• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Cuộc thanh trừng mùa đông
  3. Trang 8

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 34
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 34
  • Sau

5

S

áng hôm sau trời đã bớt rét hơn nhiều. Mây tan rồi. Những tia nắng sắc như dao, nghiêng nghiêng góc thấp chiếu rọi qua những rặng thông đỏ bao quanh nhà nghỉ. Người Lucas cứng đờ lại bởi cái giường quá ngắn và chiếc gối to đùng. Anh kéo khóa áo parka lại, đeo găng tay rồi đi ra ngoài. Không khí như một cú tát băng giá lên gương mặt mềm mềm ấm áp vừa mới cạo râu của Lucas.

Khu vực lâu đời nhất ở thị trấn Grant được xây trên một ngọn đồi bên kia đường cao tốc đối diện nhà nghỉ. Những ngôi nhà nhỏ xám màu cùng những chiếc dây phơi ở sân sau bị tuyết phủ kín. Những cuộn khói đốt gỗ màu xám phả ra từ hai trăm cái ống khói thép lững lờ giữa không trung, và mùi hăng hắc của vỏ cây sồi bị cháy lan tỏa khắp thị trấn, lượn lờ đó đây như một tên lang thang bẩn thỉu.

Lucas lớn lên ở Minneapolis. Anh từng học câu cá ở sông Missisipi lưu đoạn trong thành phố; dưới bóng những ống khói cao nghi ngút và đường dây điện chằng chịt cùng những chiếc cầu sáu làn; với những can dầu, những chiếc lốp xe đã mòn và những con cá chép chết nổi trên những bãi bùn. Khi anh bắt đầu lập nghiệp như một người trưởng thành thực thụ, anh đã mua một căn nhà gỗ nhỏ ở một cái hồ yên tĩnh tọa lạc tại vùng North Woods, Wisconsin. Và anh bắt đầu tìm hiểu về những thị trấn nhỏ.

Về những lợi ích và bất tiện khi tất cả mọi người đều biết về nhau. Họ luôn kể lể về những con đường, sông hồ và cả những khu ngoại ô được đặt tên theo họ của mình. Lucas biết những người kiếm sống trong rừng bằng việc hướng dẫn du lịch, trồng cây thông Giáng Sinh, đánh bắt cá bám đá hay là bẫy tôm hùm đất làm mồi câu.

Đó không phải là Minneapolis, nhưng anh lại thấy thích nó.

Anh ngáp dài và bước về phía xe tải, mắt nheo lại dưới ánh mặt trời. Tuyết kêu xào xạc dưới chân anh. Anh cảm nhận được một sức nặng thân thương quen thuộc phía bên trái mình. Anh không thể đeo bao súng bên eo khi mặc áo parka vậy nên anh vác khẩu .45 trên vai. Anh chỉ đơn giản là cảm thấy khẩu súng đang ở đúng chỗ nó phải ở. Đã lâu rồi anh chưa dùng súng lục. Tay trái nắm lấy cái khóa áo, kéo xuống độ ba xen ti mét, Lucas bỗng cười ngoác mang tai. Tập duyệt ư? Không cần thiết lắm.

Hạt Ojibway không phải là Minneapolis. Ở Ojibway, nếu có tên nào đó muốn kết liễu mạng của Lucas thì hắn sẽ mang theo một khẩu súng trường, loại súng mà người ta hay dùng để săn hươu hoặc một khẩu súng đạn ghém, chứ không phải khẩu .22 cỏn con. Và nếu hắn mang theo một khẩu súng có khẩu độ .30-06, thì khẩu .45 cũng chỉ là đồ bỏ đi thôi. Nhưng dù sao thì anh cũng vẫn rất khoái khẩu này. Anh chạm vào cái khóa áo bằng tay trái lần nữa và đút tay phải vào áo trong tâm tưởng.

Chiếc xe tải đã bị bỏ bên ngoài trời lạnh cóng cả đêm qua, cũng may là nhà nghỉ còn có ổ cắm cho máy sưởi chạy bằng dầu. Lucas tháo cái dây nối khỏi chỗ ổ cắm và khỏi chiếc xe, ném nó xuống ghế sau, khởi động động cơ, để máy chạy rồi vào nhà nghỉ và lấy một cốc cà phê miễn phí.

“Trời lạnh nhỉ,” anh lên tiếng khi gặp chủ nhà nghỉ. “Nếu trời mà lạnh hơn chắc tôi phải mang con khỉ đồng vào trong nhà mất21,” ông chủ nhà đáp. Ông nghĩ mãi câu đùa này suốt cả sáng. “Lấy một ổ bánh mỳ ngọt đi, đang được khuyến mãi đấy.”

21 Nguyên văn, “Any colder, I’d have to bring my brass monkey inside.” Đây là một câu nói đùa dựa trên câu tục ngữ “cold enough to freeze the balls off a brass monkey” (đủ lạnh để khiến đạn rơi khỏi tấm phản đồng). Ngày xưa, thuyền bè đi trên biển thường có súng đại bác, và để đạn đại bác không bị lăn lung tung, thì thuyền viên sẽ để đạn lên một tấm phản có vết lõm làm bằng đồng gọi là “monkey.” Khi trời lạnh, đồng co lại nhanh, những viên đạn lại bị rơi khỏi tấm phản. Câu nói này ý chỉ trời rất lạnh.

“Cảm ơn nhé.”

Lucas quay lại xe, một tay cầm tách cà phê, một tay cầm ổ bánh mỳ. Không khí lạnh vẫn đang tuồn ra từ ống thông gió của máy sưởi chiếc xe tải. Anh tắt quạt và lái vào thị trấn.

