Giống như Wilson, Obama tin rằng Chúa định đoạt ông làm tổng thống. (...) Không có gì lạ, Obama chọn cách hiểu chiến thắng trong lần tái tranh cử năm 2012 của mình như một sự ủy thác, cho dù về cơ bản đó chỉ là cuộc bầu cử hiện trạng.
Mặc dù Bill Clinton nóng lạnh thất thường về Obama trong suốt chiến dịch tranh cử tổng thống, nhưng ông ấy vẫn là một con người thực tiễn đủ để hiểu rằng sẽ có lợi lâu dài cho nhà Clinton nếu Obama thắng cử. Một Obama chiến thắng sẽ mang nợ họ - cả vì bài phát biểu tại đại hội của Bill lẫn việc cứ lặp đi lặp lại như vẹt những luận điệu về Benghazi của Hillary. Theo Bill, nhà Clinton đã có một thỏa thuận với Obama - sự ủng hộ của họ năm 2012 đổi lại sự ủng hộ của Obama năm 2016 - và thời gian để Obama bắt đầu thể hiện lòng biết ơn đối với họ đang đến gần.
Tuy nhiên, với tâm trạng háo hức thu lại giấy tờ biên nợ của mình, Bill Clinton dường như quên mất một trong những châm ngôn chính trị của mình. Như đã có lần ông ấy nhắc nhở Hillary: “Lòng trung thành không tồn tại trong chính trị. Không có thuật ngữ như thế trong sổ quy tắc chính trị”.
Obama là một ví dụ sống động của châm ngôn đó. Thực tế, ông nổi tiếng về thái độ quên ơn của mình. Các nhóm vận động lớn nhất của ông - những người quyên hàng triệu đô la cho ông tái tranh cử - hiếm khi nghe được gì từ Obama, bởi vì ông không nghĩ rằng mình nợ họ gì cả. Những người Mỹ gốc Phi có thân thế - đã ủng hộ Obama từ những ngày đầu ông bước vào lĩnh vực lập pháp ở Illinois - không hề được trả lời khi gọi đến Nhà Trắng. Những nghị sĩ Đảng Dân chủ hàng đầu như Harry Reid, thủ lĩnh nhóm đa số trong Thượng viện, và Steny Hoyer, nghị sĩ phụ trách tổ chức của nhóm thiểu số trong Hạ viện, đều than phiền rằng Obama thường xuyên tảng lờ họ.
Dấu hiệu đầu tiên Obama không cảm thấy có bất kỳ nghĩa vụ nào đối với gia đình Clinton xuất hiện vào cuối tháng 9 khi Bill đề nghị Doug Band, cánh tay phải của ông ấy, gọi đến Nhà Trắng và nói rằng cựu tổng thống sẽ rất vui được chia sẻ với Obama một vài điểm về cách vượt lên Mitt Romney trong cuộc tranh luận đầu tiên sắp tới của họ vào ngày 3 tháng 10 tại Đại học Denver.
Theo kinh nghiệm bản thân mà Clinton biết, các tổng thống đương nhiệm dễ quên với chuyện luôn bị vây bọc bởi những kẻ ba phải trọng bản thân và thường không đánh giá nghiêm túc đối thủ của mình. Ông ấy lo ngại rằng Obama, người có đánh giá thái quá về khả năng thuyết phục của bản thân, sẽ làm hỏng cuộc tranh luận. Clinton nghe nói qua nguồn tin riêng trong Đảng Dân chủ rằng Obama tỏ ra vô cùng tự mãn về triển vọng bầu cử của mình đến mức ông không chú trọng gì đến buổi tranh luận.
Clinton đợi hồi âm vài ngày liền, nhưng chẳng thấy gì cả. Ông ấy điếng người khi hiểu rằng Obama đã phớt lờ đề nghị của mình, và cảm giác chua xót của ông ấy nhanh chóng biến thành cơn giận dữ.
“Bill cho rằng ông ấy và Obama đã có thỏa thuận hữu hảo sau đại hội”, một người bạn của ông ấy nói. “Ông ấy không tin nổi rằng Nhà Trắng thậm chí còn không thể hiện phép lịch sự với ông ấy bằng một cuộc gọi lại.”
