Forte nói, “Chúng là lũ bất lương, Lucas. Bọn lính đánh thuê. Quân nhân tại Iraq và Syria từng hàng tá lần khiếu nại về chúng, chính phủ hai nước còn kêu ca nhiều hơn. Chúng thuộc dạng bắn trước hỏi sau, nhưng có vẻ như chúng ta vẫn tiếp tục hợp tác làm ăn với chúng. Tôi nói ‘Chúng ta’ ở đây là Bộ Quốc phòng và các nhà thầu đang làm việc với chính phủ nước ngoài. CIA có lẽ cũng nhúng tay”.
“Chúng có làm việc tại Mỹ không?”
“Chúng chả có quyền hành gì ở đây cả,” Forte nói. “Chỉ cần chĩa súng vào ai đó, lập tức chúng sẽ bị khép tội tấn công người khác và sẽ đi tù. Chúng không phải CEO. Không phải là các sĩ quan thực thi pháp luật, không đời nào.”
“Nếu chúng nhảy xổ vào tôi trên phố thì...”
“Chúng làm thế rồi à?”
“Kẻ nào đó đã làm rồi,” Lucas đáp. Anh kể cho Forte nghe rắc rối mình gặp phải đêm qua rồi mô tả ba tên; cố tình bỏ đi phần la hét gọi người cứu như con nít.
“Ra vậy đấy,” Forte nói. “Nghe có vẻ như điều tôi hình dung về mấy thằng cha Heracles là đúng, cho dù thực sự tôi chưa từng được thấy tận mắt. Hầu hết những kẻ chúng gọi là tay chân đều là các cựu binh SEAL, Delta, Force Recon, Rangers, đại loại thế. Anh không thấy chúng mang súng à?”
“Không. Có vẻ cả ba thằng đều mặc áo khoác chùng - như thể chúng có mang vũ khí nhẹ, hoặc có thể chúng mặc sơ mi dày, hay có đệm lót, có lẽ chúng sẵn sàng đánh nhau,” Lucas nói. “Tôi nghi ngờ chúng chỉ muốn hạ gục tôi chứ không giết. Vì giết người có thể khiến kẻ nào đó gặp rắc rối, lớn hơn nhiều một vụ trấn lột người ngoại tỉnh.”
“Anh có chắc bản chất vụ này là thế không?” Forte hỏi.
“Tôi chắc chắn. Chúng ăn mặc rất tử tế. Đồng phục giống nhau. Đeo mặt nạ. Trông không giống bọn trấn lột rách rưới, thực sự chúng rất giống... cớm.”
“Đây là việc tôi muốn anh làm,” Forte nói. “Viết vụ đó ra, thật chi tiết vào. Gửi kèm cả hai bức ảnh chụp từ điện thoại nữa. Tôi sẽ lập hồ sơ ‘Vụ tấn công một cảnh sát Mỹ, chưa giải quyết’. Sau này nếu anh nhận diện được thằng nào trong số này, chúng tôi sẽ tóm hắn, buộc tội hắn. Với anh là nhân chứng duy nhất, chúng ta có thể không tiến được xa, nhưng khi tóm được một thằng có thể từ từ ép nó khai ra sau.”
“Lẽ ra việc này phải làm từ đêm hôm đó - hoặc gọi cho cảnh sát D.C..”
“Tôi sẽ gọi báo cho họ. Tôi có thể giấu thời gian anh báo án. Nếu chúng nghĩ anh báo án ngay lập tức... cứ kệ chúng nghĩ thế. Làm vậy chúng ta sẽ cùng theo dõi với hai cơ quan khác nhau.”
“Được rồi.”
“Chà, có vẻ cuộc sống ngày càng phức tạp hơn nhỉ, nhưng đó là lý do tại sao người ta thuê anh làm việc,” Forte nói. “Còn việc gì nữa anh định làm không?”
“Trước mắt là gọi cho Bob và Rae. Họ sẽ nói chuyện với các anh về việc tới đây.”
“Chúng tôi sẽ làm thủ tục cho họ. Giờ thì về chiếc Ford F-250 kia... Có bốn mươi bảy mẫu F-250 đen thùng ngắn năm ngoái được đăng ký với ba mã vùng quanh khu vực biển số xe bị ăn cắp. Đen là màu phổ biến, tuy nhiên F-250 rất đắt tiền, thế nên không nhiều như tôi dự kiến...”
Lucas: “Viên cảnh sát West Virginia tôi đã nói chuyện...” “Armstrong.”
“Đúng, anh ta nói chiếc xe tải này còn mới, nhưng không nói rõ được là năm nào, thế nên có thể chúng ta nên tìm kiếm cả mẫu năm nay nữa.”
“Không. Sáng nay tôi đã nói chuyện với anh ta, ngay sau khi đến nơi, anh ta đã gửi cho tôi mấy bức chụp nhanh từ video an ninh,” Forte đáp. “Mới có hai năm các đèn đuôi đã có sự thay đổi - đó là mẫu của năm ngoái, không phải năm nay.”
“Anh kiếm được mấy cái bằng lái để tra cứu chưa?”
