Taryn Grant đứng cạnh cửa sổ hóng mát phía sau dinh thự Georgetown của mụ, ngắm nhìn làn mưa bụi sượt qua tán lá sặc sỡ và những lối đi bộ xây bằng gạch đỏ của khu vườn ngổn ngang cây cối, nơi mụ chưa từng nghĩ mình sẽ ngồi. Ngay giữa thủ đô của thế giới với mật độ xây dựng dày đặc, mụ cảm thấy cô độc; không chỉ vì mụ ở nhà một mình, mà còn vì suốt cả ngày, mụ thậm chí không thể ngắm nhìn thành phố. Mụ có thể thấy vài ô cửa sổ trên mái chóp nhọn của nhà hàng xóm, nhưng chỉ có thế. Hơn nữa, có thể mụ phải tới vùng nông thôn Minnesota.
Nhiệt độ đang ở mức 21 độ C, thấp đến nỗi mụ run rẩy trong bầu không khí se lạnh, sau một chuỗi dài những ngày nóng ẩm đến nhão cả người. Nhưng cơn mưa - mụ thích mưa. Cơn mưa giống như một dấu hiệu.
Đến lúc tung xúc xắc rồi, mụ nghĩ. Mọi thứ sẽ diễn ra trong đêm nay.
Ý tưởng này... thật kích thích. Theo hướng tình dục. Mụ hít một hơi sâu, cảm thấy giữa hai hông mình nóng ran, mụ quay lưng lại cửa sổ, bước qua căn bếp đến cửa tầng hầm, tới SCIF, xuống cầu thang, lấy khẩu súng ngắn trên bàn làm việc.
Đó là khẩu Beretta 92F, từng thuộc về một nhân viên an ninh đã giết người vì mụ và giờ anh ta cũng đã chết. Anh ta nhặt được khẩu này sau một trận đấu súng tại Iraq, lấy nó từ trên thi thể một sĩ quan tình báo đã chết, kẻ đã phạm sai lầm chết người là thò đầu ra từ sau bức tường rất không đúng lúc. Như trong các phim về cớm, đây là cảnh rất lạnh lùng.
Mụ mang khẩu Beretta lên gác, vào bếp lấy một bát trộn bằng nhựa và một chai nước rửa bát, rồi quay vào phòng giặt là. Tại đây mụ mở tung băng đạn ra, lôi mười lăm viên đạn đặt lên trên máy sấy. Mụ đổ nước rửa bát vào bát nhựa, bỏ hết chỗ đạn vào bát. Mụ cọ rửa sạch sẽ từng viên một bằng miếng rửa chén bát cho đến khi lớp đồng sáng bóng lên như đồng xu vàng mới tinh, không còn vương bất kỳ dấu vân tay nào. Xong xuôi, mụ đặt lại mười lăm viên đạn lên máy sấy, rửa bát trong bồn rửa tiện ích.
Bước tiếp theo, mụ lấy chai thuốc tẩy từ trong tủ bếp ra, đổ đầy đến hai phần ba bát, bỏ hết các viên đạn vào đó. Mụ ngâm trong một phút rồi thận trọng lấy từng viên ra bằng khăn giấy, lau khô rồi xếp ngay hàng thẳng lối, nằm trên máy sấy. Băng đạn cũng được ngâm theo cách tương tự trong một phút. Rồi mụ lấy băng đạn ra, xử lý một lần nữa bằng khăn giấy, vẩy vẩy nhẹ cho khô. Không còn ADN nữa.
Khi mười lăm viên đạn và băng đạn đã khô cong, mụ tiếp tục dùng các khăn giấy nhét các viên đạn vào lại trong băng, rồi gắn lại vào súng. Cuối cùng mụ cho khẩu súng vào một túi rác mới.
Các kỹ thuật này không hề được dạy trong lực lượng CIA hoặc Ủy ban Tình báo. Tất cả đều được đăng tải trên Internet.