Chỉ có hai khả năng có thể xảy ra trong vụ sát hại gia đình LaCourt. Họ bị một người lạ giết, một tên lang thang nào đó, có thể là một vụ trộm. Có thể hắn thấy ngôi nhà biệt lập trong rừng nên đã hành động. Hoặc họ bị giết vì một lý do nào đó. Rõ ràng là hắn ta phóng hỏa có lý do. Một tên sát nhân đến từ nơi khác sẽ kéo xác Frank LaCourt vào trong nhà, tắt hết đèn đi, khoá cửa lại và rời khỏi đó. Nếu không phóng hỏa thì chắc phải vài ngày sau mới có người phát hiện ra, khi đó hắn đã cao chạy xa bay rồi. Nhưng đằng này hắn lại phóng hỏa, như vậy thì hắn không thể rời khỏi đó quá mười lăm, hai mươi phút được.

Nếu kẻ giết người là một người dân bản địa, thì hắn châm lửa bởi hắn là một tên phóng hỏa tâm thần - khả năng không cao lắm - hoặc hắn đang che giấu điều gì đó. Một cái gì đó có thể khiến hắn bại lộ. Dấu vân tay? Tinh dịch? Hồ sơ cá nhân? Hay ngọn lửa chỉ để đánh lạc hướng cảnh sát?

Khẩu súng còn nguyên cả băng đạn được tìm thấy cùng thi thể Claudia LaCourt chứng tỏ rằng gia đình LaCourt nhận thức được chuyện gì đang xảy ra. Nhưng họ lại không gọi 911. Sự tình có lẽ đã hơi mơ hồ, khó phân cho rõ… Hừm.

Cô bé bị cắt mất tai có thể đã bị tra khảo. Chắc chắn có gì đó bí ẩn ở đây.

Hình ảnh cái tai trong chiếc túi ziploc hiện lên trong đầu anh. Carr đã nôn oẹ khi chỉ vừa nhìn cái thứ đó. Bởi vì ông ấy là con người. Cùng như cô bé LaCourt đã từng. Giờ này ngày hôm qua, cô bé vẫn còn sống, tám chuyện với bạn bè qua điện thoại, xem tivi, thử quần áo, lên kế hoạch cho tương lai. Vậy mà giờ đây, Lisa chỉ còn là một cái xác chết cháy.

Đối với Lucas, cô bé đơn giản chỉ là một khái niệm trừu tượng, một nạn nhân. Điều đó liệu có thể hiện rằng anh là kẻ không có nhân tính? Anh mỉm cười trước suy nghĩ đầy tự vấn đó. Anh luôn cố không tự vấn bản thân mình. Rất có hại cho sức khoẻ.

Nhưng anh thực sự không cảm thấy quá thương xót cho cô bé Lisa. Anh đã chứng kiến quá nhiều trẻ em phải chết, Những đứa trẻ sơ sinh trong thùng rác bị giết bởi chính cha mẹ chúng, những đứa trẻ mới chập choạng biết đi bị đánh đập đến mức tàn phế, những đứa trẻ mười ba tuổi bắn chết nhau do bị ảnh hưởng nhiều từ những thứ bạo lực chiếu trên tivi. Người lớn cũng không khá hơn, Vợ bị chồng đánh đập cho tới chết, chồng bị vợ giết chỉ bằng một cây búa, người đồng tính bị chém thành nhiều mảnh trong điên cuồng vì ghen tuông. Sau một lúc lâu, tất cả những hình ảnh đó hòa vào nhau.

Nhưng nếu đó là Sarah … Lucas mím chặt môi. Anh không tài nào tưởng tượng nổi con gái mình ở trong trường hợp của mấy vụ bạo lực, chết chóc mà anh tận mắt chứng kiến những năm qua. Anh không thể. Năm nay, Sarah đến tuổi đi học, cô bé sắp sửa bước vào một thế giới rộng lớn hơn.

Các đốt ngón tay của anh bám chặt lấy cái bánh lái, chuyển sắc trắng bệch. Anh rũ bỏ những suy nghĩ tồi tệ ra khỏi đầu và nhìn ra cửa sổ.

Con phố chính ở Grant gồm ba dãy nhà toàn những cửa hàng nhỏ, tồi tàn. Các cửa hàng nối tiếp nhau thành dãy dài như một thị trấn miền tây cũ. Có những tổ hợp bị coi là kì dị ở những nơi khác nhưng lại rất phổ biển ở North Woods. Ví dụ như một tiệm giặt là tự động vừa là cửa hàng sách vừa là quầy rượu luôn, hay là một cửa hàng lưu niệm Indian đồng thời cũng là một cửa hàng máy tính, hay một cửa hàng bán ăng ten chảo lại kiêm sửa cả ống nước. Dọc đường, có hai cửa hàng bánh, một cửa hàng gia dụng, rải rác vài công ty bảo hiểm và mua bán bất động sản, một vài văn phòng luật sư. Toà án hạt là một toà nhà chỗ cao chỗ thấp, không đồng đều được làm từ đá thô và thép. Nó nằm ở phía cuối con phố. Vài chiếc xe của cảnh sát đã đỗ sẵn trong bãi đỗ xe phía sau tòa nhà. Lucas đỗ xe ngay bên cạnh. Ở khu vực đỗ xe cho dân, có một chiếc Bronco với logo EYE3 lạ hoắc.

Một cảnh sát bước ra từ chiếc xe, gật đầu chào Lucas, “Chào buổi sáng,” và lịch sự giữ cửa cho anh. Văn phòng của cảnh sát trưởng nằm ngay sau cánh cửa thứ hai. Căn phòng được trang trí bởi những tấm áp phích cong mép kêu gọi bài trừ chất cấm in chữ DÁM bên trên, ngập trong mùi thuốc lá đã cũ và sự căng thẳng. Một phóng viên và một anh chàng quay phim đang ngồi trên ghế giả da màu lục đầy những vệt đen gây ra bởi thuốc lá và những vết rạch trông như bị dao lam cắt. Cô phóng viên đang tô son, trên tay là hộp phấn màu vàng và cây chổi nhỏ màu đỏ. Cô ta ngước nhìn Lucas khi anh bước vào. Anh gật đầu chào, cô cũng gật đầu lại. Cô ta ngồi đối diện với một căn phòng có cửa làm bằng thép và cửa sổ chống đạn. Lucas đi đến bên cửa sổ, nhìn chiếc bàn trống không phía sau và nhấn nút gọi cạnh cửa sổ.