“Làm rồi. Thu được cả một đống manh mối, nhưng chẳng cái nào dẫn thẳng đến Heracles. Vài quân nhân - hải quân nhiều hơn là lục quân, nhưng có thể bao gồm SEAL. Hoạt động tội phạm chỉ toàn là việc lặt vặt. Vài vụ bắt bớ do lái xe khi say xỉn, bạo lực gia đình, đại loại thế.”
“Gửi cho tôi mấy ảnh bằng lái được không?” Lucas hỏi
“Trợ lý của tôi đang sắp xếp chúng luôn đây này. Anh sẽ nhận được trong hai mươi phút nữa.”
“Russell, cảm ơn anh. Tôi sẽ liên tục cập nhật tin tức cho anh.”
“Bảo trọng nhé,” Forte nói. “Tôi không thích chuyện như tối qua đâu.”
LUCAS ĐI thang máy xuống nhà, ăn sáng, rồi quay lên và thấy bốn mươi bảy tấm ảnh bằng lái được gửi kèm trong email. Mười hai người là nữ, vậy nếu có liên quan, thì ai trong số này khớp với bất kỳ gương mặt nào mà anh hay nhân viên an ninh khách sạn đã thấy?
Anh xem qua bốn mươi bảy tấm ảnh, hai lần lật lại hình ảnh một người tên là James Harold Ritter, ba mươi chín tuổi. Trông gã giống thằng đeo mặt nạ anh đã kéo xuống. Trong ảnh này gã đang đội chiếc mũ quần vợt màu xanh kéo sụp xuống trán, thế nên Lucas không mấy tự tin để nhận dạng, tuy nhiên cằm và miệng thì khá giống. Anh rút điện thoại ra gọi cho Schneider, hỏi xem Jeff Toomes có đang làm việc không.
Toomes đang ở trong khách sạn. Mười phút sau cậu ta đến, phảng phất mùi bim bim hành. Lucas cho cậu ta xem các bức ảnh.
“Tôi không nghĩ vậy,” cuối cùng cậu ta nói. “Các bức ảnh này không rõ lắm, tuy nhiên tôi chẳng nhận ra được ai cả.”
KHI LUCAS tiễn cậu ta ra cửa, Toomes quay người lại nói, “Để tôi cho anh xem một thứ”.
Cậu ta quay ngoắt vào nhà tắm, nơi cái hộp khăn giấy đang nằm trên bồn rửa. Cậu ta rút ra một chiếc, xé ra một mảnh cỡ 1/4, phần còn lại xả xuống bồn cầu, lấy góc nhỏ của mảnh khăn chạm vào đầu lưỡi để làm ẩm, vo tròn thành một viên đạn giấy nhỏ, rồi ấn mạnh vào lỗ mắt thần trên cửa.
“Các mắt thần này nhìn được cả hai chiều,” cậu ta nói. “Có một thằng bệnh hoạn thích lang thang quay lén các phụ nữ nổi tiếng, có thói quen không mặc quần áo đi lung tung trong phòng. Hắn sẽ quay phim qua lỗ mắt thần này. Tôi nghĩ anh có thể mua cặp thấu kính đặc biệt chỉ nhằm cho mục đích này, có bán trên Internet. Trừ phi anh muốn tận dụng cơ hội ai đó ngắm mình, bằng không hãy dùng viên đạn giấy này nhé.”
“Tôi sẽ làm thế,” Lucas đáp. “Cậu có vẻ thạo mấy cái món an ninh khách sạn này nhỉ?”
“Vâng,” Toomes nói. “Có nhiều chuyện lạ lùng xảy ra trong khách sạn lắm. Rất thú vị.”
CẬU TA ĐI RỒI, Lucas gọi cho Forte. “Tôi cần anh tìm hiểu mọi thứ có thể về James Harold Ritter. Anh có thông tin bằng lái của gã rồi nên chắc sẽ đơn giản thôi. Không một thông tin nào là nhỏ nhặt hết.”
“Tôi đang họp. Cho tôi hai tiếng.”
“Được. Tôi sẽ làm một vòng quanh nhà gã để xem có tìm được gì không,” Lucas nói.
“Bình tĩnh nhé, anh bạn.”
Nhưng anh không đi ngay lập tức. Thay vào đó anh gọi cho Smalls và nói, “Ngài có thuê một người phụ nữ dọn dẹp ở cabin. Janet Walker...”.
“Đúng, bà ta mở một dịch vụ chăm sóc nhà cửa cho các chủ đất vắng nhà.”
“Tôi cần số điện thoại của bà ta,” Lucas nói.
Mất một lúc Smalls mới quay lại với số điện thoại. “Là số di động; bà ấy thường trả lời ngay đấy.”
Đúng vậy thật. Lucas tự giới thiệu, rồi hỏi, “Bà có truy cập Internet được không?”.
Bà ta đáp, “Tôi sống tại West Virginia, chứ có phải trên mặt trăng đâu”.
“Tuyệt. Ngay bây giờ được không?”
“Tôi đang ở ngoài sân. Phải đi bộ vào trong nhà.”
“Tôi sẽ gửi cho bà tám hoặc mười tấm ảnh. Gọi lại cho tôi nếu ai đấy trong số này giống những kẻ lái chiếc F-250 mà bà đã thấy.”