Đúng như Clinton lo sợ, Obama mộng du trong cuộc tranh luận đầu tiên và thất bại trước một Mitt Romney lão luyện. Obama thắng cuộc tranh luận thứ hai vào ngày 16 tháng 10 tại Đại học Hofstra ở Hempstead, New York, nhưng đến lúc đó Clinton không còn giữ lòng oán hận nữa. Ba ngày sau, trong một sự kiện vận động với Bruce Springsteen tại Parma, Ohio, Clinton hoàn toàn lệch hướng khỏi thông điệp, theo cuộc phỏng vấn nổi tiếng của ông ấy với Harvey Weinstein, và nói rằng Romney đã đúng khi cho rằng nền kinh tế Mỹ “chưa được ổn định”.
Phát biểu đầy ngẫu hứng, Clinton nhắc cho cử tọa Ohio của mình nhớ đến một sự cố xảy ra trong cuộc tranh luận Hofstra. Một cử tri còn đang do dự, người được chọn để hỏi Obama một câu hỏi, đã đứng lên, nhìn thẳng vào mắt tổng thống, và nói với ông, “Bốn năm trước tôi có rất nhiều hy vọng nhưng giờ thì chẳng còn gì”. Sau đó Clinton chêm thêm một câu nói ranh mãnh: “Tôi nghĩ Obama sẽ phát khóc vì ông ấy biết rằng nền kinh tế chưa ổn định”.
Khi nghe được nhận xét chê bai của Clinton, chẳng khác gì xem tổng thống là một kẻ thất bại và đớn hèn, David Plouffe cùng các thành viên khác trong nhóm vận động tranh cử của Obama đã nghiến răng ken két nhưng vẫn phải kìm nén không nói gì trước công chúng.
Có một sự nhất trí trong giới quan sát chính trị rằng Obama đã thắng trong cuộc tranh luận thứ ba và cuối cùng khi tập trung vào chính sách đối ngoại.
Mặc dù Romney có phần thể hiện rất xuất sắc nhưng chưa đủ để vượt qua lợi thế quyết định của Obama liên quan đến các nhóm cử tri (người gốc Tây Ban Nha, người da đen, thanh niên, cũng như phụ nữ đơn thân ủng hộ Obama đều rất đông) và chiến dịch vận động xuất sắc của Obama. Vào ngày bầu cử, Obama giành thắng lợi ở tất cả các bang có sự ganh đua quyết liệt - New Hampshire, Virginia, Ohio, Iowa, Colorado, Florida, và Michigan - và còn được số dư một trăm phiếu trong đại cử tri đoàn.
Theo Bill Clinton, chiến thắng thuộc về ông ấy chứ không riêng Barack Obama. “Obama sẽ chẳng bao giờ thắng được nếu không nhờ bài phát biểu tại đại hội của tôi”, Clinton nói với bạn bè.
Sau khi kiểm đếm phiếu, Obama gọi điện cho Clinton và cảm ơn ông ấy. Tuy nhiên, khi Obama có bài phát biểu thắng lợi tại trung tâm hội nghị McCormick ở Chicago, tên của Bill Clinton rành rành biến mất trong số những người được ông cảm ơn. Nhà Obama rõ ràng không hề quên rất nhiều động thái coi thường của Clinton.
Clinton sững sờ trước chuyện lãng quên đó.
“Obama tin ông ta sẽ tự mình làm được vụ này”, ông ấy phàn nàn với Hillary. “Nghe giọng điệu như thể ông ta đang mắc hội chứng ru ngủ nhiệm kỳ hai23.”
23 Nguyên văn “second-term-it is”. “It is” là cảm giác buồn ngủ sau khi ăn một bữa no.
Bill Clinton không phải là người duy nhất nghĩ Obama có xu hướng mắc chứng “ru ngủ nhiệm kỳ hai”. Vào hôm ngay sau bầu cử, tác giả John Steele Gordon đã viết một bài trên trang đối lập với trang xã luận cho tờ Wall Street Journal có nhan đề “Hiểm họa nhiệm kỳ hai”.
“Barack Obama đã nâng số tổng thống được bầu nhiệm kỳ hai lên con số 16”, Gordon viết. “Ông Obama được khuyên phải cân nhắc thật kỹ về lịch sử các nhiệm kỳ hai này. Thông điệp là cần cẩn trọng với việc hiểu chuyện tái cử như một sự khuyến khích “với cao”. Đa số các nhiệm kỳ hai đều không thành công bằng nhiệm kỳ đầu. Một số trường hợp còn rất thê thảm.”