“Đừng nhấn chuông, chỉ làm họ bực mình thôi,” cô phóng viên phân trần. Cô ta có một gương mặt thon gọn, gợi cảm cùng một chiếc cằm bé, đôi mắt to, xương gò má cao. Cứ như thể cô ta sinh ra là để lên truyền hình vậy. Cô ta mím môi lại, đóng hộp phấn và cho vào trong túi xách. Cô ta nở một nụ cười với Lucas, đúng kiểu cười trên ti vi. Anh chàng quay phim đi theo đang ngủ.

“Vậy sao? Hai người từ đâu đến vậy?” Lucas cất tiếng hỏi. Cô ta rất xinh đẹp với đôi mắt nhanh nhạy và biểu cảm như được huấn luyện trước, như một nàng geisha22 người Mỹ thời hiện đại. Weather chắc sẽ không bao giờ làm việc cho đài truyền hình, Lucas nghĩ. Những đường nét của cô ấy quá đặc biệt. Nhưng Weather trông rất giống một ngôi sao điện ảnh.

22 Geisha (芸者) là từ gốc Nhật chỉ những người nghệ sĩ được đào tạo bài bản về ca múa nhạc, chơi đàn, nghệ thuật tiếp chuyện,… ở nước Nhật thời xưa.

“Milwaukee,” cô phóng viên đáp gọn. “Anh làm cho tờ Star Tribune à?”

“Không,” Anh lắc đầu, không nói gì thêm.

“Anh là cảnh sát?” Cô phóng viên trở nên hứng thú. “Chỉ là một kẻ tò mò thôi,” Lucas cười toe. “Quanh đây ở đâu cũng có phóng viên nhỉ?”

“Chắc vậy,” mặt cô ta khẽ nhăn lại. “Kênh Eight phát tin này trên đài rồi. Chắc phóng viên của họ đang đâu đó quanh đây. Phóng viên của tờ Strib đến đây đêm qua rồi cơ. Chắc giờ họ đang ở chỗ cái hồ rồi. Có phải anh đến từ phòng thí nghiệm ở Madison không?”

“Không,” Lucas đáp.

Một người phụ nữ trung niên tới gần phía cửa sổ. Trông ta có vẻ đang rất khó chịu. “Davenport?”

“Vâng.” Cô phóng viên có xịt nước hoa, một mùi hương khá khêu gợi.

“Tôi mở cửa cho anh đây,” người phụ nữ nói.

“Anh làm cho FBI à?” Cô phóng viên vẫn cố moi tin. “Không.”

Người phụ nữ nhấn nút mở cửa từ bên trong. Khi Lucas bước qua cánh cửa, cô phóng viên gọi với theo, “Nói với cảnh sát trưởng rằng chúng tôi vẫn sẽ đăng tin cho dù ông ta có trả lời hay không.”

Bàn làm việc của Carr nhìn thẳng ra bãi đỗ xe, garage của hạt và bức tượng đồng tưởng nhớ lính đánh bộ trong Thế Chiến thứ nhất bị mài mòn. Bức tường màu be treo đầy ảnh chụp Carr với các chính trị gia, ba huy chương, một tấm bằng cử nhân Đại học Wisconsin / River Falls, hai bản in phóng to của hai chiếc tem hình con cá cùng tem gốc được đóng khung treo ngay bên dưới. Một chiếc máy tính, một máy in laser và một chiếc điện thoại trang trí đầy phức tạp màu lam gồm ba mươi nút bấm nằm chễm chệ một góc trên chiếc bàn rộng rãi làm bằng gỗ cây óc chó. Carr ngồi sau chiếc bàn, nhìn một cách ỉu xìu vào Henry Lacey qua cái máy thu âm.

“Phóng viên bao vây đầy chỗ này luôn,” Lucas tựa lưng vào cửa.

“Nhiều như lũ bọ ve nai ấy,” Carr ngước lên. “Chào buổi sáng. Vào đi.”

“Bọ ve nai cùng lắm chỉ làm anh mắc bệnh Lyme23 thôi. Mấy tên phóng viên đó có thể đá đít anh ra khỏi cái ghế này đấy,” Lacey nói thêm.

23 Bệnh Lyme là bệnh viêm nhiễm do bị bọ ve đốt. Chỗ bị đốt sẽ phát ban đỏ, kèm theo các triệu chứng sốt, đau đầu, mỏi mệt,…

“Có nên để họ chụp ảnh ngôi nhà không? Họ cứ bám lấy tôi đòi được vào đó chụp ảnh,” Carr than vãn.

“Sao anh không cho họ vào?” Lucas thản nhiên hỏi, bước vào trong, ngồi phịch xuống ghế dành cho khách, có vẻ thoải mái.

Carr vò đầu. “Tôi không biết… Tôi cảm thấy có gì đó không đúng.”

“Nghe này, vớ vẩn hết. Phía bên ngoài một ngôi nhà bị thiêu cháy chẳng có ý nghĩa gì với bất cứ ai, nhất là khi họ sống ở Milwaukee. Anh nghĩ mà xem.”

“Có vẻ vậy,” Carr vẫn lưỡng lự.

“Nếu tôi là anh, tôi sẽ vẽ một tấm bản đồ nhỏ của căn nhà, đánh dấu chỗ của mấy thi thể và mấy chỗ có dấu vết rồi ném cho họ. Nó cũng chẳng nói lên được điều gì đâu, nhưng mà ít nhất thì họ cũng sẽ nghĩ anh là một người thật là tuyệt vời và sẽ buông tha cho anh.”

“Nghe ổn đấy,” Carr vò đầu, suy nghĩ về việc Lucas nói. “Người của đội khám nghiệm Madison đã đến đây chưa?” Lucas chợt nhớ ra.

“Họ vừa tới hai tiếng trước. Họ đang ở chỗ ngôi nhà rồi.”