Toàn bộ quá trình tìm hiểu các tấm ảnh chỉ mất năm phút. Lucas gửi mười tấm và sau khi xem xét, Walker trả lời, “Tấm ảnh thứ ba - trông giống tên tài xế. Tôi không chắc mình có thể thề chính là hắn hay không, nếu như phải ra tòa, nhưng trông giống hắn lắm”.
“Cảm ơn bà,” Lucas nói. “Nếu có thể mong bà giữ kín chuyện này nhé.”
JAMES HAROLD RITTER.
Lucas có đến ba dấu hiệu dẫn đến Ritter: ấn tượng của anh về gương mặt của kẻ tấn công trên phố; kết quả nhận dạng của Walker; và sự thật gã sở hữu một chiếc F-250 đen. Có thể là trùng hợp, nhưng Lucas cảm thấy mình đang đi đúng hướng, rằng Ritter chính là kẻ anh cần tìm.
Giống hầu hết những người Lucas đang cố gắng tìm kiếm, Ritter sống bên kia sông Potomac tại Virginia, hóa ra lại là khu chung cư ngăn nắp cách nơi các biển số F-250 bị đánh cắp không xa. Khu này thiết kế các không gian đỗ xe có mái che riêng phía sau tòa nhà. Cho dù bằng lái của Ritter không ghi số căn hộ, nhưng Lucas vẫn nhận ra chiếc Ford màu đen, có đánh số căn hộ liền kề; rõ ràng số căn hộ này có bao gồm chỗ trống bên cạnh chiếc bán tải.
Lucas đỗ xe trong khu dành cho khách rồi bước đến gần chiếc F-250. Trong cái nóng ban trưa và xung quanh chẳng có ai, anh bước vào bãi đỗ có mái che để xem xét nó gần hơn.
Smalls từng nói sườn ghế hành khách trên xe của kẻ tấn công đã huých mạnh vào chiếc Cadillac của ông ta. Khi Lucas ngồi xổm sau gầm xe bán tải, anh nghĩ rằng mình có thể trông thấy vết biến dạng rất khó nhìn trên tấm kim loại của xe tải. Anh vòng ra ghế tài xế kiểm tra đối chiếu, rồi quay lại ghế hành khách, vết biến dạng - chẳng vết nào dễ thấy bằng vết lõm hay vết rạch - thậm chí còn nổi bật hơn nhiều, như vết lõm 1/4 phân trên đường vân kim loại.
Anh đi dọc sườn xe lên đầu xe để nhìn. Vết biến dạng tương tự hiện lên rất rõ, trên nắp cao su chống bụi của đèn pha phía trước có một vết nứt nhỏ bên tay phải. Anh dòm vào cửa kính chỗ ghế hành khách, nhưng chẳng thấy gì trên các ghế ngồi. Anh kéo áo lên, bọc quanh bàn tay rồi thử mở cả bốn cửa. Tất cả đều khóa.
Chiếc xe này mới được rửa sạch sẽ, Lucas nghĩ, khi cuốn bàn tay trong vạt áo lướt quanh thân xe: hoàn toàn không còn một hạt bụi, thậm chí ngay cả giám định viên kỳ cựu cũng sẽ bối rối khi mang nó đến West Virginia. Dẫu vậy chiếc xe tải này có liên quan đến vụ va chạm bất thường: anh không dám chắc mình đã tìm đúng chiếc xe hất văng xe của Smalls và Whitehead, nhưng anh đã tìm thấy một ứng cử viên vững chắc. Chứng minh được nó lại là một vấn đề khó khăn hơn rất nhiều.
Va chạm đủ mạnh để hất văng một trong hai xe lao xuống vực, tuy nhiên cả hai xe gần như không bị thiệt hại nặng là sao? Anh bắt đầu suy nghĩ...
Ý nghĩ đầu tiên: Chuyện gì xảy ra nếu Ritter cùng đồng bọn tự chế một lưới mắt cáo làm bằng các thân cây mới chặt, sau đó gắn vào sườn xe tải? Chắc hẳn chúng phải lót đệm phía dưới các thân cây để ngăn ngừa thiệt hại, nhưng chúng hẳn sẽ muốn dùng gỗ nguyên liệu để húc vào chiếc Cadillac.
Như thế sẽ đơn giản. Khi còn trong đội Hướng đạo sinh, nhóm của Lucas từng đóng mấy cái bè bằng gỗ thừa và dây thừng xuôi dòng sông Rum. Gắn vào một bên sườn xe tải, mấy cái bè sẽ là lớp bảo vệ xe rất tốt trước va chạm, chưa kể chiêu này còn giúp loại bỏ chứng cứ gỗ tiếp xúc với kim loại.
Nhưng kẻ nào sẽ nghĩ ra chiêu này?
Lucas cho rằng, mọi người sẽ luôn nghĩ ra những cách giết người sao cho không thể bị phát hiện. Dân chuyên nghiệp cũng phải đối mặt thách thức này: hất một chiếc xe lao xuống vực mà không có bất kỳ tiếp xúc nào giữa kim loại với kim loại. Đứng trước vấn đề nan giải này, hẳn ai cũng sẽ nghĩ đến ý tưởng lưới mắt cáo bằng thân cây.