MỤ MANG KHẨU SÚNG NGẮN quay lại phòng ngủ, nơi mụ nằm trên giường trong năm phút, thầm vạch ra chính xác trình tự các sự kiện, trong khi thu hết can đảm nhẩm đi nhẩm lại đến thuộc lòng. Phật từng nói gì nhỉ? Đừng mãi đắm chìm trong quá khứ, đừng quá mơ mộng về tương lai, hãy tập trung vào hiện tại.
Khi khoảnh khắc này hiện ra rõ ràng hơn trong tâm trí, mụ chuẩn bị bộ đồ đêm với quần bò, áo len chui đầu vải cashmere đen, áo khoác đi mưa có mũ trùm đầu bằng nylon đen, giày chạy bộ và chiếc túi da khoác qua vai bên trong đựng súng. Công cụ gây án của mụ. Ngụy trang phía trên sẽ là đồ dùng khi đi du lịch, áo blouse thời trang, áo khoác, quần dài và giày dành cho ngày hôm sau.
Mụ đi tắm, trang điểm, thoa chút nước hoa Phong Lan Đen của hãng Tom Ford lên hai dái tai, phía trong hai cổ tay và đằng sau gáy. Mụ diện chiếc váy mùa hè màu ngọc lục bảo kiêu sa quyền quý của hãng Versace, khoe khéo cặp giò dài miên man nhờ đường xẻ táo bạo. Lúc bảy giờ mụ đã yên vị trong chiếc taxi thẳng tiến đến Park Hyatt, nơi Hiệp hội Bệnh viện công nước Mỹ đang tổ chức buổi dạ hội hè thường niên. Đây cũng là nơi mụ đã đặt trước một phòng qua đêm.
Đúng bảy giờ bốn mươi nhăm phút, mụ có mặt trong phòng. Mụ trang điểm lại lần nữa, xõa tung mái tóc, mang theo cái ví cầm tay nạm ngọc bên trong là chiếc điện thoại dùng một lần màu đen giản dị. Đúng tám giờ, mụ bước vào phòng vũ hội. Gần như người đầu tiên mụ thấy, ngay bên phải, trong bộ tuxedo màu đen, chính là Porter Smalls.
Khi trông thấy mụ, Smalls để lộ ra hàm răng trắng bóng - không phải một nụ cười, mà là nét nhăn nhó - rồi quay mặt đi. Mụ ngoặt sang bên trái bắt đầu chen qua đám đông.
PARRISH GỌI lúc chín giờ kém mười phút. Liếc nhìn điện thoại, Grant nói với tay bác sĩ mụ đang nói chuyện cùng, “Xin lỗi - tôi phải nhận cuộc gọi này”.
“Ngài Tổng thống ạ?”
“Tôi không nghĩ tổng thống muốn chuyện phiếm với tôi,” Grant nói, phá lên cười. “Chúng tôi có những khác biệt nhỏ.”
Mụ ra khỏi phòng khiêu vũ, bước đến phía thang máy rồi nói, “Tôi nghe”.
“Tôi sắp tới. Mười phút nữa.”
“Còn tên kia thì sao? Hắn đâu?”
“Hắn ở gần hơn tôi. Hắn định tới đó vào đúng chín rưỡi.”
Trong mười phút hạn định ấy, mụ tự thay đổi bản thân. Cột tóc lên, thay vào bộ quần bò, áo len chui đầu, đôi giày đế mềm và áo khoác đi mưa có mũ trùm. Mụ xỏ đôi găng tay da mỏng manh, lôi ra khẩu Beretta từ trong túi xách, nhét một viên đạn vào ổ đạn, chắc chắn đã khóa chốt an toàn, rồi lại bỏ súng vào túi, nằm dưới cái ví, báng súng trồi lên trên để có thể dễ rút ra khi cần.
Mụ bỏ lại chiếc điện thoại dùng một lần trên bàn trang điểm. Xong xuôi mụ kiểm tra hành lang, treo tấm biển “ Đừng Làm Phiền” trên cửa, đi thang máy xuống tầng bốn rồi từ đây, mụ đi thang bộ xuống dưới phố. Khi mụ vội vã lao qua tiền sảnh đang có vài người đứng đó, mụ che kín đầu trong mũ trùm, cố gắng giấu mặt càng nhiều càng tốt.