“Tốt rồi,” Lucas gật đầu. “Ở đấy sao rồi?”

“Vẫn như đêm qua thôi. Có khi trông còn tệ hơn ấy. Một cục máu to cỡ một chai sữa bị đông lại bên dưới đầu Frank. Họ sẽ chuyển thi thể đi trong khoảng một tiếng nữa nhưng chắc là sẽ mất vài tuần để xử lý toàn bộ ngôi nhà.”

“Phải giục họ đi. Chắc chắn có manh mối gì đó, nếu không thì kẻ sát nhân đã không phóng hỏa rồi,” Lucas bực mình. Hai tuần ư? Không thể nào. Họ cần thông tin ngay bây giờ. “Có gì mới không?”

“Có đấy. Chúng ta nhận được một cuộc gọi,” Carr đáp. Ông với qua bàn và bật máy ghi âm. Có tiếng nhạc, có vẻ như là một nữ ca sĩ nhạc đồng quê miền Tây, rồi giọng của một người đàn ông cất lên, Mày hãy bảo mấy thằng da đỏ chết tiệt ở FNR tránh xa những phụ nữ da trắng ra nếu không thì chúng sẽ có kết cục như nhà LaCourt đấy.

Lucas trề môi dưới, lắc đầu. Thật nhảm nhí.

Nhạc lại nổi lên như thể vừa có ai đó kéo miệng hắn ta ra khỏi điện thoại, và rồi một giọng nói khác lại vang lên, Mang cho chúng một hộp sáu lon bia Schlitz rồi gửi chúng đến Chicago ở với mấy thằng mọi đen.

Nhạc lại vang lên, sau đó chúng nói một vài từ gì đó Lucas không thể nghe ra nổi, một tiếng cười khan, một tiếng click và rồi tín hiệu mất.

“Mấy tên này gọi cho 911. Chúng tôi có hệ thống tự động dò ra địa chỉ cuộc gọi. Một bốt điện thoại công cộng ở Legion Hall. Lúc đó có khoảng năm mươi người ở đấy. Một lũ say,” Lacey giải thích.

“Nghe cũng biết là mấy tên đó đang say rồi,” Lucas đồng tình. Thật lãng phí thời gian. “Mà FNR là gì thế? Khu ở của người thổ dân à?”

“Ừ. Forest Noire,” Carr giải thích. Ông phát âm cái tên đó là Pho-ơ-noa. “Vấn đề là tất cả mọi người trong thị trấn sẽ biết về cuộc gọi này trước chiều nay. Cô nhân viên ở trung tâm tin nhắn đã loan tin về cuộc gọi này ra khắp tòa án rồi. Mấy anh chàng thổ dân sẽ tới kiện cáo đấy. Chúng ta sẽ phải báo cho FBI thôi. Có lẽ sẽ liên quan đến quyền công dân hay mấy thứ kiểu như vậy..”

“Thôi nào,” Lucas nhắm mắt rên rỉ. “Không phải Cục Điều tra Liên bang chứ.”

“Phải vậy thôi,” Carr lắc đầu. “Tôi sẽ cố cầm chân họ nhưng chắc cuối tuần này là họ tới.”

“Kể cho anh ấy tin đồn về con quỷ ăn thịt người windigo24 đi,” Lacey nhắc Carr.

24 Windigo (hay Wedigo) là một con quái vật ăn thịt người hoặc linh hồn quỷ dữ xuất hiện trong các truyền thuyết ở vùng Bắc Mĩ.

“Có tin đồn xung quanh khu bảo tồn rằng có một con windigo được mùa đông nuôi dưỡng,” Carr chán nản.

“Tôi đã nghe về nó rồi. Nhưng tôi không biết…”

“Chúng kiểu như mấy linh hồn chuyên ăn thịt người, đi lang thang giữa trời đông và ăn tươi nuốt sống những ai chúng tìm thấy. Nếu anh thấy một con thì nhớ mang nó về thẩm vấn nhé,” Lacey mỉa mai.

Cả Lacey và Carr đều phì cười, rồi Carr nói, “Chúng ta lại đang nói nhảm rồi.” Ông quay sang Lucas, “Đêm qua tôi không được ngủ tí nào đâu. Tôi đã chọn ra một vài người cho anh rồi đấy. Sáu người cả thảy. Mấy người thông minh nhất rồi đấy. Họ đang chờ ở dưới căng tin. Sẵn sàng chưa?”

“Rồi. Đi thôi.”

Mấy anh chàng cảnh sát ngồi xung quanh những chiếc bàn vuông ọp ẹp. Họ đang uống cà phê và nhai mấy thanh kẹo khi Lucas bước tới. Carr chỉ tay tới từng người và giới thiệu tên của họ. Năm người trong số đó mặc đồng phục. Người thứ sáu hơi lớn tuổi, ông ta mặc quần bò và một chiếc áo len to bự chảng, giắt một khẩu súng ngắn tự động chéo bên hông ở ngay bên trái rốn.

“… Gene Climpt, điều tra viên,” Carr chỉ vào anh ta, giới thiệu dõng dạc. Climpt gật đầu. Mặt anh ta dãi dầu sương nắng như một khúc gỗ trôi dạt trên hồ, đôi mắt ẩn chứa vẻ cẩn thận, cảnh giác. “Anh đã gặp anh ấy ở ngôi nhà đêm hôm qua đấy.”

Lucas gật đầu với Climpt rồi nhìn khắp căn phòng. Theo Carr thì họ là những người giỏi nhất ở đây rồi. Tất cả bọn họ đều trắng trẻo và béo tốt, ngoại trừ một anh chàng người da đỏ và điều tra viên tên Climpt. Anh ta gầy nhom như một cây cột thu lôi vậy. “Đêm qua cảnh sát trưởng và tôi đã nghĩ ra một vài hướng tiếp cận,” Lucas bắt đầu vào việc. “Hôm nay, chúng ta sẽ chia nhau ra đi thẩm vấn và thu thập thông tin. Tôi sẽ nói chuyện với mấy người lính cứu hoả đã có mặt tại hiện trường đầu tiên. Chúng ta cần phải tìm ra những người bạn thân thiết của gia đình LaCourt, bạn học của con gái họ, và những người cùng tham gia nhóm tín ngưỡng mà Claudia LaCourt tham gia.”