LUCAS QUAY VỀ chiếc Evoque, khởi động máy, bật điều hòa lên mức cao nhất rồi gọi cho Carl Armstrong, nhà điều tra tai nạn West Virginia.
“Có thể tôi đã tìm được chiếc F-250 đó rồi,” anh nói khi Armstrong nhận cuộc gọi. Anh mô tả điều kiện xe rồi hỏi, “Anh có thể thấy đã có va chạm nào đó, nhưng vì xe đã được rửa sạch... liệu còn có thể tìm được gì không?”
“Nếu chứng minh được đã có va chạm, chúng tôi có thể thẩm vấn hắn chuyện này xảy ra khi nào và tại sao thiệt hại này rộng nhưng lại khó nhìn đến thế, rằng hắn có trình báo vụ tai nạn hay không. Kiểu thiệt hại này không phổ biến đâu - thực ra tình huống này tôi chưa gặp bao giờ. Khó giải thích lắm.”
Lucas kể cho Armstrong nghe ý tưởng lưới mắt cáo bằng thân cây, một lúc sau anh ta đáp, “Có vẻ không thực tế lắm. Nếu không muốn nói là... ngớ ngẩn”.
“Tôi sẽ giải thích anh nghe,” Lucas nói. “Anh có cho rằng ý tưởng của tôi đủ sức gây ra kiểu thiệt hại tôi từng thấy không?”
“Chà...” - Lucas có thể hình dung Armstrong đang gãi đầu - “tôi nghĩ là có thể. Nếu sườn xe phía sau có lót đệm. Có thể thứ gì đó giống như tấm đệm cao su đủ cứng cáp thì sẽ ổn. Đợi có bằng chứng pháp y vững chắc đã... chứ nghe phi thực tế lắm. Lý do thì đây, mọi thứ mà anh nhìn thấy đang chạy quanh miền đông West Virginia cũng đang chạy quanh Virginia. Đại loại như phấn hoa ấy.”
“Được rồi. Giờ tôi chả muốn liên quan nữa, nhưng tôi gọi anh vì muốn tìm hiểu một góc nhìn chuyên nghiệp, sau khi chúng ta ra hiện trường điều tra.”
“Rất sẵn lòng,” Armstrong nói.
LUCAS BƯỚC tới mặt tiền khu chung cư, đến trước cánh cửa ra vào bằng kính, hóa ra lại là cánh thứ nhất trong hai cửa. Anh có thể vào qua cửa kính bên ngoài, nhưng cửa bên trong lại khóa. Trên tường có lắp điện thoại, với một tấm biển in chữ đậm viết rằng: “QUAY SỐ 1 + SỐ CĂN HỘ,” và bên dưới, không in đậm, viết rằng, “Quay số 1+00 gọi văn phòng quản lý.” Một chiếc camera an ninh hình vòm trên trần nhà giám sát cửa ra vào và chỗ đặt điện thoại.
Anh quay số gọi văn phòng, tự giới thiệu với người phụ nữ trả lời cuộc gọi. “Tôi sẽ để anh vào. Rẽ trái ở khúc ngoặt đầu tiên rồi đi thẳng xuống cuối sảnh. Phòng chúng tôi ở cuối dãy bên trái.”
Bà ta ấn nút cho anh vào. Đằng sau cánh cửa là một buồng thư khép kín, với các hộp thư nằm bên ngoài dành cho người ở trong khu chung cư, và một khu vực khép kín phía sau cho phép nhân viên bưu chính bỏ thư vào khe hở dưới đáy hòm thư mà không cần chìa khóa mở. Không có máy quay nào giám sát cửa buồng thư.
Lucas kiểm tra cánh cửa: đã khóa, tuy nhiên ổ khóa rất lỏng lẻo, cánh cửa rung đùng đùng trong khung. Anh tiếp tục đi vào tòa nhà, đầu tiên đi sang bên trái, xuống cuối sảnh rồi bước vào văn phòng, nơi một phụ nữ đang ngồi tại bàn làm việc phía sau quầy. Rời mắt khỏi màn hình máy tính, bà ta hỏi, “Có chuyện gì vậy?”.
Trình thẻ và phù hiệu cho bà ta xem, Lucas nói, “Tôi là cảnh sát Tư pháp Mỹ. Chúng tôi đang cố gắng liên hệ với Thomas D. Pope, người đang sống ở đây”.
Tỏ vẻ bối rối, bà ta đáp, “Tôi biết tất cả mọi người sống ở đây. Chẳng có ai tên là Thomas Pope hết”.
Lucas nói, “Hả? Bà có chắc không?”.
“Chắc như đinh đóng cột,” bà ta nói. “Anh có chắc mình nhớ đúng tên không đấy?”
Lucas gãi đầu. “Tôi nhớ đúng tên mà, nhưng có vẻ như sai tòa nhà... Tôi đang dò theo miêu tả nên không có địa chỉ chính xác.”
“Anh cần một địa chỉ,” bà ta nói. “Quanh đây có gần một triệu tòa chung cư. Tòa này đẹp đấy, không có nhiều tòa nhà giống vậy đâu.”