Parrish đang đợi. Gã mở tung cửa chiếc sedan Toyota, mụ trèo vào xe, chúng bắt đầu đi. “Đây không phải xe của cậu,” mụ nói.
“Xe thuê của Hertz. Tôi không muốn kẻ khác thấy xe của mình tại nhà Charlie.”
“Có thể bị truy dấu...”
“Phải, nếu tôi thuê xe dưới tên mình, nhưng tôi không làm thế. Khi tôi trả lại xe người khác sẽ thuê nó, vào lúc ai đấy có thể lần theo dấu vết con xe, hẳn đã có thêm năm người nữa sử dụng cái xe đấy rồi.”
“Chúng ta có bị hoang tưởng không?”
“Cô không bị hoang tưởng khi người ta muốn tóm cô. Và chắc chắn người ta sẽ tóm cả hai chúng ta.”
CHUYẾN ĐI ĐẾN NHÀ CHARLIE DOUGLAS, luật sư ủy nhiệm của Heracles, sống tại thành phố Great Falls tẻ ngắt vào giờ cao điểm, nhưng chỉ mất nửa tiếng kể từ lúc chín giờ. Phần lớn quãng đường cả hai chỉ im lặng. Grant cảm tưởng như có một bàn tay đang bóp nghẹt trái tim mụ. Douglas sống trong căn nhà có cột chống màu trắng trên đường Chesapeake Drive, phần trung tâm ở giữa cao hai tầng, hai chái hai bên thấp hơn. Một lá cờ Mỹ đang treo thẳng đứng trên giá ở tầng hai, phía trên có ngọn đèn chiếu sáng suốt đêm. Bản thân ngôi nhà cũng nằm cao hơn mặt đường trong khu rừng tối rải rác trồng thông và cây đang rụng lá - những cây sồi, Grant nghĩ.
“George nói phải đi tìm lá cờ,” Parrish nói, khi ngoặt lên lối xe vào nhà.
“Có ai đã ở đây trước bốn chúng ta chưa?” Grant nói. “Tôi không muốn bất kỳ ai khác thấy mặt tôi.”
“Chẳng có ai hết. Tôi cũng không muốn bất kỳ ai trông thấy mình. Charlie góa vợ; ông ta nói rằng quản gia của ông ta rời đi lúc sáu giờ.” Nhìn chiếc SUV đen đỗ trên đường xe vào nhà, Parrish nói thêm, “George có nhà. Ông ta bảo tôi là đã thuê một chiếc Land Rover, đó đúng là điều George sẽ làm”.
Gã dừng xe, Grant nói, “Điều tôi lo lắng nhất chính là bị tống tiền. Nếu chúng ghi âm chúng ta, nếu có các máy quay...”.
Parrish lắc đầu. “Sẽ chẳng sao đâu. Không ai có đủ sức đú theo cái trò ghi âm này, bất kể kiểu gì, vào bất kỳ lúc nào.”
Grant theo Parrish đến cửa trước, cánh cửa bật mở khi họ bước lên. Douglas đứng đó, trên tay cầm ly whisky. Ông ta trông già hơn, hơi gù, mái tóc dày bạc trắng với hàng lông mày rậm, mỗi bên lông mày rộng và dài gần bằng ngón tay út của Grant. “Xin mời vào,” ông ta nói.
Họ bước vào trong, Douglas đang thò đầu ra ngoài, nhìn xung quanh như thể mong đợi chiếc xe chở đầy đặc vụ FBI đỗ xịch trước cửa nhà mình. Rồi ông ta quay vào trong nhà, khóa cửa lại.
“Khi George được thả tự do, một trong những điều kiện đó là cậu ta phải đeo máy giám sát ở cổ chân,” Douglas nói. “Họ sẽ biết cậu ta đang ở đây, nhưng tại sao cậu ta lại không nên đến đây? Chúng tôi thực sự cần phải bàn chuyện làm ăn.”
Grant: “Liệu họ có thể theo dõi được cả cuộc nói chuyện này hay không?”
“Không, thế là trái luật,” Douglas đáp. “Làm thế cả sự nghiệp của họ cũng bị đe dọa.”
