Đ
ến lúc bọn tôi bóc tách được cái xác ra và cho vào trong túi đựng, mặt trời chiều tà đã đang bận rộn sơn lên đường chân trời những sắc màu cam và vàng rực rỡ chói lọi, đồng thời cũng khiến cho người ta khó nhìn đường lái xe bỏ xừ. Khi tôi càng về đến gần Tucker Point, những bảng hiệu bầu cử càng xuất hiện thường xuyên hơn - tất cả mọi thứ từ bầu chọn ban giám hiệu trường cho đến thượng nghị sĩ bang, bao gồm cả mấy bảng hiệu dành cho viện trưởng Viện Kiểm thi của giáo xứ, bác sĩ Duplessis - chính là sếp của tôi.
Cũng còn mấy tháng nữa mới đến thời điểm bầu cử, nhưng chính trị là môn thể thao thu hút khán giả ở Louisiana, và có một số ứng viên đã bắt đầu vận động từ trước cả khi việc tuyển chọn khai cuộc. Tôi nghe người ta đồn là có thể viện trưởng sẽ phải thực sự đương đầu với chút ít cạnh tranh trong cuộc bầu cử sắp tới. Nhưng ngay cả khi khả năng xuất hiện người có thể gây ra nỗi đe dọa thực sự đối với bác sĩ Duplessis là rất ít, ông ta cũng sẽ chẳng mạo hiểm tí tẹo nào.
Tôi nghe tiếng điện thoại báo tin nhắn đến, nhưng vẫn chờ đến khi đánh xe vào bãi đỗ của một siêu thị XpressMart rồi mới lôi ra đọc. Tôi không lo sẽ chết vì tai nạn giao thông, nhưng chắc cú là tôi chẳng muốn gây ra điều đó cho bất kỳ ai khác.
Trong mấy tháng vừa rồi, bản thân tôi đã nuôi dưỡng một sự trân trọng cao hơn nhiều dành cho giá trị cuộc sống.
Tin nhắn là của Derrel. Đồ xấu xa thì đừng mơ nghỉ ngơi nhé. Vừa nhận điện thoại có người chết nữa - tai nạn ở trung tâm thí nghiệm NuQuesCor. Gặp ở cổng trước.
Chậc, đây chẳng phải lần đầu tôi đi thẳng từ hiện trường chết người này sang hiện trường chết người khác. Kinh nghiệm cho thấy tôi có thể xếp vừa bốn cái xác sau thùng xe tải, mặc dù cảnh tượng đó chẳng đẹp đẽ cho lắm. Tôi trả lời “OK”, rồi lấy máy định vị ra khỏi bảng điều khiển và nhập địa chỉ Derrel gửi vào. Cơn đói lại thúc giục tôi, nhưng tôi khá chắc đó là cơn đói thức ăn thật. Ít nhất một phần là thế, và thỏa mãn cái phần đói ấy sẽ níu chân được cơn đói não - ít nhất là trong vài giờ.
Cái trò “kiểm soát thôi thúc” này nghe thế thôi chứ chẳng dễ chút nào.
Tôi tắt máy xe và nhanh chóng vào trong cửa hàng tiện dụng. Cô nàng sau quầy khoảng chừng tuổi tôi, chắc hai mươi ba là hết cốt, da trắng xanh, tóc thì trông như kiểu hậu quả của việc thiếu hụt dầu gội trầm trọng. Cô ta ngẩng lên khi tôi bước vào, ném cho tôi cái nhìn trống vắng trước khi quay trở lại chú ý vào điện thoại. Một cơn sóng cảm thông thoáng ùa qua tôi. Bản thân tôi đã phải làm những công việc chết tiệt ấy quá nhiều rồi. Và mặc dù nhiều người sẽ không thấy rằng công việc hiện tại của tôi là một bước tiến thì tôi cũng biết rằng chẳng có sự so sánh nào ở đây.
Tôi nhanh chóng chọn bim bim với một lon cô ca, mỉm cười thân thiện hết cỡ trong khi thanh toán, thầm giục cô ta nhanh cái tay lên hộ với, và vì Chúa tôi đã từng thấy mấy con thú bị xe cán di chuyển còn nhanh hơn thế nhiều. Cuối cùng cô ta cũng xoay xở lôi ra được thứ gì đó giống như tiền trả lại, đưa cho tôi với ánh mắt đờ đẫn và quai hàm xệ xuống y hệt như từ lúc tôi bước vào đây đến giờ.
Hồi ấy trông mình có thế không nhỉ? Tôi thoáng tự hỏi. Có thể lắm, tôi vừa buồn cười vừa nhét số xu lẻ vào trong túi và vội rời khỏi cửa hàng. Có cả tỉ lần tôi đến chỗ làm trong tình trạng phê như con tê tê ấy chứ.
Tôi cúi gằm mặt, lơ đãng đến nỗi suýt nữa thì tông sầm vào ai đó đang bước vào cửa hàng.
“Ối đệch, xin lỗi!”, tôi kêu lên. “Angel à?”