Lucas xoa xoa mũi. “Tôi đoán chắc phải dùng biện pháp cứng rắn. Kiếm được địa chỉ chính xác không dễ như người ta tưởng đâu, vì cha này di chuyển liên tục.”
“Ước gì tôi giúp được anh...”
“Không phải lỗi của bà mà... Chúc một ngày tốt lành.”
LUCAS QUAY RA lối vào chính, nhưng thay vì đi ra ngoài anh đi thang bộ lên tầng hai. Các tiền sảnh tỏa ra theo hai hướng bắt đầu từ đầu cầu thang, một hướng thảm màu đỏ thẫm, một hướng thảm màu xanh. Tiền sảnh vắng tanh; khu phức hợp này chỉ dành cho dân bàn giấy, những người cư trú trong này đều đang làm việc. Nếu anh muốn đột nhập vào căn hộ của Ritter, chẳng có nhiều người lảng vảng xung quanh, và anh không thấy chiếc camera an ninh nào hết. Anh xuống cầu thang tiến thẳng tới lối ra.
Tại buồng thư, anh trông chừng người đi ra đi vào, tay nắm chặt nắm đấm cửa, gắng hết sức tì người vào cửa, đẩy nó dịch sang bên về phía các bản lề, thêm một cú huých vai nữa thì cánh cửa bật mở. Tất cả đáy hòm thư được phân theo tên và số căn hộ. Lucas xem qua hết một lượt, tìm thấy hòm thư của Ritter. Nửa tá thư đang nằm trong hòm, anh nhanh chóng lật qua trong khi vẫn để ý nghe tiếng bước chân bên ngoài. Ba thư quảng cáo, một hóa đơn tiền điện và một bản sao kê ngân hàng.
Anh bỏ bản sao kê ngân hàng vào túi áo khoác, để lại xấp thư về chỗ cũ. Ổ khóa trên cánh cửa có chốt quay ở bên trong, anh mở chốt, bước ra ngoài, đẩy cánh cửa đóng chặt sau lưng. Có thể nhân viên bưu chính sẽ nghĩ rằng mình quên khóa cửa.
Anh bước ra ngoài, sự căng thẳng tan biến dưới ánh mặt trời. Trộm thư, một trọng tội liên bang, nếu bị phát hiện, nhưng chuyện đó sẽ không xảy ra.
Anh hy vọng thế.
ANH LẠI BƯỚC vòng quanh tòa nhà. Hơi nóng bốc lên ngột ngạt, dù anh mới chỉ xa chiếc Evoque có vài phút, trong xe đã nóng như một cái lò. Anh khởi động xe, đứng bên ngoài một lúc, cởi áo khoác trong khi điều hòa không khí bắt đầu chạy. Anh lần túi áo lấy bản sao kê ngân hàng của Ritter ra.
Bản sao kê gồm các khoản thanh toán định kỳ cho mười lăm hoặc hai mươi nhà cung cấp khác nhau - gas, điện, nước, truyền hình cáp, Visa và Amex. Khoản tiền sắp nhận được thú vị hơn nhiều. Anh thấy có vẻ đây là những khoản lương hàng tuần do một công ty có tên Flamma Consultants chi trả.
Anh nhét lá thư vào túi quần bên hông: về đến khách sạn anh sẽ xé thư rồi xả dưới bồn cầu.
KHI QUAY VỀ qua sông Potomac, anh nhận được cuộc gọi của Rae Givens. “Chúng tôi đã nói chuyện với anh chàng Forte của anh rồi, và ngay bây giờ chúng tôi đang trên đường xuống New Orleans. Chúng tôi sẽ bay thẳng về D.C. Anh ấy đã đặt phòng cho chúng tôi tại khách sạn Watergate. Tôi nói: ‘Anh đang đùa đấy à?’ và anh ta đáp, ‘Không, sao tôi lại đùa chứ?’. Tôi nói: ‘Được rồi’... Thế nên tối nay hẹn gặp anh tại đó.”
Một cuộc gọi nữa của chính Forte, kèm thêm thông tin về Ritter. “Không có nhiều thông tin về hắn trong các hồ sơ; chúng tôi không được phép xem các tờ khai thuế thu nhập của hắn, nhưng đã xem qua các hồ sơ quân sự và hộ chiếu. Hắn có ba lần làm nhiệm vụ tại Iraq và được đánh giá tích cực. Hắn nhận được việc làm trong lực lượng Delta, có vẻ hắn phục vụ ở đây suốt đời. Thay vì tiếp tục tham gia lần thứ ba, hắn từ bỏ. Hộ chiếu cho thấy hắn từng tới Iraq, Kuwait, Afghanistan và Pakistan, trong phần lớn thời gian kể từ đó.”
“Một thằng cha hiểu biết nhiều. Khó chơi đây.”
“Ừ... Anh biết thêm được gì không?”
“Có. Tôi sẽ quay về khách sạn viết hết ra, nhưng về cơ bản vụ đâm xe của Smalls không phải là tai nạn. Mà là một âm mưu ám sát và giết người, Ritter có tham gia vụ này. Xe của hắn được sử dụng để hất văng xe của Smalls và Whitehead.”