Grant gật đầu, Douglas dẫn họ vào phòng khách, nơi Claxson đang ngồi trên chiếc ghế da, tay cầm một cốc whisky nữa. Grant đoán rằng mụ sẽ được mời một cốc. Douglas hỏi, “Hai người uống gì không? Tôi có một chút sâm panh, trừ phi hai người thích một ngụm whisky Jack Daniel's”.
Vậy là mụ đã nhầm. Mụ vẫn đứng sau lưng Parrish, cách Claxson ba mét, với Douglas đứng ngay bên phải, đang bước về phía tủ rượu.
Grant chẳng buồn đáp. Mụ sờ tay lên khẩu súng ngắn; cảm thấy như có dòng điện truyền qua, khi bàn tay mụ chạm phải bề mặt ca rô trên báng súng. Mụ mở chốt an toàn khi họ từ cửa trước tiến vào tiền sảnh. Không một giây chần chừ, mụ rút súng ra bắn thẳng vào lưng Parrish giữa hai xương bả vai.
Tiếng súng vang lên như tiếng đánh vào đầu, cho dù mấy tấm thảm, màn cửa và đồ nội thất mềm đã giảm đi phần nào tiếng ồn. Parrish ngã chúi về phía trước. Claxson thét lên điều gì đó mụ không hiểu và cố gắng nhào khỏi chiếc ghế bọc da, hơi lăn sang bên trái, mắt trợn ngược. Mụ nã hai phát vào ngực và mạng sườn lão - hai lần bóp cò rất nhanh - từ khoảng cách mét rưỡi.
Đang cầm cốc whisky pha lê trên tay, Douglas ném luôn ly rượu vào đầu mụ. Grant nghiêng đầu tránh, bị whisky bắn tóe vào người. Douglas buột miệng, “Làm ơn đừng,” mụ chĩa khẩu súng ngắn về phía ông ta, nã hai phát vào ngực.
Parrish và Claxson đang hấp hối nhưng chưa chết. Claxson có mang theo khẩu súng ngắn và đang cố xoay xở để rút nó ra, nhưng khẩu súng rớt khỏi tay khi sức lão dần cạn kiệt, giờ đây nó nằm trên sàn bên cạnh lão. Grant bước đến gần, bắn thêm hai phát nữa vào đầu lão, rồi lùi lại bắn hai phát vào đầu Parrish, cuối cùng bước đến chỗ Douglas, có vẻ như ông ta đã chết, nhưng mụ vẫn tặng ông ta một phát đạn vào trán.
Mụ từng nghe nói việc nhiều người bị thương nguy kịch nhưng vẫn sống sót, nên mụ dành thời gian kiểm tra từng cái xác một: bọn chúng đều chết sạch. Khi cúi xuống người Parrish để lấy chìa khóa xe - mụ sẽ lái chiếc Toyota trở về Washington - mụ bỗng thấy loang loáng ánh đèn pha ô tô đang tiến đến rất nhanh, ai đó ở ngoài kia đang đập cửa ầm ầm.
Mụ cứng người lại. FBI sao? Davenport và các cảnh sát tư pháp? Không kịp chạy ra xe của Parrish nữa rồi. Mụ quay lại chạy ra phía sau nhà, mở cánh cửa trên bức tường phía xa của căn bếp tối om rồi bước ra ngoài hiên.
Cơn mưa phùn vẫn dai dẳng, mụ chạy qua bãi cỏ sau nhà xuyên qua hàng cây phía sau. Dưới bóng tối của tán cây mụ gần như không nhìn thấy gì, bầu trời không trăng không sao, ánh đèn pha từ mấy chiếc xe phía trước nhà và chùm sáng từ bên trong tỏa ra ngày càng yếu ớt khi mụ dấn sâu thêm vào trong rừng.
Thế rồi một tia sáng, một dạng ánh sáng nào đó, gần như không nhìn thấy, cách hai trăm thước, có thể xa hơn, đang chớp nháy liên tục, cũng bị các ngọn cây đứng lẻ loi che khuất khi mụ đi lướt qua.