Khi cánh cửa sập lại sau lưng, tôi chớp mắt nhìn kỹ người mà mình vừa tông phải. Người Latin, không cao hơn tôi nhiều và có hơi chắc nịch. Lúc đầu tôi không nhận ra ông ta, cho đến khi thấy ông ta đang mặc sắc phục. Quần kaki, ủng đen, áo sơ mi tím than với huy hiệu có hình dáng bang Louisiana với chữ “Đặc vụ” và “Thử thách và Giảm án”...
Đệch. Đây là sĩ quan quản thúc của tôi.
Gần hai năm trước, khi còn chìm đắm trong giai đoạn “Angel là đồ ngu chẳng có óc phán xét” - một giai đoạn đã kéo dài gần hết cuộc đời, tôi đã mắc sai lầm là tin tưởng gã bạn trai hồi ấy và tin rằng chẳng có gì khuất tất với chiếc Prius gần như mới toanh mà anh ta tìm được cho tôi chỉ với năm trăm đô. Hai tuần sau tôi bị chặn đường bắt tại chỗ vì tội sở hữu tài sản ăn cắp, rồi trải qua ba ngày hãi hùng trong tù trước khi được bảo lãnh ra. Cuối cùng tôi bị kết án ba năm quản chế.
Tôi cố nặn ra nụ cười run rẩy và ôm đống bim bim cùng lon cô ca vào ngực như cái khiên. “Ơ, à. Chào sếp Garza. Ông khỏe chứ?”
“Tôi ổn cả”, ông ta nói. Ánh mắt ông ta rà soát khắp người tôi, dừng lại ở cái huy hiệu trên áo. “Vẫn còn làm ở Viện Kiểm thi đấy nhỉ?”
Trong một giây tôi không thể hình dung ra làm thế quái nào ông ta lại biết tôi đang làm việc ở đó. Tôi là người phạm tội với mức độ nguy hiểm nhẹ, có nghĩa là tôi chỉ phải gặp mặt ông ta sáu tháng một lần. Ừ, nhưng mình phải nộp mấy cái mẫu đơn ngớ ngẩn kia, tôi nhắc nhở bản thân. Hằng tháng, cùng với một tờ séc sáu mươi lăm đô, tôi phải liệt kê toàn bộ các tình tiết về điều kiện sống, tình trạng làm việc và bất kỳ sự vụ rắc rối nào có thể ảnh hưởng đến tình trạng quản chế đối với tôi.
“Vâng, vẫn làm ở đó”, tôi trả lời. “Hai tháng rồi.”
“Với cô cũng là kỷ lục đấy nhỉ” ông ta nói, miệng cong lên nhưng trông chả có vẻ gì là hài hước cả.
Tôi chống lại thôi thúc muốn so hai vai hay bồn chồn lê chân, rồi có lẽ hơi có chút tự vệ, tôi nói, “Giờ tôi khá hơn nhiều rồi”.
“Tôi có thấy”, ông ta nói. “Thực sự mừng vì điều đó.” Trông ông ta chẳng vui gì lắm. Nhưng dù sao đi nữa, tôi không chắc mình đã từng thấy ông ta cười bao giờ hay chưa.
Tôi ném ánh mắt về phía chiếc xe tải. Tôi cần phải lên đường, nhưng lại không thể chơi trò tống khứ sĩ quan quản thúc của mình đi. “Ừm, cảm ơn. Tôi, ừm...”
“Việc học hành thế nào rồi?”, ông ta hỏi, cắt ngang tôi. Phản ứng của tôi là ngu ngốc chớp mắt. “Hả?”
“Khóa GED ấy”, ông ta nói. “Một trong những điều kiện trong chương trình quản chế của cô, nhớ không?”
“Ồ, phải rồi!”, tôi nói, dán cứng nụ cười lên mặt. “Chắc chắn rồi. Mọi chuyện thuận lợi cả. Tôi, ơ, chỉ một hai tháng nữa là tôi tham gia khóa học ấy rồi. Không vấn đề gì cả.” Tôi giữ nụ cười đông cứng trên mặt trong khi bên trong thì rúm ró. Đệch! Tôi hoàn toàn quên béng mất chi tiết nhỏ nhặt ấy. Vì tôi vẫn là một học sinh cấp ba bỏ học, nên một trong những điều kiện trong chương trình quản chế của tôi là phải lấy được chứng chỉ GED - bằng trung học bổ túc, thứ có thể được coi là thay thế cho bằng tốt nghiệp trung học.
Hẳn Garza đoán được là tôi đang nói nhăng nói cuội với ông ta mà thôi. “Cô có thời gian không?”, ông ta hỏi. “Có vài thứ tôi muốn thảo luận với cô.”
“Tôi không thể”, tôi thực lòng thở dốc. “Xin lỗi. Tôi đang trong ca trực, và tôi vừa mới nhận tin nhắn phải đi nhận xác.” Tôi mò mẫm lôi điện thoại ra và vẫy vẫy làm bằng chứng.
Ông ta bĩu môi, nhưng vẫn gật đầu. “Được thôi. Nhưng đừng quên, theo kế hoạch thì tuần tới chúng ta gặp mặt đấy.” Ông ta lôi điện thoại ra và kéo lên vài trang màn hình. “Thứ Tư. Chín giờ sáng.”
