỉ phải tránh một thằng.
Thằng gần hơn vừa lao tới vừa rút từ trong túi ra chiếc đèn pin, loại Maglite, có thể biến thành cái dùi cui hoàn hảo. Lucas chạy lắt léo nhưng lại bị kẹp giữa hai thằng. Anh tránh sang bên nhưng thằng kia vung cây đèn pin về phía anh, giáng một cú xuống lưng, phía dưới vai trái và trên xương bả vai. Anh loạng choạng, gần như choáng váng suýt vấp phải thằng đầu tiên, đang chống cả tứ chi xuống đất.
Lucas tránh nó. Thằng cầm đèn pin lại xông tới. Lucas né ánh đèn, chộp lấy mặt nạ của nó giật mạnh sang bên, vừa đủ cho anh nhìn thấy gương mặt nó, chỉ trong tích tắc, từ hai mắt trở xuống. Nó gạt tay anh ra, chiếc mặt nạ trượt lên trên che kín hai mắt, khiến nó mù dở; anh va phải thằng thứ ba, chúng loạng choạng. Tận dụng cơ hội, Lucas nhảy qua thằng đang quỳ dưới đất, tranh thủ đạp thật mạnh vào lưng nó, rồi bắt đầu vùng chạy.
Lucas nhanh hơn chúng một bước, có lẽ vẫn chưa đủ nhanh...
Tiếp theo có một chớp sáng, thêm một chớp sáng nữa. Lucas nghĩ có lẽ mình bị bắn nhưng không nghe thấy âm thanh nào. Ánh đèn chớp lóe lên từ bên kia đường chứ không phải từ đằng sau lưng. Liếc mắt về hướng đó, Lucas trông thấy một người đàn ông châu Á cao gầy một tay đang cầm điện thoại di động, một tay xách va li. Hình ảnh in đậm trong tâm trí anh đó là ông ta đã chụp lại hình ảnh trận ẩu đả...
Ánh đèn chớp khiến những kẻ tấn công bị phân tâm. Một tên trong bọn chạy vài bước về phía người châu Á, nhưng một thằng khác quát lên, “Không! Không! Không!” khi ông ta quay ngoắt lại, cắm đầu chạy xuống phố. Lucas chạy theo, tốc độ của anh sẽ nhanh hơn hẳn nếu hôm nay không phải đi giày tây để mua complet.
Lucas bắt đầu thét lên: “Cứu! Cứu! Cứu!”.
Anh quát to và di chuyển rất nhanh, cho dù chỉ có vài người trên phố, những mái đầu đang ngoảnh lại nhìn. Lucas tiếp tục chạy thêm khoảng hơn ba chục mét nữa trước khi mạo hiểm ngoái lại lần thứ hai... Anh thấy ba tên đang chạy theo hướng ngược lại, trước khi biến mất bên kia phố.
Tay người châu Á phía trước dừng chân. Lucas chạy về phía ông ta và gọi to, “Cảnh sát Tư pháp Mỹ đây. Đợi đã! Đợi đã!”.
Anh rút thẻ từ trong túi ra giơ lên trước mặt ông ta. Thở không ra hơi, anh lắp bắp, “Tôi là... tôi là cảnh sát Mỹ... Anh có chụp... được... cuộc ẩu đả đấy không?”.
Tay người châu Á gật đầu, rồi đáp bằng thứ tiếng Anh chuẩn xác, “Có. Hai tấm. Mấy thằng kia là ai vậy?”.
“Tôi không biết,” Lucas nói. “Có thể là bọn trấn lột.”
“Tôi không nghĩ thế,” tay người châu Á nói. “Tất cả bọn chúng đều đeo mặt nạ. Trông chúng giống hệt nhau. Tôi không nghĩ chúng là bọn trấn lột.”
Lucas gật đầu. “Anh có thể gửi mấy bức ảnh này vào điện thoại của tôi được không?”
