• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Cuộc chiến sinh tồn
  3. Trang 13

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 12
  • 13
  • 14
  • More pages
  • 35
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 12
  • 13
  • 14
  • More pages
  • 35
  • Sau

Chương 10

T

hật là hấp dẫn khi ngồi lại và suy nghĩ về những lời bác sĩ Leblanc nói với tôi rồi mơ mộng về việc làm thêm nhiều thứ đối với cuộc đời mình, nhưng ngay lúc này tìm hiểu về cái xác bị đánh cắp lại quan trọng hơn cả tỉ lần. Nghe thì ngớ ngẩn, nhưng cái danh dự chó chết của tôi đang gặp nguy hiểm, và nếu không làm rõ cái chuyện rác rưởi này thì tôi sẽ gặp phải khó khăn chất chồng nếu muốn có bất kỳ kiểu tương lai tử tế nào.

Vì vậy, tôi đi thẳng đến văn phòng điều tra. Derrel đang ở đó, đang cần mẫn mổ cò viết báo cáo trước máy vi tính. Anh ấy lơ đãng vẫy tay chào tôi mà gần như không rời mắt khỏi màn hình.

“Angel, sao cô không thể giống Nick hơn được nhỉ?”, Derrel cau có lầm bầm.

Tôi chỉ có thể trố mắt nhìn anh ấy mất một lúc trước khi thốt được nên lời. “C… cái gì? Sao anh lại nói thế?”

Derrel thốt lên âm thanh hừm hừm. “Vì Nick có thể gõ phím nhanh thoăn thoắt, và Allen thì đã xoay xở thế nào mà thuyết phục được thằng nhãi nhép đó là nếu nó gõ được toàn bộ báo cáo của anh ta thì sẽ cải thiện được cơ hội thăng chức cho nó.” Nói rồi Derrel ngẩng đầu lên nhìn tôi cười nhăn nhở.

Tôi đáp lại nụ cười đó mà nhẹ cả người. “Chậc, em thì không gõ phím được, nhưng em có thể làm đứa xun xoe, nịnh nọt nếu anh muốn.”

Derrel rùng mình. “Không, đừng thay đổi cái khỉ gió gì hết. Anh đã phải chiến đấu chống lại một vụ giành giật đầy thù địch từ Monica rồi.”

“Một cái gì?”

“Monica muốn đổi ca để được bắt cặp với cô. Anh bảo cô ta lượn mẹ nó đi. Cô bị dính chùm với anh rồi, nhóc con.”

Tôi buông người xuống một chiếc ghế. “Em mừng khi biết anh yêu em nhiều thế. Giờ em cần anh chứng tỏ tình yêu ấy bằng cách giúp em một chuyện.”

Derrel bấm chuột lên cái gì đó trên màn hình, rồi quay sang hoàn toàn chú tâm vào tôi. “Cô muốn biết mọi thứ có thể về nạn nhân ở trung tâm thí nghiệm.”

“Em lộ liễu đến mức đó sao?”

“Không. Anh chỉ biết bản thân mình sẽ cảm thấy thế nào nếu bị người khác ném đống phân ấy vào mình thôi.” Derrel khịt mũi thô thiển, rồi lắc đầu. “Băng đảng chơi đùa ác ý chăng? Anh không biết nữa.”

“Đó không phải trò đùa ác ý”, tôi nói. “Derrel, không phải băng đảng nào đâu. Em biết hội cảnh sát chẳng có lý do gì để tin em, nhưng em không bịa ra chuyện này.”

“Anh chẳng mảy may tin là cô bịa ra bất kỳ cái gì trong chuyện này.”

“Em biết, và anh không biết điều đó có ý nghĩa với em nhiều thế nào đâu”, tôi chân thành nói. “Đây là những gì em đang nghĩ: Thằng dở hơi viết bài báo đó đang có hứng thú với vấn đề rằng gia đình sẽ tồi tệ ra sao khi những người yêu thương còn lại không được quan tâm hay để mắt đến một cách hợp lý. Nhưng... người thân của ông Norman Kearny yêu quý có xuất hiện không?”

Derrel ngả người ra, đan mấy ngón tay sau đầu. “Cô có biết chuyện đó nực cười lắm không? Anh đã cố lùng tìm thông tin về họ, và càng lúc càng có vẻ như ông Kearny chẳng có người thân nào. Ý là người thân trực hệ ấy. Góa vợ, không có con theo những gì anh có thể khẳng định. Cũng chẳng có tí thông tin nào từ các đồng nghiệp luôn.”