Cả nhóm thảo luận chừng hai mươi phút, phân chia rõ ràng công việc. Climpt dẫn theo hai cảnh sát đi điều tra bạn bè của nhà LaCourt, hỏi những anh chàng thổ dân cùng làm với Frank xem liệu anh ta có gặp phải rắc rối gì ở sòng bài hay không. Russell Hinks và Dustin Bane, hay được gọi là Rusty và Dusty, sẽ lo thu thập thông tin ở trường học. Người còn lại sẽ đi thẩm vấn các gia đình sống quanh hồ xem liệu họ có thấy điều gì bất thường trước khi vụ cháy xảy ra hay không. Đêm qua, Climpt đã khoanh vùng vài hộ để thẩm vấn rồi.

“Trong hôm nay tôi sẽ kiểm tra tiến độ công việc. Nếu tìm được bất cứ thứ gì thì gọi ngay cho tôi. Tìm thấy bất cứ thứ gì cũng phải gọi cho tôi đấy nhé,” Lucas dặn dò.

Khi những cảnh sát bắt đầu mặc áo và di chuyển, Carr quay sang Lucas, “Có một số thủ tục giấy tờ cần phải làm trước khi anh đi. Tôi muốn hợp pháp hóa tư cách của anh đã.”

“Đương nhiên rồi,” nói rồi Lucas đi theo Carr tới tiền sảnh. Khi hai người đã đi xa khỏi nhóm cảnh sát, Lucas mới cất tiếng hỏi, “Cái người tên Climpt này … sẽ hợp tác với tôi chứ? Hay anh ta sẽ gây rắc rối?”

“Sao anh ta lại phải như thế?” Carr hỏi ra chiều khó hiểu.

“Tôi đang làm công việc mà đáng nhẽ ra là của anh ta.”

Carr lắc đầu, “Gene không phải người như thế đâu. Không có đâu.”

Bergen loạng choạng chạy vào sảnh, nhìn dáo dác và thấy Carr ở bên ngoài, “Shelly…”

Carr quay người lại khi nghe thấy tiếng gọi. Bergen đang mặc một chiếc quần gió và một chiếc áo parka ba lớp, đầu đội một chiếc mũ săn màu cam của Day-Glo, đi găng tay hở ngón và một đôi ủng đi tuyết to tướng. Ông trông giống một tay tiều phu quá khổ hơn là một vị linh mục. “Phil, anh sao rồi?”

Giọng Bergen trở nên gay gắt khi ông cố cởi đôi găng, vỗ vỗ nó vào chân khi đi qua sảnh. “Anh phải biết chứ nhỉ. Khắp thị trấn lan truyền rằng chính tôi làm điều khủng khiếp đó. Chính tôi đã giết nhà LaCourt. Chỉ có một nửa giáo dân đến Thánh Lễ sáng nay của tôi. Sáng mai thì chắc nhà thờ sẽ vắng hoe mất.”

"Phil, tôi không biết là… " Carr bắt đầu.

"Đừng lừa tôi, Shelly. Chính văn phòng cảnh sát đã loan tin đó, rằng tôi là nghi phạm chính."

"Nếu người của tôi đã loan tin thì chắc chắn tôi sẽ ngăn họ lại, bởi anh không phải là nghi phạm chính. Chúng tôi chưa có bất kỳ nghi phạm nào cho vụ này cả.”

Bergen liếc sang Lucas. Môi dưới của ông run lên. Ông lắc đầu, quay lại nhìn Carr, "Muộn rồi, Shelly. Tôi sẽ không bỏ qua chuyện này đâu. Danh tiếng của tôi đang bị hủy hoại bởi anh và cái tên lính đánh thuê này,” Bergen liếc nhìn Lucas một lần nữa, rồi mới tiếp tục, "Anh đang vu khống, phỉ báng tôi đấy."

Carr nắm lấy tay Bergen, "Xuống văn phòng của tôi đã, Phil " Rồi ông quay sang Lucas, "Đi đến cuối hành lang tìm Helen Arris.”

Helen Arris là một phụ nữ với mái tóc bù xù, khoảng bốn mươi hay năm mươi hoặc đầu sáu mươi tuổi gì đó. Bà ta là quản lý của văn phòng. Bà ta nhai kẹo cao su chóp chép, liên mồm gọi Lucas là “cưng,” và hoàn thành mấy thủ tục giấy tờ trong vỏn vẹn năm phút.

Sau khi hoàn thành giấy tờ, bà ta chụp một tấm ảnh của Lucas với chiếc máy ảnh Polaroid, luồn bức ảnh vào khuôn bằng nhựa, đưa vào máy ép, ấn nút, đợi mười giây rồi đưa cho anh một cái thẻ căn cước mới.

“Cẩn thận đấy,” bà ta có cái giọng điệu y hệt người trong mấy chương trình trên tivi về cảnh sát.

Lucas lấy một cuốn sổ tay từ chiếc xe Explorer và quyết định tới cửa hàng Grant Hardware cách đường cao tốc một dãy nhà. Hôm nay sẽ là một ngày dài đây. Họ phải xử lý vụ án này trong một tuần. Bắt đầu càng sớm, cơ hội tóm được hung thủ càng cao.

Anh dừng lại mua một tờ Thời báo phố Wall ở một cửa hàng tạp hoá bán cả sách và báo ở góc phố. Anh đi qua một cửa hàng bán áo phông, một hiệu sửa giày, và một tiệm bánh trước khi qua đường tới cửa hàng Grant Hardware. Một cái máy thổi tuyết được trưng bày bên cửa sổ cùng với một đống đĩa VCRs và mấy chiếc xe trượt nhựa màu bí ngô. Chuông trên cánh cửa kêu leng keng khi Lucas bước vào. Hương cà phê nóng lan tỏa trong không khí. Một người đàn ông đang ngồi trên chiếc ghế gỗ phía sau quầy thu ngân. Anh ta đang đọc tạp chí People và uống cà phê trong một cái tách sâu lòng. Lucas bước tới quầy trên cái sàn gỗ cũ kĩ ọp ẹp.