“Tôi sẽ có mặt”, tôi đảm bảo, mỉm cười theo cái kiểu mà tôi hy vọng là phong thái tự tin mặc dù tôi có cảm giác trông mình giống điên loạn hơn.
“Tốt. Đừng quên đấy”, ông ta nói. “Có mấy vấn đề quan trọng chúng ta cần thảo luận.”
“Tôi không quên đâu”, tôi hứa. “Giờ tôi phải đi rồi!” Nói rồi tôi lỉnh đi trước khi ông ta có thể nói thêm gì và trên thực tế là lao thẳng ra xe. Tôi có cảm giác ông ta nhìn theo khi tôi đánh xe ra khỏi đó, nhưng tôi lại quá chết nhát nên chẳng dám quay lại ngó thử xem sao.
Hoành chưa? Sĩ quan quản thúc có “những vấn đề quan trọng” cần thảo luận với tôi. Chẳng có cách khỉ gió nào để nghĩ đây lại là chuyện tốt lành được cả.
Còn chứng chỉ GED nữa...? Tôi vừa rên vừa đi theo chỉ dẫn của hệ thống dẫn đường. Dĩ nhiên, lúc quan tòa liệt kê ra các điều kiện, tôi đã rất trách nhiệm lắng nghe. Nhưng vào thời điểm ấy, ba năm dường như là một thời gian dài kinh dị, đến nỗi tôi chẳng cảm thấy có tí vội vã nào phải bắt tay vào việc ấy.
Và quan trọng hơn, có một phần nhỏ xíu trong tôi cảm thấy chuyện đó chẳng quan trọng. Trong vòng ba năm tôi sẽ nghẻo, hoặc bị bắt lần nữa, hoặc gặp chuyện gì đó mang tính tự hủy hoại tương tự. Chắc chắn khi ấy tôi không hề nghĩ đến bất kỳ thể loại tương lai nào.
Nhưng, tôi nhận ra với một cảm giác hơi sốc, đã gần một năm rưỡi kể từ vụ bắt giam ấy rồi. Và giờ tôi phải học hành tất cả những thứ rác rưởi ở trường trung học mà hồi còn đi học tôi chả buồn để mắt đến.
Mình toi hẳn rồi.
Có lẽ chuyến đi đến NuQuesCor có đôi chút ngoằn ngoèo lại là điều hay ho, vì tôi buộc phải để tâm chú ý đến hệ thống định vị, và nó giúp tôi gạt bỏ vấn đề thiếu thốn học hành ra khỏi đầu.
Trung tâm thí nghiệm nọ hóa ra không hẳn nằm ở nơi khỉ ho cò gáy, nhưng chắc chắn là cách xa khỏi bất kỳ thứ gì mà bất kỳ ai thèm quan tâm đến. Trời đã tối mù lúc tôi dừng xe trước tòa nhà, và cách duy nhất để tôi có thể chắc chắn mình đã đến đúng nơi cần đến là nhờ có một cụm nhỏ xe cấp cứu đỗ ở gần lối vào phía trước. Một con Dodge Durango màu đen đang đỗ cạnh một chiếc xe cảnh sát ngầm, và tôi thấy Derrel đang tựa người vào phía trước mui xe. Khi tôi trèo ra khỏi xe tải, anh ấy hơi hất cằm chào, rồi đẩy người ra khỏi con Durango và đi về phía tôi.
“Xin lỗi vì lâu thế em mới đến”, tôi vừa nói vừa lôi cáng ra khỏi thùng xe.
“Không sao”, Derrel nói. “Đội kỹ thuật hiện trường vẫn còn đang chụp ảnh. Anh nghĩ phải gặp cô ở ngoài này vì đến được chỗ xác chết có đôi chút phức tạp. Cô đã bao giờ đến đây chưa?”
Tôi nhìn lướt qua bề ngoài màu trắng xấu xí, đến giờ mới thấy một bảng hiệu không có đèn cho biết nơi này là NuQuesCor. Ngoài ra nơi này trông giống một tòa nhà gạch cỡ lớn. Mấy ô cửa sổ hẹp ở chỗ này chỗ kia làm xấu cả bề mặt tòa nhà, trông lạc quẻ và khá là thảm hại.
“Trước ngày hôm nay em thậm chí còn chẳng biết có chỗ này tồn tại nữa cơ”, tôi thừa nhận.
Mắt Derrel nheo lại. “Bọn họ là một trong số giới chủ công nghệ hàng đầu ở khu vực này của Louisiana đấy.”
Tôi khịt mũi. “Thưa anh, đến tận vài tháng trước thì nguyện vọng nghề nghiệp lớn nhất của em vẫn chỉ là thoát khỏi ca làm đêm ở siêu thị XpressMart thôi.”
Derrel cười khùng khục. “Chậc, cũng có thể nói rằng NuQuesCor là hãng công nghệ duy nhất có chút tiếng tăm ở khu vực này của Louisiana.”
“Thêm lần nữa nhé”, tôi nói, “Thánh lương tối thiểu ở đây”.
“Không còn vậy nữa”, Derrel nói.