“Được chứ. Tất nhiên.”
Các bức ảnh được gửi đến: chúng đủ sắc nét, nhưng tất cả những gì có thể đọc được chỉ là những bóng người và kích thước. Lucas hỏi tên và địa chỉ người đàn ông tại Nhật Bản. Ông ta trọ tại một khách sạn ở Washington, đang đi công tác.
KHI LUCAS bắt tay người đàn ông, một chiếc taxi xuất hiện ở góc phố. Anh nhảy ra phía trước đầu xe, tài xế hạ cửa kính xe xuống rồi nói, “Tôi nhận được một cuộc gọi,” và Lucas trả lời, “Nếu là tiệm Figueroa & Prince thì tôi gọi đấy”.
Anh vẫn còn thở hồng hộc, mồ hôi như tắm. Tay tài xế nhìn anh nghi ngờ, nói, “Được rồi, đó là nơi tôi đang tới”.
Lucas ngồi vào ghế sau rồi nói, “Khách sạn Watergate”.
Tay tài xế quay đi, miệng nói, “Có thể tôi sai, nhưng theo ý tôi trời nóng chết mẹ mà anh chạy bộ mặc complet thế kia”.
“Phải tập thể dục cơ tim bất kỳ lúc nào có thể,” Lucas nói. Họ đi qua nơi anh nhìn thấy ba tên kia lần cuối cùng, nhưng chúng đã biến mất. Anh sẽ không bao giờ đi ra ngoài mà không mang theo súng, nhưng kể cả nếu có mang, anh cũng không biết mình có kịp rút súng ra không. Chúng áp sát quá nhanh, trông rất chuyên nghiệp và có thể chúng có vũ khí. Nếu anh rút súng ra có thể chúng sẽ bắn anh. Dẫu vậy anh thấy... xấu hổ. Anh đã phải bỏ chạy, thét lên gọi người giúp như một bé gái.
“À thế đội Nationals thế nào rồi?” Tay tài xế hỏi.
“Tôi đến từ Minnesota,” Lucas đáp, ngả người vào lưng ghế. “Tôi là fan đội Twins.”
Tay tài xế suy nghĩ trong giây lát, rồi đáp, “Thế thì tôi chẳng nghĩ được gì rồi”.
VỀ KHÁCH SẠN, anh kiểm tra máy ghi âm. Không có kẻ nào vào trong phòng, cho đến giờ là vậy. Rồi anh gọi cho Rae. “Cô cùng Bob có thể qua đây sớm nhất mấy giờ?”
Cô đáp, “Ồ”.
Lucas nói, “Phải đấy”.
BỎ ĐIỆN THOẠI XUỐNG, anh vẫn còn chịu ảnh hưởng của adrenaline. Cuối cùng anh mặc lên người chiếc quần soóc tập thể thao, áo thun và đi giày vận động viên, bước xuống trung tâm tập thể hình, chạy vài vòng trên máy chạy bộ cho hết hưng phấn.
Quay về phòng, anh đi tắm, tập trung xem xét phần lưng: chỗ bị chiếc Maglite đánh phải chắc sưng bầm một cục, anh nghĩ. Ra khỏi phòng tắm anh xem đoạn cuối một trận của đội Dodgers từ West Coast, buông mình xuống giường suy nghĩ về chuyện bản thân đang già đi. Anh vừa qua tuổi năm mươi, nhưng anh đã yếu đi nhiều trong mười năm qua. Ba tên trấn lột kia hẳn là đã tẩn anh một trận ra trò.
Anh nghiền ngẫm thêm một lúc, rồi cuối cùng cố gắng thiếp đi vào lúc hai giờ sáng.
Sáng hôm sau anh trở dậy, cạo râu, đi tắm, đang chuẩn bị đi ăn sáng thì Forte gọi, “Anh vẫn còn lởn vởn quanh Heracles đấy chứ?”.