Như Gordon chỉ ra, lịch sử đã để lại một bài học nghiêm túc: Hầu hết các tổng thổng nhiệm kỳ hai đều sa lầy vào chiến tranh, tai tiếng hoặc xung đột với Quốc hội. Nhưng Barack Obama không phải là cậu học trò thích lịch sử; ông chủ yếu đọc tiểu thuyết hư cấu và truyện trinh thám. Xét đến thái độ yêu bản thân thái quá của ông - trong một bài phát biểu tuyên dương mà ông thực hiện tại lễ tang Thượng Nghị sĩ Daniel Inouye, Obama nói “tôi” (chủ ngữ) ba mươi lần, “của tôi” hai mươi mốt lần, và “tôi” (đứng làm tân ngữ) mười hai lần - chẳng có gì ngạc nhiên về chuyện ông không để tâm lời cảnh báo của John Steele Gordon về chuyện “với cao”.
Obama thường trích dẫn Abraham Lincoln, Martin Luther King, và Nelson Mandela như là những nhân vật lịch sử ông ngưỡng mộ nhất, nhưng lại không theo gương khoan dung và đại lượng của họ. Thay vào đó, Obama giống với Woodrow Wilson, người có quan niệm về bản thân được nhà sử học Forrest McDonald mô tả là “ít nhiều giống đấng cứu thế”.
McDonald viết về Wilson là “ngay sau khi bầu cử, chủ tịch toàn quốc Đảng Dân chủ gọi cho ông ấy để bàn bạc về các vị trí bổ nhiệm, để rồi bị lời tuyên bố của Wilson cự tuyệt, ‘Trước khi chúng ta tiến tới, tôi mong ngài hiểu rõ rằng tôi chẳng nợ ngài cái gì hết. Hãy nhớ rằng Chúa muốn tôi sẽ là tổng thống tiếp theo của Hoa Kỳ’.”
Giống như Wilson, Obama tin là Chúa định đoạt ông làm tổng thống. Có lẽ ví dụ rõ nhất về niềm tin vào thiên mệnh của ông diễn ra vào mùa thu năm 2005, khi Obama gặp gỡ ăn sáng với Cha Mike Pfleger, linh mục cánh tả cấp tiến tại Saint Sabina, một nhà thờ Công giáo ở khu Nam Chicago. Cùng với linh mục gây nhiều tranh cãi của Obama, Jeremiah Wright, Cha Pfleger là cố vấn chính trị thân cận nhất của Obama trong giới tăng lữ. Ăn món bánh kếp, Obama - người mới làm Thượng Nghị sĩ chưa đầy tám tháng - nói với linh mục rằng ông có mong muốn cháy bỏng được tranh cử tổng thống.
“Tôi bảo Barack rằng tôi thật sự tin mọi người rất mong muốn có sự thay đổi”, Pfleger nói trong một cuộc phỏng vấn với tôi. “Tôi nói, ‘Barack, nếu con thật sự tin rằng Chúa kêu gọi con làm việc ấy lúc này, hãy quên mọi chuẩn mực và đừng nhìn lại’. Và Barack nói, ‘Vâng, thưa Cha, con thật sự tin rằng kế hoạch của đời mình là trở thành Tổng thống Hoa Kỳ, và rằng Chúa kêu gọi con làm điều đó ngay lúc này’.”
Không có gì lạ, Obama chọn cách hiểu chiến thắng trong lần tái tranh cử năm 2012 của mình như một sự ủy thác, cho dù về cơ bản đó chỉ là cuộc bầu cử hiện trạng. Bất chấp số dư đại cử tri đoàn của mình, ông đã từng giành được số phiếu phổ thông bằng một trong những số phiếu dư ít nhất của bất kỳ tổng thống đương nhiệm nào trong gần một thế kỷ - và chỉ bằng nửa số phiếu thắng cử của ông năm 2008. Thêm nữa, cuộc bầu cử khiến Hạ viện rơi vào tay nhóm đa số thuộc Đảng Cộng hòa rắn như đá, gồm cả nhóm bảo thủ thuộc phong trào Tea Party, những người chẳng hề có tâm trạng thỏa hiệp với tổng thống Đảng Dân chủ.