“Có gì đó kỳ quặc trong toàn bộ chuyện này”, tôi khăng khăng. “Phải có lý do thì tên khốn kia mới đánh cắp cái xác ấy.”

“Anh đồng ý với cô, Angel, nhưng anh không nghĩ có gì đáng nghi ngờ trong chuyện nạn nhân chỉ là một nhân viên an ninh đã trượt chân ngã cầu thang. Anh đã cho kiểm tra toàn bộ tiểu sử và thông tin mà trung tâm thí nghiệm có trong hồ sơ, tất cả đều nói rằng người đàn ông đó thực sự tên là Norman Kearny.”

“Chậc, sẽ thế nào nếu hồ sơ nhân sự đã bị giả mạo?” Derrel nhướng một bên mày nhìn tôi. “Cô không nghĩ như thế sẽ lái hẳn vấn đề sang lĩnh vực thuyết âm mưu hay sao?”

Tôi nhăn nhó. “Em biết nói vậy thì nghe sẽ thấy thế nào, nhưng em nghĩ phải có vấn đề gì đó trong chuyện này thì mới đáng để chĩa súng vào đầu em rồi cướp cái xác đi như thế.”

Derrel nhăn mặt. “Đúng. Xui là anh chẳng biết làm thế nào để chúng ta tìm ra được hồ sơ nhân sự có bị thay đổi hay không. Nếu vẫn còn cái xác thì chúng ta có thể chạy vân tay hay kiểm tra hồ sơ nha khoa, nhưng...” Anh ấy dang hai tay và nhún vai.

Tôi ngồi thẳng dậy. “Derrel, em thông minh vãi.”

Derrel nở nụ cười thú vị. “Chà, chuyện đó anh biết từ khuya rồi, nhưng điều gì khiến cô nghĩ thế?”

“Em đã cất đồng hồ của người đàn ông đó vào trong tủ an toàn”, tôi cười toe toét. “Chúng ta có thể kiểm tra vân tay trên đó.”

Derrel chậm rãi gật đầu, sự tán thành lóe lên trong ánh mắt. “Cái đó có thể được đấy, vì chúng ta không có xác thật để kiểm tra vân tay.” Anh ấy liếc nhìn đồng hồ trên tường. Hai giờ chiều. “Nửa giờ nữa anh có phiên tòa, nhưng anh sẽ nói chuyện với mọi người trong tổ điều tra vào sáng mai.”

“Em có thể đến đó lấy đồng hồ ngay bây giờ”, tôi nói, hẳn là tỏ ra quá háo hức.

Derrel mỉm cười. “Sốt ruột quá à?”

Tôi không cười đáp lại. “Derrel, có nhiều người nghĩ là em có liên quan. Tên em bày ra ở khắp tất cả các mặt báo, và em thực sự lo sợ là mình sẽ mất việc.” Tôi nuốt khan. “Mà em lại thực sự cần công việc này.” Giọng tôi vỡ ra ở những lời cuối cùng, đấy là tôi thậm chí còn không cố tỏ ra bi thảm đấy.

Vẻ mặt Derrel dịu lại. “Anh biết chuyện đó. Và anh rất tiếc vì cô đã phải trải qua tất cả những chuyện này. Anh chỉ... Anh không muốn cô đặt hy vọng quá lớn rằng cái đồng hồ đó đột nhiên sẽ trả lời được toàn bộ những câu hỏi.”

Tôi gật đầu bướng bỉnh. “Em biết. Nhưng cũng đáng để thử, đúng không?”

“Đúng.” Derrel nở nụ cười hiền. “Anh sẽ đi lấy cái đồng hồ trong tủ an toàn cho cô. Hãy cho anh biết cô tìm ra được gì.”

Derrel đi lấy cái đồng hồ trong túi ni lông giúp tôi, rồi rời khỏi đó để đi dự phiên tòa. Tôi ngồi trong văn phòng, run rẩy và lo lắng mất vài phút trong lúc băn khoăn liệu mình có thực sự là một con ngốc hoang tưởng quá độ với cái thuyết âm mưu kia. Cuối cùng tôi thở dài, nhấc điện thoại lên và gọi cho thám tử Ben Roth, nhẹ cả người vì đây là vụ mà anh ta phụ trách. Ít nhất thì anh ta trước sau như một đối xử với tôi như với một con người - không giống như một số thám tử khác trong Sở cảnh sát. Nếu đây là vụ của Abadie, hẳn tôi sẽ sợ vãi linh hồn.

