T
ôi biết người ta đồn đại là tôi có dạ dày thép”, tôi nói, “nhưng ngay cả tôi cũng cho rằng thứ này tởm lợm kinh hồn”.
Tôi đang ở bên dưới sàn nhà, đầu và vai lọt trong một đường ống rất chật hẹp, chỉ vừa đủ để ngó được khúc ngoặt nối đoạn ống tôi đang cố bò vào với một đường ống khác. Có một xác chết trong đường ống bên trái. Tuy không thể nhìn thấy toàn bộ, nhưng chắc chắn tôi có thể ngửi thấy, ngay cả khi có lớp mặt nạ bảo vệ giúp tôi không bị sặc cát và bụi. Những người khác cũng có thể ngửi thấy.
“Đèn pin?”, tôi hỏi, chìa tay bừa ra phía sau. Ai đó đẩy một chiếc đèn pin vào tay tôi, nhưng ánh sáng chỉ xác nhận điều mà khứu giác đã cố bảo với tôi.
Nạn nhân ở phía dưới khoảng ba mét - trương phình và hoàn toàn bịt kín đường ống. Nếu cân nhắc đến chiều ngang đường hầm thì chỉ khoảng sáu mươi phân là hết cỡ, tôi phải tự hỏi điều gì có thể xui khiến người này cố chui qua khoảng không chật hẹp như vậy. Một tay duỗi thẳng qua đầu, tay kia trông như kiểu bị lèn chặt bên hông. Một vũng dịch đỏ chìa ra vài phân dọc theo ống thông hơi - một thứ màu nâu đỏ tởm lợm thò ra từ miệng và mũi. Tôi rùng hết cả mình khi nhìn thấy những đầu ngón tay nham nhở cùng với những vệt máu mỏng dọc theo hông ống thông hơi. Người này đã dốc hết sức bình sinh để cào cấu tìm đường ra hay là để xoay trở người gì đó. Anh ta bị chết ngạt hay chết vì khát? Chúa ơi, tôi hy vọng là khả năng đầu tiên.
Tôi là tài xế lái xe tải kiêm trợ lý nhà xác của Sở cảnh sát giáo xứ St. Edwards, thế có nghĩa là tôi đã chứng kiến vô vàn cái chết. Phần lớn thời gian công việc khá trôi chảy - nếu có người chết trong nhà hay là do tai nạn, một chuyên viên điều tra nguyên nhân tử vong và tôi sẽ đến đó, điều tra viên sẽ làm công việc của mình, rồi tôi chuyển xác chết vào trong một cái túi và đưa về nhà xác, ở đây tôi sẽ hỗ trợ bác sĩ pháp y tiến hành công việc mổ xác. Công việc đó thật bẩn thỉu, hôi hám, nhớp nháp, đôi khi còn tởm lợm và đau khổ.
Nhưng tôi yêu công việc này. Và không phải chỉ vì nó cho tôi được tiếp cận dễ dàng với nguồn não người mà tôi cần để duy trì... chậc, “sự sống” không phải là từ đúng. “Sự bất tử dễ chịu chăng?” Hay là “không thối rữa?”
Tôi lại rùng mình, mặc dù lần này là vì lạnh. Đã là đầu tháng Mười hai. Trong khi ở phương Bắc tiết trời này hiếm khi lạnh đến nỗi khiến người ta phải co quắp thì tôi lại sống ở phía Nam Louisiana từ khi mới sinh ra, và nhiệt độ cứ dưới 10oC đối với tôi đã thuộc dạng lạnh điên cuồng rồi. Hơn nữa, chỗ bọn tôi độ ẩm cao ngất, có nghĩa là trời vừa lạnh vừa ẩm. Và phải, tôi là một con thỏ đế.
Tôi hì hục lùi lại và trèo lên qua cái lỗ trên sàn nhà. “Nghe này, sẽ phải phá toàn bộ khu vực ấy ra thôi”, tôi bảo với Derrel Cusimano, chuyên viên điều tra nguyên nhân tử vong mà tôi làm việc cùng. “Em chẳng có cách nào lôi người đó ra cả. Hắn bị mắc kẹt rồi.”