"Anh là Dick Westrom?"

"Đúng vậy,” người đàn ông ngồi ở quầy đáp. "Tôi là Lucas Davenport. Tôi là… "

"Thám tử, vâng, tôi biết rồi.” Westrom đứng thẳng dậy, rướn người qua quầy để bắt tay. Ông ta thật cao to, nặng khoảng gần một tạ, quá béo so với chiều cao. Mái tóc vàng của ông đã ngả dần sang màu trắng. Đôi mắt to, long lanh tránh ánh nhìn của Lucas. Ông ta hất đầu về phía một chiếc ghế ở đầu kia của quầy. "Con gái tôi ra ngoài ăn trưa rồi, không có ai đâu. . . Chúng ta có thể nói chuyện ở đây nếu anh không thấy phiền.”

“Được thôi,” Lucas cởi áo khoác ra, đi vòng qua quầy rồi ngồi xuống. “Tôi muốn biết chính xác những gì đã xảy ra đêm qua. Tất cả mọi thứ.”

Westrom là người đầu tiên tìm thấy Frank. Ông ta gần như vấp ngã khi đụng phải xác chết lúc đang kéo cái vòi cứu hỏa xuống khỏi chiếc xe tải.

"Anh không thấy anh ta nằm ngay đó ư?" Lucas hỏi.

"Không. Lúc ấy là ban đêm, trời tối om, ánh sáng từ ngọn lửa bập bùng lắm, và có một lớp tuyết phủ trên người Frank,” Westrom đáp. Ông ta có cái kiểu nói chuyện nhếch nhẹ mép như thể đang tiết lộ cơ mật trong sân nhà tù vậy. "Lúc giẫm lên rồi thì tôi mới biết đó là cái xác, nhưng đứng cách đó vài mét thì... có Chúa mới thấy được anh ta."

"Đó là lúc anh nhận ra rằng có người chết à?"

"Hừm, tôi nghĩ là bên trong nhà chắc phải có người, có một cái mùi - anh biết đấy - lan tỏa. Chúng tôi đều ngửi thấy ngay khi đến đó. Duane thì hét toáng lên là ‘Có người chết’.”

Westrom khẳng định là đã nhìn thấy vị linh mục đi qua trạm cứu hỏa chỉ vài giây trước khi có báo động.

"Nghe này, tôi không có thù oán gì với Phil Bergen,” Westrom liếc sang Lucas. "Đêm qua Shelly Carr đã tìm đến nói chuyện với tôi. Tôi biết anh ta nghĩ gì. Nhưng để tôi nói anh nghe. Tôi đang làm nốt một chiếc bánh kẹp thịt…"

"Và?" Lucas nói, cố gắng giữ giọng trung lập.

"Và Duane nói, ‘Cha Phil kìa. Thời tiết này mà vẫn phải ra đường’. Lúc ấy Duane đứng cạnh cái cửa sổ phía trước và tôi thấy Phil đi qua. Ngay sau đó tín hiệu lò vi sóng kêu. Ngay sau đó ấy. Lúc đó tôi đang nhìn đèn hậu của chiếc xe. Tôi nhớ mình đã nói rằng, 'Ông ấy là một linh mục có tiếng đi một con Grand Cherokee ai cũng biết, vì vậy ông ấy có thể đi bất cứ đâu vào bất cứ lúc nào nếu muốn.’"

"Nghe như anh không thích ông ấy lắm nhỉ?” Cũng như Lucas không quá thích Westrom vậy. Đôi mắt ông ta cứ đảo qua đảo lại.

"Cá nhân tôi thì không. Nhưng chuyện đó cũng đâu quan trọng, và ông ấy hoàn toàn có thể cứ làm việc của mình thôi," Westrom bặm môi phản đối. Mắt ông ta lướt qua khuôn mặt của Lucas và nhanh chóng quay đi. "Lúc đó, tôi đang lấy cái bánh kẹp ra, nó đang được bọc trong giấy bóng kính nên tôi phải kẹp ngón tay vào góc bánh để không bị phỏng. Tôi vừa gọi Duane, 'Đến ăn đi' thì điện thoại reo. Duane bắt máy và chửi thề, ‘Mẹ kiếp’. Anh ta nhấn nút báo động và hét toáng lên, 'Nhà LaCourt cháy, đi thôi'. Tôi vẫn đứng như trời trồng, thậm chí còn chưa kịp bóc chiếc bánh kẹp nữa. Phil vừa đi qua chỉ mười giây trước thôi. Shelly đã cố bắt tôi nói rằng đó là một hoặc hai, ba phút, nhưng rõ ràng là không phải. Thậm chí còn không được mười giây ấy, chỉ được năm giây thôi."

"Vậy sao?,” Lucas gật đầu.

"Anh hỏi Duane mà xem. Anh ta sẽ nói cho anh biết.” "Duane là bạn của anh à?"

"Duane ư? Ồ không. Tôi cũng quý anh ta. Chỉ là chúng tôi không... thân cho lắm."

"Cha Bergen có thù oán gì với nhà LaCourt không?"

"Không. Ông ta rất thân thiết với Claudia,” có vẻ như Westrom cố tình nhấn mạnh từ thân thiết.

"Thân như thế nào?" Lucas hỏi, nghiêng đầu.

Mắt của Westrom liên tục đảo qua Lucas, “Claudia khá nổi tiếng ở thị trấn trước khi cưới Frank. Cô ta từng hẹn hò với rất nhiều gã. Cô ta cũng khá xinh đẹp, ngực cô ta rất....” Westrom khum tay đặt lên ngực và lắc lắc vài cái. "Còn Phil… Ông ấy là một người đàn ông nhưng lại là một linh mục, hẳn là rất khó khăn.”