“Không còn vậy nữa”, tôi đồng ý, phần nào ngạc nhiên vì độ chắc chắn trong mình về điều đó.
“Được rồi”, Derrel nói. “Làm việc thôi. À, cô sẽ cần đến phù hiệu và thẻ nhân viên đấy.”
“Phù hiệu á...?” Nhăn mặt, tôi quay lại chỗ chiếc xe và mất vài giây khá điên cuồng khi xới tung đống đồ đạc của mình. Nhẹ cả người vì cái phù hiệu tôi cần vẫn nằm dưới đáy túi xách, nơi tôi quăng vào ngay từ lúc nó mới được phát cho tôi, cùng với thẻ nhân viên Viện Kiểm thi. Tôi cầm lấy cả hai, rồi tiếp tục vớ thêm mấy đôi găng tay và nhét vào trong túi quần.
Derrel kẹp phù hiệu ở phía trước thắt lưng. Tôi liền nhanh chóng bắt chước. Anh ấy nở nụ cười tán thành, rồi bọn tôi cùng nhau đi về phía lối vào cùng với cáng và túi đựng xác chết.
Phía bên trong tòa nhà trông ấn tượng hơn rất nhiều. Cửa kính đôi mở ra một sảnh lớn hai tầng trông giống khu dẫn vào khách sạn hơn là một trung tâm thí nghiệm. Những thanh kim loại láng bóng bao phủ mấy bức tường, còn sàn nhà là đá hoa cương màu xám điểm đốm đen. Hẳn sang bên trái là ghế sa lông và bàn uống nước cùng với một bức điêu khắc nằm lù lù bên trên khu vực uống trà, nặn thứ gì đó mà tôi nghĩ có lẽ là mấy con chim đang bỏ chạy. Một khu kiểu như đường dành cho người đi bộ nhìn từ trên cao xuống khu sảnh, với một cầu thang uốn vòng và thang máy nằm hẳn về phía bên phải. Chính giữa sảnh là một chiếc bàn tròn, nhưng thay vì một người giữ cửa thì chỗ này lại được chiếm đóng bởi một nhân viên an ninh quăng cho cả hai đứa tôi ánh mắt trừng trừng đanh thép khi bọn tôi tiến đến gần.
Tôi bị yêu cầu xuất trình cả phù hiệu lẫn thẻ nhân viên, rồi sau đó cả hai thứ ấy đều bị kiểm tra kỹ lưỡng và cẩn thận như kiểu người ta kiểm tra dò xét một kẻ gây gổ trong khu trường đại học. Nhân nhắc đến chuyện đó, bản thân tay nhân viên an ninh trông như kiểu hoàn toàn có thể trở thành một kẻ gây gổ - to lớn, bè bè. Cổ bè bè, vai bè bè, cánh tay bè bè. Ngay cả mũi của gã cũng bè bè.
May là thẻ nhân viên của tôi trông đủ tin cậy, và tôi được phép tiếp tục đi về phía cái cửa ở đầu bên kia sảnh, chỗ này lại bị một tay nhân viên an ninh khác chiếm đóng và yêu cầu bọn tôi phải ký lên một tập hồ sơ. Tôi nén cười khi thấy chữ ký gọn gàng của cảnh sát Marcus Ivanov ở tít phía trên trang giấy. Tối nay anh cũng bận rộn rồi.
Cuối cùng bọn tôi được cho qua cửa và bước vào một khu hành lang trắng lạnh lẽo có rất nhiều ô cửa đóng kín. Ở đây không có đá hoa cương, chỉ là gạch lát nền công nghiệp thông thường khiến giày của tôi kêu lộp cộp. Tôi cảm nhận được tiếng máy móc kêu ro ro và nghe được tiếng bíp thi thoảng vang lên từ phía xa. Tất cả mấy ô cửa đều có đánh số, nhưng chẳng có bảng hiệu hay nhãn cho biết thứ gì ở đằng sau mấy cánh cửa ấy. Tôi cũng nhận thấy rằng trừ một số cửa, còn lại tất cả đều có ổ khóa đặc biệt cần phải mở bằng khóa số hay thẻ từ.
“Toàn bộ cái trò an ninh này là sao đấy?”, tôi thì thào hỏi Derrel. “Đây là tòa nhà chính phủ à?”
“Không còn là thế nữa”, anh ấy trả lời, giọng cũng hạ xuống. “Khoảng hai thập kỷ trước, nơi này từng là một trung tâm vi tính của NASA, nhưng khoảng năm năm trước, NuQuesCor tiếp quản tòa nhà này. Bọn họ là tư nhân, nhưng có thực hiện vài hợp đồng với chính phủ. Từ những gì anh thu thập được thì hầu hết họ làm về khoa học dinh dưỡng, dinh dưỡng thể thao, vitamin và những thứ kiểu ấy. Nhưng dù không còn thuộc về NASA nữa, bọn họ chắc vẫn có một phần đáng kể lượng thông tin độc quyền mà NASA muốn bảo vệ. Thế nên vấn đề an ninh là vì vậy.”
“Nói cách khác, họ e sợ gián điệp công nghiệp, kiểu như vậy?”
“Chính xác.”