Chắc nguyên bản mấy đường ống ấy được sử dụng để đưa những ống dẫn hơi ra ngoài tòa nhà đổ nát nơi chúng tôi đang đứng, nhưng cái nhà máy này đã được trang bị sửa sang nhiều lần trong hơn bảy mươi lăm năm qua; những ống dẫn cũ đã bị bóc đi và số ống mới được đặt thay thế vào đó, chứa mọi thứ từ nước cho đến đường dây dữ liệu. Cũng chẳng phải tất cả những ống dẫn cũ đều đã được bỏ đi, và tôi có cảm giác đấy là lý do mà nạn nhân của tôi, bằng cách nào đó đã có thể khiến bản thân bị mắc kẹt như thế.
Tôi lướt nhìn khắp sàn nhà. Chắc là từng khu vực sàn đã được thiết kế để dễ dàng gỡ ra nhằm mục đích tiếp cận với hệ thống đường ống, nhưng những lần cải tạo và xây dựng đã lát phần lớn mặt sàn bằng gạch vuông hoặc vải sơn lót, thế có nghĩa là muốn lấy được cái xác ấy lên sẽ đòi hỏi một số bàn tay khỏe mạnh và có thể là máy móc hạng nặng. Ít ra nó cũng không phải ở sau một bức tường. Nếu thế thì đó sẽ là một cơn ác mộng kinh hoàng.
Derrel thở dài. “Hây dà, cũng đáng để thử. May là cô còn chui được vào đủ sâu để nhìn thấy.”
Tôi khịt mũi. “Đại ca ơi, em chắc là anh còn chả nhét nổi đầu mình vào ống ấy chứ.”
Tôi làm việc cùng Derrel ít nhất phải đến chín mươi chín phần trăm các ca mà tôi tham gia, nhưng vẻ bề ngoài của bọn tôi thì lại chẳng liên quan tí gì đến nhau. Anh ấy là cựu hậu vệ của đội LSU. Bự con, trọc đầu, da đen - một bức tường chắc nịch toàn thịt và cơ bắp. Trong khi đó, tôi là một con nhóc da trắng gầy nhom phải nhảy tưng tưng trên cân để bắt nó chỉ hơn năm chục cân.
Derrel cười khùng khục. “Chính xác đó là lý do vì sao anh cần một cộng sự nhỏ như yêu tinh.”
“Vầng, nhưng đừng có mơ anh vớ được em làm đồ chơi hay bánh quy nhá.” Tôi cố phủi đất bám trên người nhưng rồi đành bỏ cuộc. Toàn bộ nơi này bẩn thỉu đến độ tôi làm như thế cũng chỉ tổ sắp xếp lại chỗ đất bẩn và rải nó thành từng đám bụi phát sặc. Tôi tha thiết muốn được mặc áo khoác vào, nhưng tôi lại chẳng muốn biến nó thành cái giẻ bẩn, dù là vì đất hay vì dịch từ xác chết. “Làm thế quái nào người ta biết được có người chết trong này nhỉ?”, tôi hỏi.
“Nơi này vừa được mua lại, hội thợ đến để dọn dẹp và tu bổ.” Derrel khoát tay chỉ “nơi này”.
Bọn tôi đang ở trong một nhà máy trên bờ sông Kreeger nằm ở phía Nam Tucker Point. Thực ra, tòa nhà nằm trên mép sông theo đúng nghĩa đen, tạo thành một phần tường đê và đường dốc thẳng đứng khiến tôi ngạc nhiên khi đánh liều ghé mắt nhìn ra cửa sổ.
Hẳn đây đã từng là một nhà xưởng sản xuất xe hơi cực thịnh vào thập niên 1920 hay 1930, rồi sau đó trở thành đủ các thể loại nhà xưởng khác, bao gồm một kho hàng, một phim trường, rồi lại thành một nhà máy - lần này là để sản xuất xe cộ cho quân đội - và rồi lại biến thành một hãng tàu kiểu gì đó. Cứ mỗi lần như thế nơi này lại được tái xây dựng và cải tổ, nghĩa là đến giờ nó là một đống kim cổ pha tạp, chẳng có cái khỉ gì thực sự khớp hoàn hảo với nhau và toàn bộ khu vực dường như chẳng liên quan gì với những thứ khác.