“Thám tử Roth nghe”, giọng trả lời cộc cằn vang lên vài giây sau đó.

“Chào Ben”, tôi nói, “Angel Crawford đây. Ở Viện Kiểm thi”, tôi nói thêm vào, đột nhiên hoang tưởng là mình đang hoàn toàn tưởng tượng ra giữa hai bọn tôi có mối quan hệ nào đó.

“Ồ, chào Angel!” Tông giọng cộc cằn chuyển thành thứ gì đó tươi tỉnh hơn. “Tôi có thể làm gì cho cô đây?”

“Chậc, tôi đang thắc mắc liệu anh có chiều lòng tôi trong chuyện này được không.”

“Chỉ khi chuyện đó thật phàm tục thôi”, anh ta cười lớn đáp lời.

“Không theo cái cách mà hẳn là anh đang muốn đâu”, tôi cũng cười lớn. “Tôi có thể ghé qua văn phòng anh không? Chuyện này có lẽ cần phải giải thích chút ít. Liên quan đến tên trộm xác.”

“Ừ, chắc chắn được chứ.” Anh ta chỉ dẫn nhanh đường đến văn phòng, rồi tôi gác máy và lái xe đi khoảng nửa dặm đến tòa nhà chứa Sở cảnh sát.

Cửa phòng Ben đang mở lúc tôi đến. Văn phòng này có kích thước bằng buồng để chổi, vừa đủ rộng cho một bàn làm việc, một tủ hồ sơ và một chiếc ghế thừa. Bản thân cái bàn chứa một chiếc máy vi tính và điện thoại, mọi centimet vuông khác đều bị bao phủ bởi từng chồng báo cùng hồ sơ. Một tấm bảng giấy trên tường sau lưng anh ta chứa bức ảnh chụp Ben và một người đàn ông tóc vàng ôm mấy con cá hồi đốm, cũng như một bức khác chụp Ben cũng với người đàn ông ấy, khoác vai nhau tay giơ bia. Quanh rìa tấm bảng là một số bài báo cắt ra về những vụ mà tôi đoán là anh ta đã đóng hồ sơ. Một bức ảnh đóng khung nhét giữa một chồng báo và màn hình máy tính, cũng lại chụp hai người kia.

Tôi khẽ gõ lên khung cửa để Ben nghe thấy. Anh ta dời ánh mắt ra khỏi máy tính và nhìn tôi cười toe toét. “Thiên sứ tử thần!” Anh ta cười khoái chí ra hiệu về phía chiếc ghế đặt trước bàn làm việc. “Vào đi nào, ngồi xuống đây.”

Tôi đóng cửa lại sau lưng rồi ngồi xuống. Mắt Ben thoáng liếc về phía cánh cửa đóng, nhưng anh ta không bình luận gì. Tôi bồn chồn mất mấy giây trong khi cố nghĩ ra cách giải thích giả thuyết của mình. “Đó là anh em trai của anh à?” Tôi vừa hỏi vừa hất đầu về phía khung ảnh, vớ lấy mẩu hội thoại đầu tiên mà mình có thể nghĩ ra.

Ben mỉm cười, lắc đầu. “Không, bạn trai tôi đấy.”

Tôi chớp mắt ngạc nhiên. “Ồ!” Rồi dừng lại, lóng ngóng tìm điều gì đó để nói mà không biến mình thành một con lừa. “Anh là, ừm... Ở đây không ai gièm pha gì anh trong chuyện đó hay sao?”

Ben cười khùng khục. “Hoan nghênh họ cứ thử làm thế xem. Tôi chắc chắn người ta có nói những thứ rác rưởi sau lưng tôi, nhưng chẳng ai ngu đến nỗi nói bất kỳ điều gì trước mặt tôi hay Neil. Tôi đưa anh ấy đến dự tất cả các buổi tụ tập của Sở mà vợ chồng hay người yêu được chào đón, và cho đến giờ mọi người vẫn tử tế lắm.”