“Lucas, anh phải chắc chắn đấy,” Forte nói. “Chuyện nhạy cảm này không đùa được đâu.”
“Giờ thì tôi chắc rồi, nhưng không thể chứng minh được. Giữa tôi và anh thôi nhé, chúng ta phải tìm ra từ đây mình nên đi đâu. Suy nghĩ đi.”
“Viết hết ra đi, chi tiết vào, đừng bỏ lỡ điều gì. Nếu chúng ngửi thấy anh đang bám đuôi, có thể chúng không cố gắng đập anh lần nữa. Lần tới chúng có thể mang súng theo đấy.”
“Bob và Rae...”
“Là một ý hay, nhưng có thể không đủ. Tôi cần biết mọi điều anh biết, phòng trường hợp anh gặp rắc rối.”
Chẳng hạn như bị bắn, Lucas nghĩ, mỉm cười với chính mình. “Tôi sẽ gửi email cho anh, Russell. Cuối giờ chiều nay nhé.”
TẠI KHÁCH SẠN, Lucas ghi chép một chút sau đó xé vụn bản sao kê ngân hàng của Ritter rồi xả xuống bồn cầu. Xong việc anh đá văng giày sang bên, buông mình xuống giường, rút điện thoại dùng một lần ra gọi cho một người bạn ở St. Paul tên là Kidd, một họa sĩ và là chuyên gia dữ liệu máy tính. Lucas tin rằng vợ Kidd là nữ tặc trộm đồ trang sức, nhưng đó lại là một câu chuyện khác.
Kidd nhận cuộc gọi. Lucas tự giới thiệu - “Ối ôi. Điện thoại dùng một lần cơ à?” - rồi hỏi anh ta về hội từ thiện yêu thích.
“Ngoài tôi ra ấy hả? Viện Nghệ thuật Minneapolis. Weather đúng là mạnh thường quân ở đó đấy, tôi hiểu mà,” Kidd đáp.
“Tôi sẽ quyên một nghìn đô cho học viện nếu anh có thể đào xới chút thông tin trên Internet và hướng dẫn cho tôi biết phải làm thế nào,” Lucas nói.
“Tất cả chuyện này là sao? Đến nỗi anh phải dùng đến loại điện thoại này để hỏi tôi?”
“Về một vụ giết người và âm mưu ám sát...”
Kidd từng giúp Lucas trong cuộc điều tra ban đầu về Taryn Grant. Giống Lucas, anh ta tin rằng Grant là kẻ sát nhân và rằng mụ ta kiếm được ghế trong Thượng viện bằng mánh khóe chính trị đầy nham hiểm. Lucas giải thích về vụ tai nạn, những gì anh tìm hiểu được về Ritter, kể cho anh ta nghe cả về Jack Parrish và Heracles.
“Tôi rất khó giải thích làm sao tôi tìm ra mối liên kết giữa Ritter và Flamma,” Lucas nói. “Tôi cần phải lần ra nó trên mạng. Cậu biết đấy, như kiểu tôi muốn tìm hiểu về cái gì đó và nó hiện ra. Tôi cần tìm ra nó thật nhanh.”
Kidd nói anh ta sẽ bắt đầu tìm. “Tôi thích được thấy anh tóm Grant. Mụ ta đúng là kẻ sát nhân phát xít, nhưng vú căng đấy,” anh ta nói.
Từ âm thanh nền, Lucas nghe thấy tiếng vợ Kidd, Lauren quát lên, “Này! Em vẫn đang đứng ở đây nhá”.
“Gọi cho tôi vào số này,” Lucas nói. “Đừng gọi vào máy chính. Tôi sợ bị nghe lén.”
“Anh nên thế,” Kidd đáp. “Cho tôi vài tiếng nhé.”
LUCAS MẤT MỘT TIẾNG để tổng hợp mọi thứ thành một email gửi cho Forte, giải thích anh đã làm thế nào để truy ra Ritter, bỏ qua phần ăn trộm bản sao kê ngân hàng. Anh lưu lại thư điện tử trong laptop nhưng chưa gửi đi. Anh quay vào giường, nhắm mắt lại và suy nghĩ về vụ án. Cho đến giờ anh chẳng biết gì về Grant hoặc Parrish. Chúng là những kẻ anh cần phải nắm được. Nếu anh tóm cổ được Ritter vì giết Whitehead, anh có thể bàn bạc với cảnh sát West Virginia xem xét khởi tố. Viễn cảnh sống trong nhà tù West Virginia sẽ là động cơ mạnh mẽ khiến hắn muốn nói chuyện về Grant và Parrish.
Tất nhiên, Ritter có thể là một trong những kẻ khắc kỷ cứng đầu kiêu ngạo không thèm nói chuyện, và hắn sẽ là tên đầu tiên vào tù.
KIDD GỌI LẠI.
“Anh nói mình đã biết về Heracles. Nếu anh xem các tài liệu sáp nhập của công ty - tôi sẽ gửi cho anh một đường liên kết - anh sẽ thấy danh sách các thành viên cao cấp. Nếu anh tra cứu về những người này anh sẽ thấy rằng họ cũng là nhân viên của hai công ty khác nữa, Flamma Consultants và Inter-Core Ballistics Products.”