Tôi đã phải cuốc bộ xuyên qua một khu văn phòng bỏ hoang để đến nhà kho này, và khi chẳng có gì liên quan đến xác chết còn có thể làm tôi mất vía nữa thì lớp sơn bong tróc, đồ đạc văn phòng bỏ hoang và những ô cửa sổ đổ vỡ lại khiến tôi thấy rờn rợn kinh người. Tôi cho rằng nếu thây ma có thể tồn tại thật thì chẳng có gì đảm bảo là ma quỷ lại không thể.
“Nói chung là”, Derrel nói tiếp, “hội thợ ngửi thấy mùi gì đó lạ lùng. Một trong số đó tin rằng không chỉ có một con chuột chết ở đây liền gọi cảnh sát”.
Tôi gật đầu. Có gì đó trong cái mùi của “người chết” khác biệt hẳn với mùi của “loài gặm nhấm chết”.
“Cảnh sát cũng ngửi thấy cái mùi đó”, Derrel tiếp tục, “vậy là họ gọi Marianne cùng với con chó tìm xác chết của cô ấy. Con chó lao thẳng đến chỗ sàn nhà kia và nhìn chằm chằm vào đó. Thế là xong”.
“Hay nhỉ”, tôi nói, giữ giọng bình thản trong khi nhìn quanh khu nhà kho tìm người phụ nữ nhỏ nhắn cùng con chó. Tôi thấy Marianne đang ngồi trên bậc thềm dẫn vào nơi chắc hẳn một thời là văn phòng quản đốc. Tôi vội nhìn đi chỗ khác trước khi cô ấy kịp phát hiện ra tôi đang nhìn. Tôi chưa hoàn toàn sẵn sàng nói chuyện với cô ấy. Tôi phải nói cái quái gì bây giờ chứ?
Derrel cau mày nhìn cái lỗ trên sàn, dường như không hề nhận thấy cảm giác áy náy của tôi đối với Marianne. “Chỉ mong anh mày có thể luận ra vì lý do quái gì mà gã này lại quyết định chui xuống dưới đấy.”
“Chắc là trộm đồng”, tôi nói.
Derrel quay lại nhìn tôi, nhướng một bên mày.
Tôi cười toe toét. “Không phải em biết gì về các thể loại trộm cắp đâu nhé...” Tôi chọn cách phớt lờ khi anh ấy khịt mũi buồn cười, “...nhưng đồng có giá ra phết đấy, và em cá là gã này đang cố dùng mấy đường ống để lọt vào một đoạn ống đóng mở, biết đâu có đoạn sắt nào bị vụn ra mà gã có thể lẻn qua được”.
Derrel bĩu môi gật đầu. “Những thứ anh học được từ cô thật đáng kinh ngạc.”
“Em có cả đống kiến thức vô bổ.”
Giờ là lúc để những người cơ bắp hơn tôi xử lý vụ dỡ sàn nhà. Tôi lùi lại và tìm được một chỗ để chờ mà không quá khuất trong bóng tối, rồi phải kìm lại để không ré lên khi bị một bàn tay vỗ lên vai. Tôi quay phắt lại và thấy thám tử Ben Roth đang đứng bên cạnh.
Anh ta cười nhăn nhở. “Bố khỉ, Angel, khi nào cô mới chịu đắp thêm ít thịt lên bộ xương này?”
“Khi nào anh làm cho tôi một cái bánh sandwich đã, đồ đểu”, tôi đáp trả trong khi cố kiểm soát nhịp tim.
Ben khịt mũi. “Chả tích sự gì đâu. Tôi đã thấy cô ăn uống rồi. Cô phải có hệ tiêu hóa của loài chim ruồi chết tiệt mới đúng.” Anh ta nhăn nhở rồi vỗ lên cái eo thừa mỡ của mình. “Tôi thì giống chim cánh cụt hơn. Nhưng này, con chim cánh cụt này có thể đẩy được mức tạ bằng trọng lượng cơ thể và qua được bài kiểm tra thể lực của Sở một cách xuất sắc tuyệt đối đấy.”
“Và mỗi lần đều ăn sạch sẽ một cái bánh muffaletta”, tôi thêm vào.