Tôi ném cho Derrel ánh mắt nghi ngờ. “Gián điệp công nghiệp thì có thể muốn gì ở một trung tâm thí nghiệm về khoa học dinh dưỡng cơ chứ?”
“Chậc, chắc là bọn họ nghĩ ra loại đồ ăn ít béo, ít đường mà mùi vị không như rác hến”, Derrel nói. “Họ không muốn người khác lẻn vào đánh cắp bí quyết trước khi có thể đăng ký bản quyền, đúng không nào?”
“À, đã hiểu. Tất cả đều là vì tiền bạc.”
Derrel khẽ khịt mũi. “Lúc nào chả thế.”
Đột nhiên bọn tôi bước vào một khu vực hai tầng khác có vẻ như là nhà ăn. Theo phán đoán của tôi, nơi này nằm chính giữa tòa nhà căn cứ từ các lối vào từ bốn phía. Cũng chẳng có cảm giác “sảnh khách sạn” ở nơi này. Nó như kiểu thiết kế trắng đơn giản thì đúng hơn. Tường, trần, ngay cả cầu thang bên phải và trái cũng đều màu trắng. Độ lệch về tổng thể màu sắc duy nhất là ở số bàn ghế, tất cả đều làm từ thứ trông giống như nhôm sản xuất máy bay ấy.
Dây hiện trường màu vàng đã được căng ngang trên từng lối vào, và tôi thấy nhiều người đứng xem đang ghé mắt nhìn về phía cầu thang bên tay trái. Ở đó, nằm gục dưới chân cầu thang là xác chết.
Tôi đoán ông ta khoảng trên dưới sáu mươi tuổi. Tóc bạc cắt ngắn, gương mặt nghe chừng cứng tuổi và nhăn nheo. Ông ta mặc đồng phục xanh sẫm trông giống như đồng phục của mấy nhân viên an ninh khác, mặc dù tôi thấy ông ta bị thiếu mất một chiếc giày. Một dòng máu rỉ ra từ tai ông ta, mà theo những gì tôi học được thì thế có nghĩa là đầu bị chấn thương nặng. Nhưng suy luận ra điều đó cũng dễ thôi, vì còn một vũng máu khác dưới đầu ông ta. Từ những gì ít ỏi mà tôi có thể khẳng định, có vẻ như người đàn ông này đã ngã cầu thang, rơi xuống dưới sàn với lực đủ làm vỡ sọ.
Chào cưng. Tên tôi là Angel, tôi thầm nói. Chắc là tôi sẽ sớm xơi bộ não của ông thôi. Hy vọng là ông không thấy phiền.
Tôi kìm tiếng cười khúc khích và vật lộn duy trì được vẻ mặt nghiêm trang tử tế. Tôi không phải là con nhóc thông minh nhất trên đời, nhưng ngay cả tôi cũng biết rằng cười hô hố ở một hiện trường người chết chẳng phải là chuyện hay ho gì lắm.
Trong mấy tháng làm việc ở Viện Kiểm thi của giáo xứ St. Edwards, chắc tôi đã có mặt ở hơn trăm hiện trường người chết. Có trường hợp bi thảm và đau đớn thảm thương - là bất cứ thứ gì liên quan đến trẻ con; một số khác thực sự quái dị - như vụ một gã chết vì nghẹn đồ chơi tình dục; nhưng phần lớn các trường hợp chỉ thuộc về danh mục “ái chà, lại một người nữa chết và mình phải đi hốt xác thôi”.
Không phải tôi đã bội thực hay gì. Ít nhất tôi vẫn tự bảo mình như thế. Nhưng cách nhìn của tôi đối với cái chết nhất định đã tiến xa hơn nhiều so với cái hồi tôi còn là một con nhóc bựa thối. Ý tôi là, tất nhiên tôi vẫn là một con nhóc, nhưng tôi không còn bựa thối nữa. Chậc, không bựa thối bằng. Hay đúng hơn, tôi bựa thối theo một kiểu khác.
Hiện trường người chết này trông có vẻ như là một vụ thông thường. Cho đến lúc này, theo như tôi có thể thấy thì không có trẻ con, không đồ chơi tình dục, không có gì điên rồ cuồng loạn.
Một người đàn ông tóc đỏ cao gầy mặc áo khoác có chữ SEPSO Crime Scene in sau lưng cười với bọn tôi. “Gần xong xuôi rồi đây”, anh ta nói, tay nhấc camera lên.
“Không có gì vội đâu, Sean”, Derrel trả lời trước khi quay sang tôi. “Anh sẽ đi nói chuyện với trưởng ban an ninh và xem có thể lấy được thông tin cá nhân của người này không.”
“Cứ tự nhiên”, tôi nói. Derrel nháy mắt rồi mỉm cười trước khi bỏ rơi tôi và đi thẳng về phía một người đàn ông nghiêm nghị với cái bộ đàm trên tay, trông tuyệt đối giống trưởng ban an ninh. Bố khỉ, thực ra trông gã giống một đặc vụ tình báo hơn.