"Anh nghĩ ông ấy và Claudia có quan hệ mờ ám gì đó sao?" Westrom nghiêng người về phía trước, cẩn trọng đáp, "Tôi không biết. Chắc mọi người sẽ đồn ầm lên nếu Claudia có qua lại với ông ấy. Nhưng có khi chuyện đã xảy ra từ lâu rồi. Có thể Phil muốn bắt đầu lại hay gì đó.” Westrom khịt mũi.

"Có bao nhiêu chiếc xe Jeep màu đen ở hạt Ojibway? Chắc cũng nhiều chứ?”

"Không nhiều đâu, nhất là vào mùa đông. Mấy chiếc Grand Cherokee chỉ hợp chạy vào mùa hè thôi. Tôi chẳng quen ai đi xe đó trừ Phil.” Westrom nhìn Lucas một cách tò mò, "Anh có phải người theo Công giáo không?"

"Sao anh lại hỏi vậy?"

"Có vẻ như anh đang tìm cách biện hộ cho Phil Bergen.”

Ngoài bìa cuốn sổ của Lucas có viết, "Westrom, Helper.” Anh gạch tên Westrom đi, khởi động chiếc Explorer, đi ra Cao tốc 77 rồi đến trạm cứu hỏa.

Vào ban ngày, lúc có ánh sáng mặt trời và những con đường cũng mới được ủi tuyết thì quãng đường hôm qua mất nửa tiếng giờ chỉ mất mười phút. Từ những đoạn nhô cao của con đường, Lucas có thể nhìn thấy những vùng đất thấp kéo dài mãi với những rừng thông đen tương phản với ánh bạc của những hồ nước đã đóng băng.

Trạm cứu hỏa từng là một cái chòi bằng gỗ dựng trên một tấm bê tông, nép mình dưới hàng thông nằm ngay gần đường cao tốc. Một mặt của ngôi nhà bị che khuất bởi ba cánh cửa garage quá khổ dành cho xe cứu hỏa. Văn phòng ở đầu kia, với một hàng cửa sổ nhỏ. Lucas đậu xe ở một trong bốn khoảng trống vừa được ủi tuyết và đi vào văn phòng. Chẳng có ai. Trong văn phòng có một cánh cửa dẫn ra gian sau của căn nhà, Lucas ngó đầu vào,

"Có ai không?"

"Tôi đây!" Một người đàn ông cao lớn, tóc vàng hoe đang ngồi ở bàn làm việc. Anh ta cặm cụi với cái trục cuốn dây câu bị tháo tung dưới ánh sáng của ngọn đèn bàn sáng choang. Anh ta có một bộ râu mỏng, gần như không thể nhìn thấy. Khuôn mặt chi chít mụn trứng cá. Đôi mắt màu xanh toát lên vẻ cẩn trọng. Không gian bếp trải dọc theo bức tường phía sau anh ta. Đầu kia của căn phòng có một chiếc sô pha đã hỏng, hai chiếc ghế dựa đã cũ kĩ và hai cái ghế ăn bằng gỗ đặt đối diện với chiếc tivi màu. Bức tường bên cạnh chứa một dãy tủ khóa, trên mỗi chiếc tủ có ghi họ của từng người. Trong phòng có một cánh cửa khác dẫn ra khu để xe. Một cái thang dẫn lên gác xép.

"Tôi đang tìm Duane Helper.”

"Tôi đây. Anh chắc là Davenport.”

Anh ta nói bằng cái giọng nặng nề, gần như là giọng Đức, rồi đứng dậy và bắt tay Lucas. Anh ta mặc quần jeans với dây nịt to màu đỏ bên ngoài chiếc áo sơ mi làm việc màu xanh. Tay anh ta cũng nặng nề như thân thể anh ta và phủ đầy chai sạn. "Một đám phóng viên vừa đi ra khỏi con đường ven hồ. Cảnh sát trưởng cho phép họ chụp ảnh ngôi nhà."

"Vâng, ông ấy định làm vậy.”

"Tôi nghe nói Phil Bergen là nghi phạm chính.” Helper hỏi thẳng, vẻ thách thức.

Lucas lắc đầu. "Chúng tôi chưa có bất kỳ nghi phạm nào cả.” "Mọi người không nghĩ thế đâu,” Helper cầm điều khiển lên, bấm tắt cái tivi đang phát chương trình giải trí.

"Vậy thì họ đồn đại sai rồi,” Lucas đáp gọn. Helper dường như đang cố làm khó Lucas thì phải. Gương mặt anh ta vô cảm, với đôi mắt nhỏ tí, và khi anh ta đưa tay lên nghịch râu, các ngón tay dày thịt dường như quá ngắn, trông giống như những cây xúc xích vậy. Lucas ngồi xuống bên cạnh cái bàn tròn, đối diện Helper và bắt đầu câu chuyện theo trình tự thời gian.

"Tôi nhớ là đã nhìn thấy chiếc xe, nhưng tôi không nhớ là ngay lúc tôi nhìn thấy chiếc xe thì điện thoại báo cháy đến. Tôi nghĩ lúc ấy tôi đã đi ra trước cửa sổ, thấy chiếc xe. Sau đó chúng tôi nói chuyện về cái gì đó khác, rồi tôi quay lại chỗ cửa sổ một lần nữa, lúc đấy còi báo động mới kêu. Dick thì nhớ khác cơ."

"Anh có chắc chắn không? Về cả hai lời kể?"

Helper xoa trán. "Có thể Dick đúng. Chúng tôi nói chuyện với nhau rồi. Có vẻ anh ấy chắc chắn đấy.”

"Nếu anh đã đi đến cửa sổ hai lần thì thời gian giữa hai lần là khoảng bao lâu?"

"Tôi không nhớ rõ, chỉ một hoặc hai phút, tầm đấy.” "Vậy là thời gian giữa hai lần cách nhau không xa lắm.”