“Với những thứ quan trọng tôi luôn vượt trội mà!”
“Ừ, chậc chậc, tôi sẵn sàng chết để có được cái gì đó tương tự như đường cong”, tôi nói, tay vỗ lên cái mông không hề tồn tại của mình. Lý do chính để tôi có thể ăn như thuồng luồng bất kỳ thứ gì mình muốn là bởi vì, theo như tôi biết, tôi không thể béo được. Không phải vì có hệ tiêu hóa hoành tráng gì. Ok, chắc cũng có một phần vì thế, nhưng lý do chính là vì - một cách nghiêm túc - tôi không còn sống nữa.
Ben cười khùng khục rồi thả tay xuống, nhưng rồi vẻ mặt anh ta trở nên tỉnh táo hơn và hỏi tôi, “Tôi đoán cô đã nghe chuyện về Ed?”.
“Marcus đã kể tôi nghe hồi đầu tuần.” Tôi cố hết sức giữ vẻ mặt trung dung mà mang được chút ấn tượng “chuyện ấy thật là chó chết” trên đó.
Ben thở hắt ra. “Có lẽ tôi nên thấy vui vì bọn tôi đã có một hướng đi vững chắc về thân thế của kẻ sát nhân, nhưng khi hắn vẫn còn bặt vô âm tín thì đối với bọn tôi cũng chẳng hay ho gì lắm.”
Tôi gật đầu thận trọng. “Anh nghĩ anh ta có thể vẫn còn trong vùng này à?”
“Không. Tôi nghĩ hắn lượn lâu rồi.” Ben nhăn mặt. “Nhưng Marcus đón nhận chuyện này thật khó khăn.”
Ánh mắt tôi trôi dạt về nơi Marcus đang đứng ở bên kia căn phòng dài. Trông Marcus Ivanov giống như bước ra từ những trang quảng cáo cũ dành cho “Đàn ông Nga nóng bỏng!” nếu như nó từng tồn tại. Tóc và mắt màu đen, cao ráo với vừa đủ lượng cơ bắp và hầu như không có một gram mỡ thừa nào. Nhưng đằng sau vẻ bề ngoài bảnh bao ấy, ngay lúc này, trông anh đúng như người ta vẫn mường tượng, một người mới vừa phát hiện ra rằng, có khả năng lớn người bạn thân nhất của mình là một trong những tên sát nhân hàng loạt khét tiếng nhất từng xuất hiện ở vùng này: đau khổ, duy trì vẻ ngoài cứng rắn, quyết tâm vượt qua toàn bộ cuộc thử thách với sự giúp đỡ của bạn bè và đồng nghiệp.
Tôi phải cố kìm nén để không mỉm cười. Cảnh sát Marcus Ivanov xứng đáng đoạt giải Oscar cho vai diễn mình đang đóng.
Hai tuần trước, người bạn thân nhất của Marcus, Ed Quinn, đã biến mất trong chuyến đi săn diễn ra hằng năm của họ. Ít nhất đó cũng là câu chuyện mà Marcus đã kể lại với các nhà chức trách khi hai bọn tôi quay về thị trấn. Thực tế có đôi chút nghiệt ngã hơn. Ed là một kẻ săn lùng thây ma, lâu nay đã săn lùng và chặt đầu thành viên của giới này. Sau khi phát hiện ra Marcus và tôi cũng là thây ma, anh ta đã cố giết bọn tôi. Tôi đã cứu mạng Marcus và đả bại Ed... rồi cho Ed một cơ hội: anh ta có thể bỏ chạy, hoặc sẽ bị tôi đánh chén. Chậc, là tôi đánh chén bộ não của anh ta. Thực ra gần như chắc chắn tôi sẽ chẳng giết hay đánh chén bất kỳ bộ phận nào của Ed, nhưng anh ta lại không biết điều đó.
Không cần phải nói, Ed quyết định bỏ chạy. Marcus và tôi đã cố hết sức làm ra vẻ như kiểu hai người bọn họ đã thất lạc nhau trong rừng, sau đó bọn tôi quay trở lại với thế giới văn minh và rất trách nhiệm khi báo cáo lại việc Ed mất tích. Đó có thể không phải là kế hoạch khả thi tốt nhất, nhưng là kế hoạch hay ho nhất mà bọn tôi có thể nghĩ ra khi xem xét đến hoàn cảnh lúc ấy.