Gã mặc com lê đen cùng sơ mi trắng, với một chiếc cà vạt xám thắt chặt có đôi chút buồn tẻ và hoa văn chẳng ấn tượng gì. Mái tóc nâu sẫm cua ngắn cũn đủ tiêu chuẩn quân đội, và trời ạ, nếu quai hàm của gã mà còn vuông vức hơn tí nữa thì hẳn người ta có thể dùng nó thay cho gạch. Tất cả những gì gã còn thiếu là một thứ đeo tai nho nhỏ với đống dây ngoằn ngoèo mà trong phim ảnh tôi thấy hội tình báo vẫn hay đeo. Gã đang say sưa nói chuyện với một phụ nữ mảnh dẻ có mái tóc nâu đỏ thấp hơn gã khoảng chục phân.
Nếu gã trưởng ban an ninh ăn mặc giống quân tình báo thì người phụ nữ này lại phục sức giống như một nữ nghị sĩ bảo thủ - vest nâu sẫm và chân váy vừa vặn, áo cánh màu kem cùng đôi giày cao gót đồng màu, tất cả nằm vừa đủ trong khoảng chiều cao “Đừng có đùa với bà!”.
Người phụ nữ bỏ đi trước khi Derrel đến chỗ họ. Tôi nhìn Derrel nói chuyện với gã an ninh, rồi cả hai bọn họ cùng bỏ đi mất hút theo một đường hành lang khác. Tôi đoán là đi lấy hồ sơ cá nhân của người chết.
Thế có nghĩa là tôi tự do lêu lổng cho đến khi Derrel quay lại. Tôi thả lỏng tựa người vào tường và nhìn quanh những hoạt động hối hả đang diễn ra. Thám tử Abadie và Roth đang tụ đầu vào nhau, có vẻ như đang bàn luận hăng say nghiêm túc lắm, mặc dù theo những gì tôi biết về họ, có khi câu chuyện liên quan đến việc giành được vé xem đội Saints thi đấu nhiều hơn là dính dáng đến xác chết.
Một nhóm sáu hay bảy người đứng trong hành lang ở bên kia căn phòng, bị ngăn lại bởi sợi dây hiện trường màu vàng mỏng manh căng ngang lối vào. Tôi đoán bọn họ là các nhân viên đã ở lại muộn. Một số người mặc áo choàng trắng, và tất cả đều có thẻ tên kẹp vào đâu đó dễ thấy. Hầu hết trông có vẻ lo ngại hoặc đơn giản là tò mò, nhưng một số lại trông cáu kỉnh và sốt ruột.
Người phụ nữ vừa rồi nói chuyện với trưởng ban an ninh lúc này lại đang nói chuyện với ai đó qua điện thoại di động. Trông bà ta vô cùng điên tiết. Có lẽ toàn bộ sự vụ này đang làm gián đoạn một dự án siêu quan trọng nào đó chăng? Cái kiểu thái độ đó thực sự không còn làm tôi ngạc nhiên được nữa. Tôi chẳng còn buồn đếm số lần mình phóng lên đường cao tốc để nhận xác nạn nhân của một vụ tai nạn chết người và rồi chứng kiến một tay tài xế nổi xung nào đó đang gào rú về chuyện tắc đường trong khi bọn tôi đang làm việc. Một số kẻ chỉ là thứ rác rưởi vô cảm, và chỉ thế thôi.
Thế nhưng, có thể bà ta đang cãi nhau với chồng hay người yêu, tôi tự nhủ. Hay có thể túi xách của bà ta bị lấy cắp, và bà ta đang gọi điện để khóa thẻ tín dụng. Đôi khi người ta không thực sự là đống rác rưởi vô cảm mà chỉ đơn giản gặp phải một ngày tồi tệ. Thấy chưa, tôi đang cố cởi mở tấm lòng và thấu hiểu cơ đấy.
Tôi nhìn quanh tìm Marcus và thấy anh ở gần hành lang, phía đối diện với nơi mà Derrel và tôi đã bước vào, đang nói chuyện với một phụ nữ tóc vàng cao ráo, thanh mảnh khoác áo phòng thí nghiệm. Tôi cảm thấy mình cau mày khi nhìn bọn họ. Đây tuyệt đối không đơn giản là anh đang nói chuyện với một nhân chứng khả dĩ, với cái kiểu đứng gần hay kiểu cô ta thoải mái chạm vào tay anh thì không. Có điều, trông cô ta vô cùng lo lắng, và cứ liên tục liếc về phía cái xác.
Tôi chẳng có nhiều thời gian thắc mắc về chuyện đó trước khi Derrel quay trở lại từ cuộc viễn chinh thu thập tin tức cùng với tay trưởng ban an ninh. Cũng ngay lúc ấy, tay kỹ thuật viên hiện trường lùi khỏi cái xác và khẽ vẫy tay cho Derrel và tôi biết anh ta đã sẵn sàng để bọn tôi làm phần việc của mình. Không ai khác được phép chạm vào xác chết ngoại trừ người của Viện Kiểm thi, nhưng bọn tôi phải chờ cho đến khi các bồ tèo bên kỹ thuật hiện trường hoàn tất hết các công việc của họ, có nghĩa là thường sẽ phải có chút hợp tác với nhau khi xử lý các hiện trường chết người.