“Chờ đã... Có mối liên kết trực tiếp giữa Heracles, Flamma và Inter-Core à?”
“Không hẳn là trực tiếp, nhưng đúng, tất cả được điều hành bởi những người giống nhau.”
“Kidd... chuyện này nghiêm trọng rồi. Tôi quyên thêm mười đô nữa cho bảo tàng.”
“Cảm ơn nhiều, anh bạn. À mà nếu anh tra cứu Flamma Consultants, anh sẽ thấy một bài báo trực tuyến được đăng trên tờ Combat Tech Review số tháng Chín năm ngoái, có tựa đề ‘Các vũ công Cancan’. Trong thế giới súng đạn, các bộ triệt tiếng ồn - ống giảm thanh - được gọi là những vũ điệu cancan. Trong bài báo đó, anh sẽ thấy một bức ảnh chụp Ritter và hai người khác, tất cả đều nai nịt gọn gàng, đang kiểm tra các ống giảm thanh cho súng cỡ nòng lớn tại một trường bắn ở Virginia... Ritter đeo thẻ nhân viên của Flamma. Đó là cách anh liên kết chúng lại với nhau.”
“Tuyệt vời,” Lucas nói. “Tôi nợ cậu đấy.”
“Anh nợ bảo tàng thì đúng hơn. Một nghìn lẻ mười đô. À mà ban đầu Flamma là một võ sĩ giác đấu La Mã nổi tiếng, thích hợp với toàn bộ Heracles kinh điển mà chúng ta đã biết. Tôi khuyên anh nên xem bài báo đó. Ritter đang thử nghiệm ống giảm thanh cho súng bắn tỉa M2010, nó tương tự khẩu Winchester Magnum cỡ nòng 300 có tầm bắn hiệu quả trong vòng hơn một ngàn mét. Nói cách khác, chúng có thể bắn trúng lưng anh từ khoảng cách hơn nửa dặm đấy.”
“Cảm ơn vì chỉ dẫn,” Lucas nói. “Tôi sẽ trốn dưới gầm giường. Nghe này, cái công ty Inter-Core Ballistics này... Tôi đã gặp gỡ một luật sư ở ngoài này, bà ta kể tôi nghe một câu chuyện thú vị về gói thầu ở Lầu Năm Góc.”
Khi mô tả cuộc gặp gỡ với Ingram, Lucas cùng lúc kiểm tra lại các ghi chép: “Thân chủ của bà ta là Malone Materials. Nếu cậu có thể kiểm tra và biết được gì đó về vụ kiện đặc biệt này...”
“Tôi rất ghét chuyện này. Bao nhiêu người tốt phải chết vì nó,” Kidd nói. Lucas biết Kidd từng phục vụ trong một đơn vị quân đội hồi còn thanh niên. “Tôi sẽ gửi lại cho anh - tôi có thông tin mở rộng về Lầu Năm Góc. Anh tốt nhất nên trốn dưới giường đi.”
Thay vì làm theo lời khuyên của Kidd, Lucas mở đoạn văn bản định gửi cho Forte, bổ sung thêm chút thông tin về Flamma, mà anh tự cho mình là người tìm kiếm nó trên Internet, rồi nhấn nút gửi.
GRANT VÀ PARRISH: đến lúc tới thăm chúng rồi.
Anh mặc áo vào rồi bước ra ngoài, dành cả buổi chiều tìm kiếm nhà của chúng, mà không xa lắm, ở Georgetown.
Grant có một tư dinh hoàn toàn xứng đáng cho một tỉ phủ sinh sống, trong khi Parrish sống trong một căn nhà phố. Lucas rút ra chiếc iPad và nhập vào địa chỉ của Parrish: nó hiện ra trên trang Zillow, cho thấy ba năm trước căn nhà đã được đem bán với giá gần một triệu rưỡi đô. Gồm có ba phòng ngủ, ba phòng tắm, “gần với khu mua sắm M Street”.
Không tồi với một thằng cha chưa từng làm việc cho bất kỳ cơ quan nào, ngoài chính phủ liên bang và có thể có hai, ba năm kinh doanh riêng, Lucas nghĩ. Sẽ rất thú vị khi tìm hiểu xem hắn có tài sản thế chấp hay không, và nếu có thì lớn chừng nào.
Trong khi đó...
Anh lái xe đến phố M để xem đây có phải là phố lớn không - và đúng thật. Nó giống như đại lộ Madison gặp gỡ Greenwich Village, pha trộn các cửa hiệu thời trang sành điệu với nhiều tiệm hamburger, các quán bar và các cửa hàng xe đạp nhắm vào thế hệ Y.
Anh ăn một chiếc hamburger khá ngon, uống hai lon Coke ăn kiêng, ngắm các phụ nữ Washington đi lướt qua, gần như ai cũng đều đang gọi điện thoại di động. Anh hỏi người phục vụ chỗ mua sách. Anh ta không biết, nhưng một người phụ nữ đã nghe lỏm được cuộc trò chuyện nên bảo anh có một hiệu sách cũ cách đó ba con phố.