Mụ nghe thấy tiếng đổ vỡ loảng xoảng từ phía trước nhà, mụ hiểu rằng ai đó đã phá cánh cửa ra vào nặng nề. Mụ càng đi sâu hơn vào trong rừng, nhưng không thể ngăn mình dừng chân lại và ngoái nhìn.
Douglas chưa kéo rèm cửa sổ phòng khách, Davenport đứng đó, trong khung cửa hình chữ nhật sáng lòa, như người đàn ông trong bức họa, đang tiến về phía những xác chết, đứng bên cạnh y là một người đàn ông lực lưỡng, cùng hai phụ nữ - một da trắng, một da màu. Lúc này mụ có thể thấy Davenport đang la hét cái gì đó và đưa tay vẫy người phụ nữ da màu, tay cầm khẩu súng trường, cô ta biến mất ngoài cửa ra vào.
Một cơn phẫn nộ ngớ ngẩn trào dâng trong người Grant, khi thấy Davenport đứng đó như một tấm bia trong trường bắn. Không mất một giây cân nhắc, mụ giơ súng ngắn lên nã ba phát vào cửa sổ, thấy Davenport cùng người phụ nữ da trắng kia ngã xuống.
Mụ quay lại chỗ tia sáng mình vừa nhìn thấy lúc nãy. Nó ở khá xa, ít nhất phải vài trăm thước. Mụ bỏ súng vào túi, hai tay giơ lên gạt mấy cành cây, rồi chạy bộ về phía đó, trượt ngã hai, ba lần, nhưng mụ vẫn cố đi tiếp.
Mắt mụ không rời nguồn sáng kia, nó dần dần gần hơn và sáng chói hơn. Ai đó la hét sau lưng mụ, thế nhưng giọng nói nhỏ dần đi. Mụ nhận ra tiếng mưa phùn rơi trên lá rừng giúp át đi tiếng la hét rất hiệu quả.
Tiếp tục đi về phía ánh đèn, mụ đến phía sau một ngôi nhà. Một ánh đèn khác xuất hiện gần đó - đèn cảm biến chuyển động, mụ nghĩ. Không nên di chuyển nữa.
Mụ chạy ra phía trước nhà rồi chạy ra phố. Con phố uốn cong về hướng Chesapeake, nơi mụ không muốn tới, còn hướng kia hình như quá tối. Ngõ cụt chăng? Mụ không dám chắc, nhưng mụ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chạy về phía đó để khám phá.
Nhưng đột nhiên xuất hiện một tia sáng nữa bên kia bãi cỏ, xuyên qua những cái cây, cách mụ hai trăm thước về phía tay trái và cách xa nhà Douglas. Mụ băng qua bãi cỏ, tiến đến những lùm cây, lại suýt ngã dúi dụi, rồi dần dần mụ cũng ra được con phố có nhiều nhà cửa hơn, mụ chạy xuống con đường trải nhựa. Khi đôi chân vững rồi mụ có thể chạy nhanh hơn. Mụ thấy một nhà sáng đèn, có ba chiếc xe đỗ trên lối vào nhà, rồi tiếp tục đi.
Mụ có thể đi theo con đường này nhờ ánh đèn tỏa ra từ các nhà ở hai bên, giờ đây thêm ánh sáng xám gần như đen ngòm từ bầu trời khi bị tán cây trên đầu che khuất. Mụ bước hụt, vấp ngã, tự đứng dậy rồi lại chạy tiếp. Thêm nhiều tiếng la hét vang lên sau lưng mụ, rõ ràng từ phía đằng xa, xa hơn nữa là tiếng còi xe cảnh sát rền rĩ.
Mụ không hoảng hốt. Chưa phải lúc. Nhưng mụ có thể cảm thấy nỗi hoảng sợ đang siết chặt cổ họng mình, cố gắng khiến mụ ngạt thở nhưng mụ dằn nó xuống. Mụ chạy càng xa nhà Douglas bao nhiêu, mụ càng an toàn bấy nhiêu. Cánh rừng luôn rì rào vẫy gọi dọc hai bên đường, là chỗ ẩn náu không thể xâm nhập nếu cần trốn chiếc xe đang đến gần.