Derrel và tôi lúc này mới bước tới trước rồi cẩn thận lăn nạn nhân lại để Sean có thể chụp ảnh phần bên kia thi thể cũng như phần sàn nhà bên dưới nạn nhân. Chiếc áo đồng phục màu xám của người chết đã được mở cúc trước và những mẩu giấy dán rải rác trên ngực, rơi rớt lại từ đội EMT1 - ngoại lệ duy nhất được phép chạm vào tử thi, vì về mặt lý thuyết mà nói thì đây chưa được gọi là “tử thi” cho đến khi được tuyên bố là đã chết sau khi đội EMT chạy điện tâm đồ.
1 Kỹ thuật viên cấp cứu.
Đội ấy đã đến và đã đi, chuyện thường xảy ra đối với các hiện trường người chết. Ngay cả khi đã mở cúc thì cái áo trông vẫn quá khổ với nạn nhân, còn quần thì dúm lại một đống bên dưới thắt lưng. Hẳn là gần đây ông ta phải sụt cân ghê lắm. Có thể ông ta bị bệnh? Giờ thì chuyện đó cũng chẳng còn quan trọng nữa.
“Chắc chắn là một vụ vỡ sọ nghiêm trọng”, Derrel vừa nói vừa đưa mấy ngón tay đeo găng lần theo đầu nạn nhân. Các mảnh vỡ di chuyển bên dưới da dầu theo cái kiểu bất thường khi anh ấy thận trọng ấn vào các vết thương. Derrel ngẩng lên nhìn cầu thang, miệng hơi khẽ mím lại. “Chắc ông ta bị trượt chân? Thế nào đó mà ông ta lao xuống và đập đầu rất mạnh. Tôi chả thấy máu me ở chỗ nào khác trên cầu thang.” Anh ấy nhìn lên tay kỹ thuật viên chờ xác nhận.
“Tôi cũng thế”, Sean nói, “nhưng dù sao tôi cũng chụp cả đống ảnh. Một nhân viên làm việc muộn ở đây đi ngang qua căn phòng này ngay khi nạn nhân rơi xuống. Người đó gọi 911 ngay lập tức, nhưng...”. Anh ta nhún vai.
“Nhưng có lẽ người đàn ông này đã chết chỉ trong vài giây”, Derrel lẩm bẩm.
Sean chụp kiểu ảnh cuối cùng ở đầu người chết rồi lùi lại. “Tôi xong việc rồi. Cảm ơn tất cả.”
Derrel nhìn tôi gật đầu, thế là tôi bắt tay vào trải túi đựng xác ra nền bê tông. Trông người đàn ông này có lẽ phải nặng khoảng gần tám mươi cân - lúc mà tôi “no đủ” thì thừa sức xử lý mức này, nhưng từ lần cuối cùng tôi nạp não đến giờ cũng đã ngày rưỡi rồi, sức lực trong người cũng xêm xêm như một đứa cỡ người như tôi thôi. Nói cách khác là hoàn toàn yếu xìu.
Thật may, Derrel sẵn lòng giúp đỡ tôi mà chả cần phải lên tiếng nhờ. Anh ấy túm lấy bả vai nạn nhân, tôi thì nắm lấy hai đầu gối, và bọn tôi cùng nhau đưa người đó vào túi mà chẳng cần mấy nhặng xị. Một vệt máu rớt lại trên sàn gạch, tôi thấy nó thấm xuống lớp vữa trát, tạo thành một vết bẩn. Lau được chỗ ấy đi cũng trầy trật cho xem.
Derrel nghiêng tập hồ sơ về phía tôi để tôi có thể tóm gọn thông tin của người chết lên thẻ đeo chân - Norman Kearny, sáu mươi ba tuổi - và rồi tôi quấn dải cao su quanh ngón chân cái lúc này đã bị mất giày.
Tôi lục nhanh người ông ta tìm vật dụng có giá trị và chỉ tìm thấy một chiếc đồng hồ đeo tay; không ví hay trang sức gì. Sau khi tháo đồng hồ ra và thả vào trong một cái túi đựng vật dụng, tôi nhặt lại chiếc giày ngang ngạnh phía bên dưới cầu thang và cũng nhét luôn vào túi đựng xác. Chuyện này có thể ngớ ngẩn, nhưng tôi có cảm giác là nếu đôi giày bị chia cắt thì nó sẽ chẳng bao giờ được ghép đôi lại nữa, và nó sẽ phải chịu đựng số phận bi đát là cả đời một mình lang thang trên thế gian.
Tôi đang định kéo khóa túi đựng thì dừng lại. Lúc này tôi cũng tương đối đói não. Tôi không đói đến cồn cào hay gì, và tôi cũng chưa đến mức độ bắt đầu bốc mùi hay là da bị tróc ra, nhưng cái mũi bắt mùi não của tôi thì càng đói lại càng thính hơn. Và với việc người đàn ông này bị vỡ sọ, lẽ ra tôi phải ngửi thấy mùi não khá rõ mới đúng. Bố khỉ, dạ dày lẽ ra phải gào thét với tôi đòi gỡ mấy mảnh sọ vỡ ra để vốc lấy một vốc và tống vào mồm ngay thời khắc này mới phải.