Tôi thấy mình đang cười toe. Ben có thể có vẻ bề ngoài như gấu bông, nhưng ngay lúc này có một tia khắc nghiệt trong mắt anh ta cho tôi biết rằng anh ta sẽ nghiêm túc xử đẹp kẻ nào dám gây hấn với người mà anh ta quan tâm. “Tôi muốn lúc nào đó được gặp anh ấy”, tôi nói.

Ben khẽ gật đầu. “Chuyện đó sắp xếp được. Thế có chuyện gì nào?”

“Ok, chuyện là thế này”, tôi mở lời. “Tôi biết có những người nghĩ rằng việc mất cái xác kia là do tôi đã gây ra chuyện...”

“Tôi không tin điều đó”, Ben cắt ngang, mắt nheo lại. Tôi nhìn anh ta cười yếu ớt. “Cảm ơn anh. Nhưng một giả thuyết khác cho rằng đây là một kiểu chơi khăm ngớ ngẩn nào đó, và tôi thực lòng không tin vào giả thuyết kiểu này.” Ben ngả người ra ghế, gật đầu. “Tôi có thể nói rằng chuyện này khiến cô thấy rầy rà muốn chết.”

“Chính thế, và không chỉ bởi vì tên tôi bị kéo lê trong bùn”, tôi nói. “Nghe này, có điều gì đó kỳ quặc về người đàn ông đã chết. Tôi biết hồ sơ cho thấy ông ta trông rất bình thường, nhưng phải có gì đó khác về ông ta.” Tôi đặt túi chứa cái đồng hồ lên bàn. “Tôi lấy thứ này ra khỏi người ông ta ngay từ đầu khi đưa ông ta vào túi xác. Tôi mong được biết liệu có thể kiểm tra vân tay trên này... liệu người chết có thực sự chỉ là một nhân viên an ninh bình thường như mọi người đang nghĩ về ông ta hay không.”

Ben cầm cái túi lên và nhìn chiếc đồng hồ bên trong. Trước sự ngạc nhiên của tôi, một nụ cười nở toe toét trên môi anh ta. “Tôi thích chuyện này đấy. Một giả thuyết âm mưu hay vãi.” Anh ta ngẩng lên nhìn tôi. “Tôi sẽ đưa nó đến phòng thí nghiệm ngay.” Nói rồi anh ta đứng dậy. “Có muốn đi cùng không?”

“Đương nhiên!”, tôi nói. Tôi yêu mấy trò pháp y, điều tra hiện trường vụ án các kiểu. Chẳng đời nào tôi lại khước từ cơ hội được vào xem bên trong phòng thí nghiệm tội phạm.

Phòng thí nghiệm tội phạm nằm trong tòa nhà liền kề với Đơn vị Điều tra, nối bởi lối đi đã được quây kín. Khi bước vào tôi thấy mình ở trong căn phòng chật chội chứa một chiếc bàn làm việc, bên trên là hàng chồng giấy tờ cùng với một ô cửa khác có khóa từ giống như cái bọn tôi vẫn sử dụng ở Viện Kiểm thi. Một phụ nữ người châu Á trung tuổi với mái tóc cắt tém ngồi sau chiếc bàn. Bà ta gật đầu chào Ben và nhìn tôi có chút dò hỏi. Tôi có thể nhận ra bà ta đã thấy huy hiệu Viện Kiểm thi trên áo tôi và chút ít nghi ngờ trong mắt bà ta tan dần.

“Chào Tracie”, Ben nói. “Có ai không quá bận rộn và có thể tiến hành kiểm tra nhanh dấu vân tay trên vật chứng được không?”

“Chẳng có cái gì gọi là ‘tiến hành nhanh’ cả”, bà ta quở. “Và cũng chẳng có cái gì gọi là ‘không quá bận rộn’ ở đây. Bọn tôi có cả kho dự trữ các vụ án phải làm, cậu biết đấy.”

Ben mỉm cười xoa dịu. “Chắc rồi, nhưng tôi lúc nào cũng siêu tử tế với tất cả các vị, và xứng đáng được ưu tiên xếp trước những thằng khốn thô bỉ khác chứ nhỉ?”

Bà ta khịt mũi, nhưng vẫn cầm lấy điện thoại và nhấn một nút. “Này, thám tử Roth đang ở đây và muốn hôn mông cậu vì cậu ta cần làm cái gì đó ngay tức khắc. Cậu có muốn tôi bảo với cậu ta đi chết đi không?” Tôi chớp mắt ngạc nhiên, nhưng Tracie bắt gặp ánh mắt tôi và nháy mắt. “Hiểu rồi”, bà ta nói vào ống nghe, rồi gác máy.