Nhưng sớm muộn họ cũng sẽ tìm thấy mụ, nếu mụ không trốn thoát trót lọt, ngay bây giờ. Với ba xác chết và kẻ nổ súng thì chạy bộ bỏ trốn, họ sẽ chặn hết tất cả các nẻo đường, tung hết lực lượng càn quét trong rừng.
Tiếng còi xe cảnh sát vang lên sau lưng mụ nhưng vẫn còn xa. Khi mụ chạy được nửa dặm hoặc hơn, kết hợp chạy bộ và đi bộ nhanh, tại ngôi nhà mụ vừa đi qua một cánh cửa ga-ra bắt đầu cuộn lên. Mụ dừng chân bên kia đường, đứng nhìn một chiếc xe nhỏ, xe Mini sơn hai màu xanh trắng, lùi ra khỏi ga-ra. Cánh cửa ga-ra cuộn xuống, dưới ánh đèn mụ chỉ thấy được có một người trong xe, nhỏ nhắn, có thể là phụ nữ.
Rời khỏi lối xe vào nhà, chiếc xe ngoặt về phía mụ. Mụ bỏ mũ trùm xuống làm lộ ra mái tóc vàng óng, khi chiếc xe chậm rãi tiến đến gần, mụ bèn giả vờ mình bị què một chân và giơ tay lên vẫy vẫy, xe chạy chậm hơn nữa, mụ có thể thấy gương mặt một bà già đang nhòm ra ngoài.
Khi xe dừng lại bên cạnh mụ, mụ cà nhắc vòng sang ghế hành khách. Trên tay mụ cầm sẵn khẩu súng. Khi cửa sổ ghế tài xế hạ xuống, bà già nói, “Có chuyện gì...”.
Grant bắn thẳng vào mặt bà ta.
Chiếc xe nhẹ trôi về phía trước, xe đã gài số nhưng bàn chân bà già kia rõ ràng vẫn đặt lên chân phanh. Nhờ con phố dần dốc lên phía trên, Grant có thể vươn người vào trong xe vặn chốt mở cửa. Mụ phải rất vất vả ghìm xe lại, vì phải tháo dây an toàn của bà già và kéo bà ta ra ngoài. Xong xuôi mụ vào xe.
Mụ gặp may: xe này cài hộp số tự động. Mụ đỗ xe lại, xuống xe, chạy về phía bà già, kéo lê xác bà ta vào lề đường - bà ta không thể nặng quá bốn mươi nhăm cân - vùi xác dưới mấy bụi cây thường xuân mọc lan ra ngoài. Khi mụ đang vùi xác, điện thoại di động của bà ta rơi ra khỏi túi áo. Grant dẫm nát nó dưới gót giày, đá văng vào bụi rậm.
Quay vào xe, mụ chậm rãi lái xe ra đường chính, con đường Parrish đã đi, rồi ngoặt về hướng Washington. Một dặm cuối đường, hai chiếc xe cảnh sát phóng vút qua, ánh đèn hiệu chiếu loang loáng và tiếng còi rú inh ỏi, tiến vào bóng tối mịt mùng. Tiếp theo là chiếc xe thứ ba, thứ tư, nhưng không có xe cứu thương. Mụ suýt bị lạc hai lần, vì mải nghĩ đến Davenport và Watergate. Ở Watergate có một ga-ra công cộng.
BỐN MƯƠI NHĂM phút sau mụ đỗ xe tại Watergate sau khi rời khỏi Great Falls. Lúc sắp xuống xe, mụ để ý thấy một cái chai màu xanh ở ngăn đựng đồ trên cửa xe: nước rửa tay. Lục lọi khắp trong xe, mụ tìm thấy một cái rổ đựng khăn giấy. Mụ đổ nước rửa, mà phần lớn là cồn, vào chiếc khăn giấy rối lau chùi bánh lái và cần số. Mụ kéo mũ trùm đầu lên, xuống xe, lau kỹ ghế ngồi, đóng cửa xe lại, khóa chặt rồi bước ra ngoài phố.