Một phần trong vụ này mà cả hai bọn tôi cùng không thích đó là việc sẽ phải tổ chức ra một đội tìm kiếm, bọn tôi sẽ phải giả vờ giả vịt hùa theo trong khi tiền của và nhân lực bị phí phạm cho một cuộc tìm kiếm vô nghĩa. Nhưng vào thời khắc cuối cùng, ông trời lại mỉm cười với bọn tôi. Trước khi giờ công đầu tiên có thể bị hoang phí cho việc lùng sục trong rừng, người ta lại phát hiện ra thẻ tín dụng của Ed được sử dụng. Hơn nữa, máy quay giám sát cho thấy một cách rõ ràng Ed đã có mặt ở một cửa hàng thể thao trong vùng, mua dụng cụ cắm trại và săn bắn cũng như một lượng đạn dược khiến người ta phải trợn tròn mắt.
Đến mức này thì toàn bộ sự việc được cho là không giống với con người của Ed chút nào, nhưng các nhà chức trách chẳng có cách nào khác ngoài nhún vai và quy cho một cuộc khủng hoảng tuổi trung niên có thể đã xảy ra sớm. Suy cho cùng, chẳng có gì bất hợp pháp khi một người đàn ông trưởng thành đột nhiên quyết định tham gia vào một chuyến cắm trại hay săn bắn mở rộng cả.
Nhưng vài ngày trước, một kẻ vô danh đã gọi cho cảnh sát và xì ra rằng Ed là thủ phạm của hàng loạt các vụ giết người bằng cách chặt đầu đang diễn ra. Chẳng mấy chốc tất cả các lệnh lục soát được ban hành, và bằng chứng buộc tội đã được tìm thấy trong căn hộ của anh ta - đống quần áo dính máu.
Thế nhưng điều bí ẩn thực sự là Marcus đã thề lên thề xuống, thề ngang thề dọc rằng anh không phải người đã gọi điện chỉ điểm. Mà chắc chắn cũng chẳng phải tôi. Vậy kẻ quái đản nào biết được Ed là tên sát nhân cơ chứ? Và quan trọng hơn, liệu họ có biết rằng các nạn nhân đều là thây ma?
“Chuyện này thật khó khăn với Marcus”, tôi bảo Ben. “Anh ấy đã chơi với Ed cả đời rồi. Tôi chỉ hy vọng Ed đã thực sự biến mất thôi.” Tôi nhún vai mà chẳng cần phải giả vờ.
Ben quắc mắt. “Hứ, tôi chỉ muốn tóm được thằng đấy trước khi nó lại ra tay lần nữa.” Rồi anh ta lầm bầm chửi thề, “Tôi lăn đùng ngã ngửa ra khi biết nó ở ngay trước mũi bọn tôi suốt thời gian qua”.
Tôi không tin vào khả năng lên tiếng của mình nên chỉ nhăn mặt tỏ vẻ cảm thông khi cảm giác tội lỗi cuộn xoáy trong người. Tôi đã để Ed thoát. Và tôi không tin lắm vào chuyện anh ta biến mất lâu. Tuy đã dọa anh ta sợ chạy mất dép, nhưng tôi thấy khó tin vào khả năng Ed sẽ bỏ đi rồi định cư ở nơi khác, để lại hai “quái vật” như Marcus và tôi tự do bay nhảy.
Bất chấp cảm giác lưỡng lự trong lòng, tôi thấy mình nhìn sang phía con chó tìm xác chết cùng với người chủ đã được gọi đến để giúp định vị được nguồn gốc mùi xác chết. Người phụ nữ nhỏ nhắn vẫn đang ngồi trên bậc thềm dẫn vào văn phòng quản đốc, con chó kiên nhẫn nằm dưới chân. Một phần trong tôi muốn tránh nói chuyện với cô ấy bằng mọi giá, nhưng tôi biết đó là cách thức của đồ chết nhát. Và mặc dù đúng là một kẻ chết nhát cỡ bự, tôi lại đang cố gắng thay đổi bản thân. Hơn nữa, người phụ nữ này chắc chắn không đáng bị tôi hay bất kỳ ai khác xa lánh chỉ vì cô ấy là bạn gái của Ed, và tôi biết cô ấy cũng đang có một khoảng thời gian tồi tệ lắm rồi.