Obama được Valerie Jarrett, người giữ ngọn lửa tư tưởng hệ và là một trong những kiến trúc sư trưởng cho kế hoạch “phát triển thịnh vượng” của Obama, động viên cứ mặc xác những điều đó. Jarrett nhắc đến hai sự kiện gần đây - quyết định của Tòa án Tối cao tán thành Luật Chăm sóc sức khỏe (Obamacare), và nỗ lực thành công của Obama nhằm tăng thuế đánh vào những người Mỹ giàu có nhất - như bằng chứng cho thấy Obama đang rất thành công và bất khả chiến bại về mặt chính trị. Bà ấy và Michelle đều tin chiến thắng trong lần tái tranh cử của ông có một ý nghĩa sâu xa hơn, gần như huyền bí.
“Như thế có nghĩa là ngài có thể là vị tổng thống như đã hứa với chính mình và Michelle rằng ngài sẽ đạt được”, Jarrett nói, theo một người bạn mà bà ấy đã kể lại cuộc trò chuyện của mình với tổng thống. “Như thế có nghĩa là ngài có thể làm gì đó cho tình trạng bất bình đẳng thu nhập ở đất nước này. Ngài có thể tăng thuế để trang trải cho các chương trình của chính phủ nhằm giúp người nghèo và tầng lớp trung lưu. Ngài có thể là một tổng thống đổi thay thật sự.”
Do đó, cả bằng xu hướng cá nhân lẫn đáp lại sự thúc giục của Valerie Jarrett và Michelle, ngài Obama sau bầu cử còn ngang ngạnh và ngạo nghễ hơn trước. Khi các Thượng Nghị sĩ Lindsey Graham và John McCain dọa ngăn cản việc đề cử Susan Rice là Ngoại trưởng vì màn thể hiện gây tranh cãi của bà ấy trong năm chương trình trò chuyện Chủ nhật, Obama lên giọng kẻ cả và, trên thực tế, nói rằng ông sẵn sàng đi vài vòng với họ. Ngài Obama trừng mắt nói, “Nếu Thượng Nghị sĩ McCain và Graham cùng những người khác muốn theo đuôi ai đó, họ nên theo đuôi tôi đây”.
Rõ ràng, Obama sẵn sàng bảo phe Cộng hòa cút xuống địa ngục - hiển nhiên quên bẵng đi châm ngôn nổi tiếng của Lyndon Johnson: “Trong chính trị, đừng bao giờ bảo ai đó cút xuống địa ngục trừ phi có thể tống họ xuống đó”.
“Obama gạt hết những mối lo về nợ quốc gia trong bài phát biểu nhậm chức bằng một vài dòng bâng quơ”, Joe Scarborough viết. “Nếu bài diễn văn của Obama là dấu hiệu nào đó cho biết ông ấy muốn đưa đất nước này đi tới đâu trong bốn năm tới, thì nhà tổ chức cộng đồng trước kia đang có nhiệm vụ đảm bảo rằng Hoa Kỳ là quốc gia phá sản một cách tuyệt vọng, tiến bộ một cách hân hoan, đúng đắn về mặt xã hội nhất trong lịch sử nhân loại.”
Để thúc đẩy chương trình nghị sự cánh tả của mình được thông qua Quốc hội, Obama đi tới một chiến lược ba chân.
Thứ nhất, ông có kế hoạch qua mặt các đối thủ Cộng hòa của mình, vận động chính trị khắp cả nước trong nhiệm kỳ hai, và sử dụng các chiến thuật kiểu bầu cử để gây áp lực cho các thành viên Quốc hội thuộc Đảng Cộng hòa bỏ phiếu cho các dự luật của mình, dù họ có thích hay không.
Thay vì giải thể bộ máy vận động tranh cử của mình sau bầu cử, như những người khác vẫn làm trong quá khứ, ông bắt tay vào thay đổi nhóm Tổ chức vì Obama đặt tại Chicago thành nhóm gây sức ép chính trị gọi là Tổ chức vì Hành động, giúp quyên 50 triệu đô la cho các chương trình công kích phe Cộng hòa. Trong một cuộc phỏng vấn với New Republic, ông nói về kế hoạch sử dụng nhiệm kỳ hai của mình “trong một cuộc trò chuyện với nhân dân Mỹ trái ngược hẳn với việc chỉ chơi trò người trong cuộc ở Washington này”. Ông sẽ sử dụng các vấn đề xã hội nóng bỏng - súng ống, di trú, hôn nhân đồng giới, và môi trường - để tạo sự ủng hộ trong nhóm cử tri trung thành với Đảng Dân chủ đối với chương trình nghị sự hành động của ông.