Anh mất nửa giờ đồng hồ lượn lờ ở đó, tìm thấy một cuốn tiểu thuyết bìa cứng của Carl Hiaasen, Skinny Dip, có giá 5,98 đô, anh mua sách rồi quay về khách sạn.
ANH BỎ chiếc điện thoại dùng một lần vào trong két an toàn. Khi kiểm tra anh thấy một cuộc gọi của Kidd hai mươi phút trước. Anh gọi lại, Kidd nói, “Được rồi, nó đúng là tệ như anh nghĩ. Tôi có vài cách kiểm tra thông tin cho anh đây... mà hầu hết mọi người sẽ không thể sử dụng được. Thông tin này là công khai, nó ở ngoài kia, thế nên tôi đã rà qua rà lại rất nhiều.”
“Tôi không hiểu ý cậu,” Lucas đáp.
“Tức là sau khi anh tìm thấy thông tin nào đó, sau khi anh biết mình đang tìm cái gì, thông thường anh có thể tìm ra cách để tiếp cận thông tin. Một thứ mà ít nhất theo như lý thuyết anh sẽ tiếp cận được. Chẳng hạn, nếu anh biết rằng một công ty đã làm chuyện X này, anh có thể tìm thấy các liên kết dẫn đến X, như mục thứ chín trăm trên trang Google. Chẳng có ai tìm nó ở đó - sẽ rất lâu. Nhưng nếu anh biết nó ở đó và anh có những từ khóa tìm kiếm cụ thể...”
“Hiểu rồi,” Lucas nói. “Vậy thì cái mục thứ chín trăm trong danh sách là gì?”
“Những kẻ điều hành Heracles và Flamma đã sáng lập nên Inter-Core Ballistics sau khi quân đội bắt đầu tìm kiếm các nhà thầu giáp vũ trang. Khi thắng thầu, họ trả tiền cho một công ty khác dưới Florida, Bishop Composites, để sản xuất bộ giáp. Inter-Core là nhân vật trung gian trong thương vụ. Khi tôi tra cứu Bishop, thì hóa ra sản phẩm của họ đã không qua được các thử nghiệm chống mảnh bom trước đó. Họ đã tái chế sản phẩm thông qua Inter-Core và lần này, họ vượt qua cuộc thử nghiệm.”
“Vẫn là bộ giáp đấy hay đã thay mới?”
“Theo những gì tôi có thể biết được thì có vẻ là tương tự nhau. Để tôi nhấn mạnh thêm một chút: chúng giống nhau. Sau khi không qua được cuộc thử nghiệm đầu tiên, họ bị tồn quá nhiều tấm kim loại, thế nên họ nhượng cho Inter-Core với mức giá rẻ như cho. Bishop mong đợi sẽ bán được khoảng ba mươi nhăm triệu tấm giáp, thông qua báo cáo tài chính của họ, có vẻ như Inter-Core đã hưởng 20% từ khoản doanh thu đó.”
“Hai mươi phần trăm? Hưởng bảy triệu đô mà chẳng phải làm gì à?”
“Không phải là chẳng làm gì đâu: Inter-Core đã phải thương lượng lại vụ này.”
“Nói cho tôi cách tìm đi,” Lucas nói.
KIDD LÀM THEO, với những chỉ dẫn rõ ràng nên tìm kiếm một cách hợp pháp ở đâu và như thế nào. Lucas hiểu hết phần lớn những gì anh tìm thấy, mặc dù phải cần đến một kế toán viên điều tra để có thể xâu chuỗi tất cả lại với nhau. Anh suy nghĩ về chuyện này rồi gọi cho Gladys Ingram.
“Cảnh sát Davenport,” bà ta nói. “Rất vui được nghe tin từ cậu. Cuộc điều tra thế nào rồi?”
“Sau khi bà kể cho tôi về vụ kiện Malone Materials, tôi đã tìm kiếm các thông tin về Inter-Core Ballistics, tôi thấy nó có liên quan đến cuộc điều tra của tôi. Tôi muốn chuyển cho bà mấy liên kết trên máy tính. Có thể bà có các nguồn tin tốt hơn tôi, thế nên tôi nghĩ... bà có thể xem qua, và nếu thấy bất kỳ điều gì thú vị bà có thể chuyển lại cho tôi.”
“Chắc chắn rồi. Chúng tôi vẫn đại diện cho Malone, và tôi có một tay trong, người đó sinh ra đã làm quen với máy tính rồi... Anh đã tìm được gì?”
Lucas gửi cho bà ta những phát hiện quan trọng của Kidd - tự bà ta sẽ đi tìm phần còn lại, hoặc tay trong của bà ta sẽ làm. Tiếp theo, Lucas hy vọng thông tin sẽ chảy từ bà ta về phía anh thay vì ngược lại.
Khi nhận được các ghi chép của Lucas, Ingram nói, “Tôi ấn tượng đấy. Tôi đã hiểu tại sao anh kiếm được tiền trên Internet rồi”.
“À vâng, cũng không khó lắm mà,” Lucas khiêm tốn đáp. “Nếu có thêm thời gian, tôi nghĩ mình có thể tìm được nhiều hơn nữa... À mà gửi lại cho tôi nhé.”
“Được rồi.”
“Sớm nhé.”
“Ừ.”