Ép mình phải nở nụ cười thân thiện, tôi đi thẳng đến chỗ Marianne. Mặt trời đã xuống đủ thấp để sơn một mảng bóng nham nhở trên sàn khi ánh nắng xuyên qua mấy ô cửa sổ vỡ đầy vệt bụi bẩn, khiến tôi phải che mắt khỏi luồng ánh nắng chói chang từ ngoài sông chiếu vào khi tiến đến gần.
Marianne ngẩng lên khi tôi bước tới, đôi mắt cảnh giác và u ám.
“Chào Marianne”, tôi nói, rồi quay sang gãi đầu con chó, “Chào Kudzu!”. Con chó ném cho tôi ánh mắt hẳn là bối rối. Kudzu là chó tìm xác chết, và tôi có cảm giác mình làm cho nó rối tung cả lên. Tôi có mùi chết chóc, nhưng tôi vẫn đi lại bình thường.
“Chào Angel”, cô gái tóc đen chào lại, vẻ cảnh giác thoáng dịu đi.
“Tình hình cô thế nào?”
“Chả ra gì”, Marianne mỉm cười run rẩy. “Nhưng ít ra có vẻ như người ta thẩm vấn tôi xong rồi.”
Tôi nhăn mặt cảm thông. “Ừ, Marcus cũng bị giống thế.” Cũng là hợp lý thôi, ngay lúc Ed bị liệt vào danh mục kẻ tình nghi thì những người gần gũi nhất với anh ta sẽ bị nướng chín, đề phòng trường hợp họ có thể thêm thắt gì đó cho công cuộc điều tra và lùng tìm anh ta. Tôi chỉ có thể hình dung ra rằng với Marianne chuyện đó thậm chí còn khắc nghiệt hơn, vì chắc chắn họ phải thắc mắc liệu cô ấy có dính dáng theo cách nào đó hay không. Nhưng rõ ràng cô ấy đã bị yêu cầu thử qua máy phát hiện nói dối và phân tích giọng hay cái quỷ gì đó mà ngày nay người ta vẫn dùng để chứng minh mình vô tội, và hẳn là đã có đủ bằng chứng để xóa bỏ mọi mối nghi ngờ đối với cô ấy.
Theo cá nhân mà nói, tôi nhẹ cả người vì có vẻ như cô ấy không dính dáng gì. Tuy không thấu hiểu Marianne cho lắm, nhưng từ những gì tôi thấy, có vẻ cô ấy là một người tử tế thật lòng. Bị Ed chơi cho một vố đã là đủ tệ hại rồi. Nếu Marianne hóa ra cũng là một kẻ tiêu diệt thây ma thì tôi thực sự phát rồ lên mất.
Một tiếng xoảng lớn làm cả hai người bọn tôi nhảy dựng lên. Tôi xoay người lại, thấy hội thợ đã bóc toàn bộ một khu vực sàn ra và quăng sang bên. “Đến lúc tôi phải quay lại làm việc rồi”, tôi nói, rồi trong cơn bốc đồng tôi chồm tới và ôm chầm lấy Marianne. “Chịu khó nhé. Mọi chuyện sẽ sớm ổn cả thôi.”
Ban đầu Marianne có vẻ sốc, nhưng rồi cô ấy thả lỏng và ôm lấy tôi. Khi tôi buông tay ra, cô ấy mỉm cười vẻ biết ơn. “Cảm ơn Angel. Có lẽ lúc nào đó chúng ta có thể đi ăn trưa hay gì đó...?”
“Nghe hay đấy”, tôi trả lời, chỉ dối trá tí ti. Tôi sẽ cảm thấy dễ chịu hơn nhiều nếu lang thang với cô ấy khi biết chắc Ed sẽ không ẩn nấp đâu đó gần đây.
So hai vai lại, tôi quay về giúp đưa xác chết ra khỏi chỗ đổ nát. Ít ra tôi còn có cái dạ dày thép huyền thoại để cổ vũ tinh thần.