Thứ hai, Obama lên kế hoạch công kích các đối thủ Cộng hòa của mình sao cho các cử tri chuyển sang ghét cay ghét đắng họ. Cố vấn Nhà Trắng, Dan Pfeiffer, ví những đảng viên Cộng hòa như những kẻ đánh bom tự sát, bắt cóc, và chuyên gây hỏa hoạn. Tại một cuộc họp báo, Obama quy kết rằng “điều hợp nhất được phép tắc trong Đảng Cộng hòa vào thời điểm này là bảo đảm rằng 30 triệu người không được chăm sóc sức khỏe”. Và ông ấy xem các dân biểu Cộng hòa như “những kẻ chuyên chế” không hề có “phép tắc”.
Mục đích của Obama là phá hậu thuẫn của Đảng Cộng hòa và đưa Nancy Pelosi trở lại làm Chủ tịch Hạ viện trong các cuộc bầu cử giữa kỳ năm 2014. Không có chỗ cho sự bất đồng giữa các đảng đối lập. Bất kỳ ai phản đối các kế hoạch của ông nhằm mở rộng tầm với của Washington tới cuộc sống thường nhật của công dân Mỹ đều bị khắc họa như là những kẻ xấu xa, độc địa và tha hóa về mặt đạo đức.
Trong các cuộc đàm phán của ông với Hạ viện phe Cộng hòa về một “thỏa thuận lớn” nhằm giảm nợ quốc gia, Obama dọa sẽ tiêu diệt họ nếu ông không làm được những gì mình muốn. Theo những ghi chép của Chủ tịch Hạ viện Boehner trong một cuộc họp tại Phòng Bầu dục ngày 13 tháng 12 với Obama:
Tổng thống gợi ý rằng nếu ông không đạt được thỏa thuận theo ý mình, ông sẽ bỏ ra cả bốn năm tiếp theo để vận động chống lại Hạ viện của phe Cộng hòa, biến họ thành kẻ giơ đầu chịu báng cho những gì ông dự đoán sẽ là một cuộc suy thoái toàn cầu. Ông nói việc này sẽ bắt đầu trong bài phát biểu nhậm chức của mình và tiếp tục trong bài Diễn văn Liên bang đầu tiên của ông. Tổng thống nói rằng nếu phe Cộng hòa không nhượng bộ, ông sẽ không bao giờ cho phép họ cắt giảm chi tiêu trong cả nhiệm kỳ hai của mình.
Thứ ba, Obama có kế hoạch sử dụng các quyền “tổng thống tối thượng” để lung lạc Quốc hội. Ông sẽ nghĩ ra những luật riêng của mình bên ngoài quy trình của Quốc hội, hành động không cần ủy quyền theo luật định và thay đổi tiền lệ điều hành đã có hàng thập kỷ. Ông sẽ thực hiện việc bổ nhiệm cho kín các vị trí trống mà không cần sự đồng thuận của Thượng viện khi cơ quan đó không nhóm họp, và thậm chí cả vào những lúc nhóm họp (Chẳng hạn, ông sẽ bổ nhiệm các thành viên của Cục Bảo vệ Tài chính Người tiêu dùng mới mà không cần sự tham vấn và đồng ý của Thượng viện); ông sẽ sử dụng các mệnh lệnh hành pháp để khước từ những đòi hỏi làm việc có phúc lợi, buộc các thiết chế tôn giáo phải cung cấp dịch vụ tránh thai, không thực thi Luật Bảo hộ Hôn nhân, cũng như trì hoãn việc trục xuất dân di cư bất hợp pháp còn trẻ. Tóm lại, ông sẽ quyết định những luật nào được Quốc hội thông qua sẽ được ông thực thi và những luật nào ông ấy sẽ bỏ mặc - và Hiến pháp sẽ bị chỉ trích.