Park Hyatt nằm cách đó nửa dặm. Dù không chạy nhưng mụ di chuyển rất nhanh lên đại lộ New Hampshire đến phố 24, phía bắc trên phố 24. Mụ trông chừng cảnh sát, vứt súng và băng đạn xuống hai ống cống riêng biệt; trời vẫn còn mưa, nước mưa nổi bong bóng khi chúng biến mất qua các nắp cống và cả dưới cống.
Tại Park Hyatt, vẫn đội mũ trùm, mụ bước vào một thang máy trống trải, nước mưa chảy ròng ròng trên áo khoác. Mười phút sau mụ đã ở trong phòng mình.
Tóc mụ lộn xộn, người mụ toát ra mùi vỏ cây sồi già ẩm ướt, mùi whisky trong cái ly Douglas ném về phía mụ, và mụ vẫn đổ mồ hôi. Mụ chải tóc cho thẳng thớm, sấy khô bằng máy sấy, nhảy vào phòng tắm, dùng xà phòng khách sạn chà xát khắp cơ thể trong suốt hai phút. Trên hai bàn tay mụ có mấy vết xước nhỏ do các cành cây sượt qua, nhưng trên mặt không có vết sây sát nào. Ra khỏi phòng tắm, mụ ngắm lại mái tóc rồi sấy khô lần nữa, trang điểm lại, dùng nhiều mỹ phẩm hơn che đi vết xước trên mu bàn tay. Mụ nhanh nhẹn thoa nước hoa Phong Lan Đen lên năm vị trí trên người. Bộ quần áo màu đen mụ nhét trong chiếc túi du lịch nhỏ, sẽ vứt đi càng sớm càng tốt nếu an toàn. Mụ đã vắng mặt nửa tiếng đồng hồ, cần phải hòa nhập, cần phải được ai đó nhìn thấy.
Cần phải được nhiều người nhìn thấy.
Mụ nhắm mắt lại, hít vài hơi thở sâu, tự trấn tĩnh. Phật sẽ làm gì vào lúc này nhỉ?
Tim mụ đập chậm lại, một nụ cười nở trên mặt, mụ rời phòng.
TRỞ LẠI bữa tiệc, tim mụ đập nhanh hơn một chút. Mụ lấy một ly rượu, xoay tròn nó quanh miệng nhằm trộn lẫn hơi thở của mình với mùi rượu. Mụ nói chuyện phiếm chốc lát với các nhân viên bệnh viện - ba phụ nữ và hai nam giới - cùng hai vị dân biểu Minnesota. Cuối cùng, mụ nhận ra Porter Smalls, đang say sưa đối thoại, mụ bước về phía Smalls. Mụ áp sát, va phải ông ta khi mụ bất ngờ quay người lại, làm sánh chút rượu ra ngoài.
Smalls: “Ối chà. Xém chút cô hất văng tôi xuống vực rồi. Xin lỗi - ý tôi là đôi chân.”
Grant ngả đầu ra sau phá lên cười giả dối, vươn tay ra nắm chặt lấy một trong những chiếc khuy măng sét bằng đá tourmaline màu lục lam trên áo sơ mi của Smalls - cố tình chọn cho hợp tông với màu mắt, đồ bần tiện hợm hĩnh, mụ nghĩ - rồi kéo ông ta lại gần và thì thầm vào tai, “Tao hiểu mày muốn nói gì, đồ chó đẻ. Mày còn tiếp tục kể với mọi người rằng tao có liên quan đến thói nghiện rượu chết tiệt của mày, thì mày sẽ biết tay tao”.
Smalls nghiêng đầu ra phía sau, phá lên cười, rướn người lại gần hơn và thì thầm, “Bỏ tay ra khỏi người tao, con điếm sát nhân”.
Grant vẫn đang cười, họ buông nhau ra, cả hai cùng thỏa mãn. Smalls chửi thẳng vào mặt mụ là điếm, còn Grant biến ông ta thành nhân chứng cam đoan rằng mụ có mặt vào cuối bữa tiệc, trong màn đối thoại mà cả hai sẽ không bao giờ quên.
Smalls chính xác là thứ mụ muốn: nhân chứng đáng tin cậy nhất mà bất kì ai có thể hình dung được.