“Sean bảo cậu nợ cậu ta bữa trưa”, bà ta bảo Ben, “nhưng cậu ta sẽ làm hộ cậu”.

“Tuyệt quá”, Ben nói. “Cậu ấy có thể ghi sổ cho tôi.” Chưa đầy một phút sau một kỹ thuật viên tóc đỏ mở cánh cửa an ninh. “Ồ, chào Angel. Chào Ben. Vào đây nào. Vụ này chỉ có một vật chứng thôi đúng không?” Anh ta ném cho Ben ánh mắt chứa đầy vẻ nghi ngờ. “Không giống như cái lần anh có đến năm mươi ba lon bia đấy chứ?”

Ben rên lên. “Tôi thề vụ đó không phải lỗi của tôi.”

“Dĩ nhiên là không rồi”, Sean đảo tròn mắt. “Vào đi, rồi cho tôi xem hai người có gì.”

Bọn tôi ngoan ngoãn đi theo Sean xuyên qua khu thí nghiệm, và rất giống với lần đầu tiên đi quanh Viện Kiểm thi, tôi thất vọng khi thấy chẳng có đèn neon hay chrome hay bất kỳ thứ gì khác lạnh lùng trơn bóng. Chẳng có gì ngoài những văn phòng chật chội và những thiết bị thí nghiệm cũ mèm. Cuối cùng bọn tôi đến một căn phòng rộng lớn chứa bốn chiếc bàn rộng, tất cả đều được bao phủ bởi một số lượng lớn đến vô lý những túi hay hộp với nhãn đề “Vật chứng”. Sean dừng lại trước một chiếc bàn thực sự có chút không gian trống, rồi lôi một đôi găng tay cao su từ trong cái hộp gần mép bàn và đeo vào.

Ben đặt cái túi chứa đồng hồ trước mặt Sean, còn tôi sốt ruột đứng nhìn khi Sean thận trọng mở cái túi nhìn vào bên trong.

“Ok, tôi sẽ đưa nó vào tủ xông khói, và chúng ta sẽ xem xem tìm ra được cái gì”, Sean nói.

“Tủ xông khói á? Nó là cái gì?”, tôi hỏi ngay. Biết rằng mình đang mạo hiểm biến bản thân thành con ngốc, nhưng tôi cũng tò mò chết bỏ về cách toàn bộ những trò pháp y này diễn ra. Ngay cả khi không có tí đèn neon hay chrome nào.

Thật may là Sean có vẻ như không nghĩ rằng đó là một câu hỏi ngớ ngẩn. “Xông keo siêu dính. Tất cả những gì cô cần là một cái tủ kín hơi, ít hơi nóng và vài giọt keo siêu dính.”

Anh ta dùng tay đeo găng nhấc chiếc đồng hồ lên. “Thấy không, dấu vân tay để lại các chất - các dấu vết của axit amino, protein, axit béo. Những chất ấy phản ứng với khói xông được tạo ra khi hun nóng keo siêu dính, và rồi một thứ vật chất kết dính màu trắng hình thành bám lấy các đường vân tay, làm nó nổi lên.” Anh ta quay người bước đi. “Đây, tôi sẽ cho cô xem.”

Tôi háo hức đi theo Sean vào trong căn phòng liền kề. Một cái bàn kim loại chiếm giữ chính giữa phòng và dọc theo một bên tường là hàng loạt các tủ có cửa kính đủ các kích thước, cao từ khoảng ba mươi phân cho đến trùm khắp từ sàn đến trần.

“Đây là tủ xông khói”, Sean giải thích, cẩn thận mở cửa một chiếc tủ chỉ cao khoảng ba mươi phân. Anh ta thận trọng treo đồng hồ lên một cái móc kim loại, rồi mở một ống nhựa nhỏ và nhét các thứ vào trong một khay kim loại đặt ở đáy tủ. Sau khi đóng cửa tủ và khóa lại, anh ta nhấn mấy cái nút ở phía trước. “Giờ tủ sẽ được hun nóng để phả khói ra, như thế sẽ xử lý được bất kỳ dấu vân tay nào có thể có trên chiếc đồng hồ”, Sean giải thích. “Và khi xong thì chiếc tủ sẽ xả khói đi một cách an toàn.” Nói rồi anh ta nhìn tôi cười nhăn nhó. “Đây là một tiến bộ vượt bậc so với kỹ thuật mà bọn tôi trước đây vẫn thường sử dụng, mà về cơ bản là một cái tủ cá.”