Như tờ Wall Street Journal viết: “Khi Quốc hội không làm những gì Obama muốn, ông ấy phớt lờ họ và cứ hành động”.
Theo quan điểm của các nhà quan sát chính trị dày dạn nhất, chỉ có một vấn đề duy nhất trong chiến lược của Obama - nó không có tác dụng.
“Kiểu chiến dịch cố định này không phải là thứ thay đổi phiếu ở Quốc hội”, một cố vấn chính trị cấp cao cho Chủ tịch Boehner dự đoán. “Nếu đó là luật kiểm soát súng ống mà Obama theo đuổi, ông ấy cần đưa được các nghị sĩ Dân chủ tại các bang đỏ24 vào Thượng viện, nơi tổng thống không được lòng lắm. Chuyện đó không bao giờ xảy ra. Ông ấy không thể vận động hiệu quả ở các bang đỏ. Còn nếu là cải cách lĩnh vực di trú, việc ông ấy đến Arizona và có một cuộc mít tinh lớn cũng không lay chuyển được Thượng nghị sĩ [John] McCain về vấn đề đó đâu.”
24 Bang đỏ (red states) và bang xanh (blue states) chỉ các bang của Hoa Kỳ, nơi cư dân bầu chủ yếu cho ứng viên tổng thống Đảng Cộng hòa (đỏ) hoặc Đảng Dân chủ (xanh).
“Obama có quan điểm rằng ông ấy đã được bầu làm vua”, Grover Norquist, người sáng lập kiêm chủ tịch phong trào Người Mỹ vì sự nghiệp cải cách thuế, nói trong một cuộc phỏng vấn cho cuốn sách này. “Ông ấy có ấn tượng rằng Đảng Cộng hòa sắp bị chia rẽ. Nhưng Hạ viện chắc chắn vẫn thuộc Đảng Cộng hòa trong thập niên này, cho tới cuộc điều tra tiếp theo và vụ dàn xếp khu vực bầu cử tiếp theo. Thậm chí đến lúc đó, có khi nó vẫn thuộc về Đảng Cộng hòa. Cho nên Đảng Cộng hòa mạnh hơn Obama nghĩ rất nhiều.”
“Tôi nhớ Katharine Graham, chủ bút tờ Washington Post, vẫn thường nói, ‘Rất khó không thích một ai đó nói rằng họ thích bạn’”, Bob Woodward nhận xét. “Anh nói chuyện với các thượng nghị sĩ và dân biểu, như anh biết đấy, họ cảm thấy Barack Obama không thích họ hoặc ít nhất thờ ơ với họ. Và vì vậy anh vừa có cả những mâu thuẫn lẫn điều đình... Nhưng trong bất kỳ cuộc điều đình nào, anh cũng cần tôn trọng đối thủ. Còn tổng thống thì sẽ bỏ ra ngoài, chẳng hề tôn trọng họ.”
“Tổng thống đang hành xử như thể thỏa hiệp và nhượng bộ là những dấu hiệu của sự yếu đuối, và rằng đất nước hoan nghênh xung đột chính trị bởi vì nhờ thế ông ấy có thể lèo lái Quốc hội theo ý mình”, Karl Rove viết. “Đây không phải là cách vận hành của Washington, đặc biệt trong nhiệm kỳ hai của một tổng thống. Nếu ông Obama cứ khăng khăng theo cách này thì nhiệm kỳ hai của ông ấy - như nhiều vị tiền nhiệm - có thể sẽ khó khăn và gây bất đồng, chỉ là sớm hơn bình thường.”
Nhưng Obama không có tâm trạng nghe Karl Rove hay bất kỳ ai khác chỉ trích mình. Chiến thắng trong các cuộc thăm dò khiến ông say sưa đến ngạo mạn. Và điều này không gì rõ rệt hơn cách ông đối xử với Bill và Hillary Clinton.
Kể từ lần chơi golf của họ ba tháng trước, Clinton vẫn luôn hành động với giả định rằng ông ấy đã có một cam kết từ tổng thống về việc ông ấy, Bill Clinton, có thể lựa chọn chủ tịch kế nhiệm của Ủy ban Toàn quốc Đảng Dân chủ - hoặc rằng, ít nhất, vấn đề còn để ngỏ để thảo luận. Việc này sẽ khiến Clinton được can dự vào bộ máy của Đảng Dân chủ, điều rất quan trọng với các kế hoạch cho Hillary chạy đua năm 2016. Và vì vậy, không lâu sau bầu cử, Clinton gửi cho Obama một số tên tuổi để cân nhắc cho vị trí Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc.