Nhưng với cái mũi của tôi mà nói, chẳng có chút hứng thú nào dành cho đầu của người đàn ông này cả. Thế có thể là chuyện tốt, tôi kết luận, vì đối xử với đầu của ông ta như với một tô ngô bung thì cũng khó mà trót lọt được.
Cố kìm không cười trước ý nghĩ đó, tôi kéo khóa đóng kín lại, rồi chuyển túi lên cáng và thắt dây chằng. Tôi cảm thấy có người xuất hiện bên cạnh, nhưng chẳng cần phải quay lại xem đó là ai.
“Em đói à?”, thám tử Ivanov rì rầm.
“Đói điên lên được”, tôi trả lời cũng rì rầm chẳng kém. “Đợt này bên nhà xác thất thu quá, nên em đang cố kéo dài khoảng cách các bữa ăn.” Môi tôi mím lại. “Mà chả hiểu sao đêm qua em lại còn tiêu tốn cả đống não nữa chứ.” Tôi ném cho anh ánh mắt đểu cáng, láu cá, nhưng rồi cau mày khi cảm giác lo lắng bất chợt tấn công. “Sao? Em bốc mùi à?”
Anh định lắc đầu, nhưng rồi lại nhún vai. “Chẳng có gì mà người khác nhận ra được đâu. Anh mới ăn sáng nay, nên có thể giác quan của anh hơi thính quá mức.”
Tôi khẽ thúc cùi chỏ vào sườn anh. “Không cần phịa chuyện đâu. Thây ma đực mà tốt bụng thì sẽ báo ngay với cô nàng thây ma bạn gái nếu cô ta đang bắt đầu thối rữa. Cũng giống như tốt hơn hết anh nên cho em biết nếu răng em vẫn còn mắc ít rau bina.”
Anh cười toe toét. “Hay nếu da em bắt đầu tróc ra ấy hả?” “Chính xác! Cái đó tệ cũng chẳng kém trường hợp váy của em bị mắc trong đồ lót!”
Anh ghé sát lại. “Sáng nay anh mới làm một mẻ pudding đấy.”
Tôi liếc dài nhìn anh. Món pudding ở đây có tên là “món dạo đầu” - và được trộn với toàn não nghiền. “Anh hy vọng em đói hay là nổi hứng đây?”
“Anh biết em dính cả hai”, anh nháy mắt.
“Thế cô nàng tóc vàng mà anh ôm vừa nãy là ai thế?”, tôi hỏi, trong đầu nghĩ thậm chí mình còn làm được thế mà không hề tỏ ra ghen tị. Chậc, không quá ghen tị.
Mắt anh sáng lên vẻ hài hước. “Đó là bác sĩ Sofia Baldwin. Anh biết cô ấy từ hồi học trung học.”
“Thế cơ đấy”, tôi nói, ném cho anh ánh mắt có phần xấu xa. “Thế anh đã bao giờ hẹn hò cô ta chưa?”
Anh cười toe toét. “Rồi, và trước khi mắt em long sòng sọc lên quá mức, thì cô ấy đã đá anh.”
Tôi khịt mũi. “Chậc, hoặc cô ta là đồ ngu, hoặc là em vẫn chưa khám phá ra những khiếm khuyết kinh khủng của anh.”
Anh nhướng một bên mày. “Hoặc là cả hai.”
“Hừm. Chúng ta chỉ phải chờ xem thôi. Giờ thì xê ra nào, em có một xác chết ở đây.”
Anh tránh sang bên. “Anh sẽ gọi sau.”
“Ơ, chậc, để xem em có nghe máy không.” Tiếng cười khùng khục của anh theo sau khi tôi đẩy cái cáng theo đường hành lang.
Tay nhân viên an ninh mở cửa ngoài sảnh cho tôi và hơi hất hàm chào khi tôi đi ngang qua. Tôi đáp trả gã ta bằng cái gật đầu phải phép. Mùi não của gã phảng phất quanh tôi, kèm theo là cơn đói nhói qua nhắc tôi biết là mình cần phải ăn sớm nếu không muốn rời ra thành từng mảnh.
Tôi tiếp tục đi ra ngoài, đẩy cái cáng vào thùng xe tải, rồi trèo vào ghế tài xế. Mẹ kiếp cái trò vớ vẩn chia khẩu phần này. Đặc biệt là nếu có nguy cơ tôi bắt đầu bốc mùi. Đó là một chuyện tôi cứ luôn hoang tưởng đến. Chai đồ uống não- chocolate trong hộp đựng đồ ăn chỉ mới tan một phần, nhưng tôi cứ nuốt trọn phần nào có thể nuốt. Đến ngụm thứ ba thì cơn đói dịu đi và thay thế vào đó là một cảm giác năng lượng ấm áp thật đáng yêu.
Phải mãi đến lúc thả cái chai chỉ còn một nửa vào trong hộp đựng đồ ăn và nổ máy xe thì tôi mới chợt nghĩ đến: Nếu tôi có thể ngửi thấy mùi não của tay nhân viên an ninh thì tại sao tôi lại không thể ngửi thấy mùi não của người đã chết?