Tôi đứng nhìn, ngây cả người khi một luồng khói từ từ tỏa khắp tủ. “Sẽ mất khoảng bao lâu?”

“Khoảng năm phút, nhưng rồi cô sẽ phải chờ nó xả khói. Như tôi đã nói, tốt hơn nhiều so với phương pháp tủ cá khi mà chúng tôi về cơ bản phải giật nắp ra rồi bỏ chạy để khỏi bị hít khói độc.”

Một lát sau đèn chuyển sang màu xanh, và Sean cẩn thận lấy chiếc đồng hồ ra. Anh ta nhìn nó qua kính lúp, rồi gật đầu.

“Chà, có một dấu tay đẹp đẽ trên đồng hồ”, anh ta nói, làm tôi sướng rơn. “Tôi hoàn toàn có thể chạy nó qua hệ thống nhận diện vân tay.”

Tôi mê mẩn chăm chú nhìn Sean tiến hành rắc bột lên dấu vân tay, bóc lớp bột đó ra bằng một mẩu giấy dính mà tôi được biết có tên là giấy lấy dấu vân tay, chụp lấy dấu tay xuất hiện trên mẩu giấy rồi chuyển hình ảnh số đó vào máy tính. Từ đó anh ta kéo hình ảnh dấu vân tay lên màn hình và bắt đầu đánh dấu hình ảnh đã được phóng to bằng các chấm đỏ - mà theo anh ta giải thích thì đó là “các điểm”; những nơi các đường vân kết thúc, chụm lại, chia tách, hay đơn giản chỉ tạo ra các chấm. Công việc đó trông thật kỳ diệu, và đồng thời cũng chán ngắt chán ngơ.

“Nói lại xem kẻ này được cho là ai đây?”, Sean cất tiếng hỏi khi nhập dấu vân tay với toàn bộ những điểm đã được đánh dấu vào trong kho dữ liệu.

Ben nhìn tập hồ sơ. “Norman Kearny.” Anh ta đọc ngày sinh và số bảo hiểm xã hội.

“Hẳn ông ta có vân tay trong hệ thống vì tất cả nhân viên tại NuQuesCor đều phải qua kiểm tra lý lịch.” Sean gõ thêm vài phím. “Đây rồi, vân tay của ông ta đây.” Mắt anh ta nhìn tới nhìn lui trên màn hình, thế rồi trán cau lại. “Nhưng dấu tay trên đồng hồ không khớp.”

Một cơn rùng mình chạy xuyên qua tôi khi Ben huýt sáo. “Angel”, anh ta nói, “Tôi mừng chết đi được khi đã chiều theo ý muốn của cô”.

Tôi nặn ra nụ cười yếu ớt.

Sean liếc ra sau. “Giờ chúng ta chỉ phải tìm xem dấu vân tay này khớp với ai thôi.”

“Và Norman Kearny thực sự đang ở đâu?”, tôi thêm vào. Ben nhăn mặt. “Câu hỏi hay vãi.”

Lòng kiên nhẫn trong tôi đã phải đương đầu với khó khăn khi phải chịu đựng một sự chờ đợi rõ ràng là nhân tố lớn trong ngành pháp y hiện trường vụ án. Tôi sốt ruột trong khi các thứ nhá lên trên màn hình máy tính. Tôi chỉ có thể giả định là điều gì đó đang xảy ra.

Sau khoảng mười phút sự chờ đợi của tôi đã được đền đáp. “Chà, thật quái lạ”, tôi nghe Sean lầm bầm.

“Anh có gì à?”, Ben hỏi, chồm người tới trước để nhìn màn hình. Tôi cũng làm vậy, mặc dù tất cả những gì tôi thấy là hai dấu vân tay to oạch cùng với cả đống chấm trên đó. Tôi chẳng biết bất kỳ chấm nào trên đó có nghĩa là gì.

“Chậc, tôi nghĩ vậy”, Sean nói. “Ý tôi là, cái này chắc chắn trông trùng khít.” Anh ta tiếp tục bấm chuột. “Tôi có hơn chục điểm khớp nhau rồi. Theo những gì tôi có thể nói thì đây chính là kẻ hai người đang tìm.”