Nhưng những người trong danh sách của ông ấy hoàn toàn bị phớt lờ. Thực tế, Clinton hiểu rằng không ai trong số những người mình đề cử được Nhà Trắng liên hệ hay xem xét theo hình thức nào đó.
Vào đầu tháng 12 năm 2012, Clinton xem một tờ báo và đọc được rằng Obama đã bổ nhiệm lại Debbie Wasserman Schultz làm chủ tịch Ủy ban Toàn quốc. Giận dữ, ông ấy gọi điện cho tổng thống để trách móc, nhưng Obama từ chối nhận cuộc gọi.
Sau khi đợi hai mươi tư tiếng, cuối cùng Clinton cũng nhận được cuộc gọi từ David Axelrod. Lần này chính Clinton lại từ chối nhận cuộc gọi.
Clinton thể hiện sự giận dữ của mình ngay trước mặt Hillary.
“Mặt anh ấy đỏ gay và như ngộp thở”, sau này bà kể lại với bạn bè. “Tôi rất lo anh ấy sẽ bị trụy tim. Tôi gọi cho bác sĩ đến nhà ở Chappaqua và kê cho anh ấy một liều an thần. Nhưng Bill không chịu uống.”
Cuối cùng, Obama gọi đến và hai người nói chuyện.
“Bill nói rằng qua giọng nói của Obama, ông ấy tin chắc Obama đang nói dựa trên giấy ghi sẵn, lần lượt từng điểm một - một, hai, ba”, một người thân cận từng thảo luận về cuộc điện thoại này với Clinton cho biết. “Ông ấy cảm thấy cuộc điện thoại đang được ghi âm lại, hoặc được những người khác cùng nghe. Bill quyết định không nói gì nhiều.”
“Obama chuyển cảnh ngay”, nhân vật thân cận của Clinton nói tiếp. “Ông ấy nói mình không được chuẩn bị để chuyển giao hoạt động số hóa, việc khai thác dữ liệu, và cỗ máy truyền thông xã hội trong chiến dịch vận động của ông ấy cho nhà Clinton. Thay vào đó, ông ấy sẽ trao hoạt động đó cho Tổ chức vì Hành động, nhóm áp lực chính trị nhiệm kỳ hai của ông ấy. Hillary sẽ phải tạo dựng hệ thống phân tích và dữ liệu của riêng mình. Bill lắng nghe rồi đáp, ‘Được thôi’, và chấp nhận như vậy”.
“Sau đó Obama nói còn quá sớm để có quyết định về năm 2016 và việc ông ấy sẽ ủng hộ ai cho đề cử của Đảng Dân chủ. Ông ấy chưa được chuẩn bị để hậu thuẫn Hillary lúc này. Ông ấy vẫn để ngỏ các lựa chọn của mình. Ông ấy không giữ lời hứa.”
“Bill bắt đầu sôi máu. Ông ấy không nói nên lời vì tức giận.”
“Sau đó Obama đề cập đến vụ Benghazi một cách mơ hồ, khó hiểu khiến Bill tin rằng Nhà Trắng sẽ đổ lỗi chính trị và pháp lý về vụ việc đó cho Hillary.”
“Đến lúc đó, Obama ngừng nói và đợi phản ứng của Bill. Nhưng Bill chỉ cười đầy giễu cợt với Obama rồi gác máy.”
“Sau này Hillary nói rằng bà ấy thấy ông trong văn phòng, hai tay ôm đầu.”
Dĩ nhiên, Clinton không có cách gì biết được rằng Obama đang làm theo lời khuyên của Valerie Jarrett. Trở lại hồi tháng 8, bà ấy đã bảo tổng thống, “Cứ hứa đại với Clinton. Ngài là tổng thống. Ngài không phải cho ông ta gì cả sau khi đã được bầu”.
Tất cả những gì Clinton biết là ông ấy bị Obama, người chẳng hề có ý định ủng hộ Hillary làm tổng thống, lừa gạt.
Chính trị gia nghiệp dư đã chơi được kẻ già đời.