“Tuyệt!”, Ben nói. “Thế có gì quái lạ?”

Sean ngả người ra ghế và thọc cả hai tay vào tóc. “Tôi đã thấy cái xác ở hiện trường. Trông ông ta tối thiểu phải khoảng ngoài sáu mươi, đúng không?”

Cả hai chúng tôi cùng gật đầu, nhưng một nút thắt bắt đầu hình thành trong ruột tôi.

“Chậc, trước mắt thì cái gã khớp với dấu vân tay này mới có bốn mươi ba tuổi.”

Ben lắc đầu. “Hẳn là lỗi đánh máy.”

Sean xoay sang một máy vi tính khác. “Không, hồ sơ khác về hắn cũng có cùng ngày sinh.”

“Có thể ông ta thực sự trông già so với tuổi”, tôi gợi ý. “Hay có thể dấu tay là của người khác. Ý tôi là, có thể ai đó đã cầm cái đồng hồ hay gì đó.”

Sean nhún vai. “Cũng có thể, nhưng đó không phải là điều duy nhất kỳ quái. Nhìn tên của người này mà xem.”

Ben và tôi chồm tới đọc cái tên trên màn hình.

“Không thể nào”, Ben thốt lên trong khi tôi chỉ có thể trố mắt nhìn.

Tôi đã muốn một kiểu xác nhận nào đó cho thấy người đàn ông này là thây ma, nhưng cái này chẳng hợp lý một tí nào. Cái tên khớp với dấu vân tay ấy là Zeke Lyons - kẻ đã bị Ed Quinn chặt đầu khoảng một tháng trước. Gã là thây ma. Nhưng gã là một thây ma đã chết. Làm thế nào dấu vân tay của gã lại có trên cái đồng hồ được?

“Có cái gì đó lộn xộn với vật chứng này”, Ben lắc đầu. “Đây không thể là đồng hồ của người đàn ông đã chết trong trung tâm thí nghiệm.”

Cuối cùng tôi cũng lên tiếng được. “Sean, anh có những bức ảnh chụp ở đó, đúng không?” Khi anh ta gật đầu, tôi nói tiếp. “Anh có thể lấy chúng ra và xem có phải cùng một cái đồng hồ không?”

Sean chuyển màn hình và vài phút sau lôi ra một tệp chứa tất cả những bức ảnh hiện trường vụ án mà anh ta đã chụp. Ben và tôi im lặng nhìn trong khi Sean kéo xuống, cuối cùng thì bấm vào một tấm cho thấy cái đồng hồ trên cổ tay nạn nhân. Anh ta phóng to ảnh.

“Có vẻ như đúng là cái đồng hồ đó”, Ben thừa nhận. “Nhưng như thế cũng có thể là trùng hợp.”

“Sean, anh có thể lấy bức ảnh chụp mặt ông ta ra xem không?”, tôi hỏi.

Sean liếc nhìn ra sau. “Có thể chứ... và tôi còn có thể lấy ảnh bằng lái của Zeke Lyons nữa kìa.”

“Chuyện này vô lý bỏ mẹ”, tôi thở hắt ra khi nhìn những bức ảnh cạnh nhau.

“Đây hẳn là cha gã ta hay gì đó”, Ben nói, mặt hằn vết nhăn.

Cổ họng tôi khô khốc khi tôi chỉ tay lên màn hình.

“Nhìn vết sẹo mỏng bên cằm gã này mà xem. Giống hệt ở cả hai. Và nốt ruồi trên thái dương. Chính là gã ta... nhưng già hơn nhiều.”

Ben ngồi phịch xuống. “Angel. Tôi rút lại lời nói về chuyện vui mừng khi chiều theo ý cô. Làm thế quái nào tôi giải thích được chuyện này với cấp trên đây? Làm thế nào gã này có thể chết... đến hai lần?”

Tôi xòe hai tay với vẻ thất bại đầy bất lực. Những ý nghĩ quay cuồng điên loạn khi tôi cố lập luận về chuyện này. Tôi đã đúng trong chuyện cho rằng gã này là thây ma, nhưng... làm thế nào gã có thể sống sót qua vụ chặt đầu? Và tại sao trông gã lại già hơn nhiều thế? Và tại sao trông gã như kiểu bị chết thật sau khi ngã cầu thang?

Cái chết tiệt gì đang xảy ra thế này?