"Tôi nhớ là vậy.”

"Anh có thấy tận mắt chiếc Jeep của Bergen đi ra khỏi con đường ven hồ không?"

"Không, nhưng có vẻ là như vậy đấy. Ông ấy đi khá chậm lúc qua trạm cứu hỏa, kể cả là khi trời đang đổ tuyết thì như vậy cũng là chậm, rồi ông ấy tăng tốc rẽ ra Cao tốc 77 ở chỗ góc đường.”

"Tôi hiểu rồi.” Lucas đứng dậy, đi bộ quanh phòng một lần rồi nhìn xuống cầu thang.

"Có gì ở trên kia?"

"Có một cái phòng có giường tầng ở trên đấy. Tôi sống ở phía sau trạm cứu hỏa này. Tôi là nhân viên cứu hỏa chuyên nghiệp duy nhất ở đây.”

"Vậy là anh trực hai tư giờ một ngày luôn à?"

"Tôi được nghỉ vào ban ngày và lúc chập tối, lúc ấy mới có tình nguyện viên đến hỗ trợ, nhưng về cơ bản thì tôi ở đây phần lớn thời gian.”

"Ừm.” Lucas đi quanh căn phòng, ngón tay gõ nhịp lên hàm răng trên, suy nghĩ. Vấn đề thời gian ngày càng trở nên phức tạp. Anh quay ra nhìn Helper, "Anh có quen Cha Bergen không?"

"Không hẳn là quen. Tôi còn chưa bao giờ nói được quá sáu từ với ông ấy. Nhưng tôi biết ông ấy hay uống rượu lắm. Ông ấy từng bị bắt vì lái xe khi say, nhưng..." anh ta nói nhỏ dần và nhìn đi chỗ khác.

"Nhưng sao?" Helper như đang muốn giấu điều gì đó, nhưng lại cũng muốn nói cho Lucas biết.

"Cảnh sát trưởng Carr ấy ở phòng chữa cháy của hạt ấy,” Helper nói.

"Ừ? Rồi sao?" Lucas đáp gọn, giọng cứng rắn.

"Ông ấy rất thân với Bergen. Tôi biết anh không phải người ở đây, nhưng nếu tôi nói ra chuyện này và nó đến tai Shelly thì ông ta sẽ không để tôi yên đâu.” Helper dừng lại, chờ đợi.

Lucas suy nghĩ một cách cẩn trọng. Helper đang kéo Lucas về phía anh ta hoặc cố chia rẽ anh với Carr. Tại sao chứ? Có thể anh ta thực sự lo lắng cho kế sinh nhai của mình. Lucas lắc đầu, "Carr sẽ không bao giờ biết nếu ông ấy không cần phải biết chuyện này. Mà kể cả khi ông ấy cần phải biết thì tôi có thể đảm bảo sẽ không khai anh ra đâu. Tất nhiên là nếu làm vậy là hợp lý.”

Helper nhìn Lucas một lúc lâu ra chiều phán xét rồi nhìn ra cửa sổ, mắt hướng thẳng về phía con đường. "Mấy vụ lái xe khi đang say xỉn đó… Shelly đã đứng ra giải quyết hết rồi. Không phải chỉ một vài lần đâu.”

Anh ta liếc nhìn Lucas. Có gì đó nữa. Helper chỉ kể câu chuyện lái xe khi say để dụ Lucas.

"Còn gì nữa?" Lucas hỏi dồn.

Helper tiếp tục, "Có tin đồn rằng Cha Bergen là... Một ông bố cẩn thận sẽ không muốn con trai mình hát trong dàn hợp xướng ở nhà thờ của Cha Bergen"

"Ông ấy là người đồng tính á?" Có vẻ sẽ là chi tiết thú vị đây. Trong mấy thị trấn nhỏ, những người đồng tính sẽ chịu rất nhiều áp lực, đặc biệt là khi họ vẫn chưa công khai. Bergen còn là một linh mục nữa. . .

"Đó là những gì tôi đã nghe được,” Helper cẩn trọng nói thêm. “Đó chỉ là chuyện phiếm thôi. Tôi không quan tâm cho lắm. Thực ra thì tôi không nghĩ đó là sự thật, nhưng tôi cũng không rõ nữa. Với những vụ án giết người như thế này thì tôi nghĩ rằng anh sẽ muốn nghe mọi thông tin.”

"Đúng là vậy.” Lucas ghi chép lại.

Hai người nói chuyện được khoảng năm phút nữa thì ba cảnh sát tuần tra bước vào. Họ vừa đi ra từ nhà LaCourt. Bọn họ đều lạnh cóng và liền đi thẳng đến chỗ bình cà phê. Helper đứng dậy đun một ấm nước nữa.

“Có gì xảy ra ở dưới đấy không?" Lucas hỏi.

"Cũng không có gì. Những người ở Madison đang xem xét quanh căn nhà,” một anh chàng cảnh sát với khuôn mặt đỏ lừ như miếng bít tết sống đáp lại Lucas.

"Cảnh sát trưởng có dưới đó không?"

"Ông ấy quay lại văn phòng rồi. Ông ấy phải trả lời phỏng vấn với đài truyền hình.”

"Được rồi."

Lucas quay lại nhìn Helper, anh ta đang loay hoay pha cà phê. Đúng kiểu lính cứu hỏa ở thị trấn nhỏ. Anh ta ngồi nghe mấy câu chuyện nhảm nhí, ngồi tám với hai, ba chục lính cứu hỏa mỗi tuần. Cũng chẳng có việc gì khác để làm.

"Cảm ơn nhé,” Lucas gật đầu với Helper và đi về phía cửa đúng lúc điện thoại reo. Cơn gió tạt thẳng vào anh. Anh cúi đầu, chạy vội đến chiếc xe tải. Lucas đang loay hoay với chùm chìa khóa thì Helper nghiêng đầu ra khỏi cửa, gọi với theo, "Có cảnh sát gọi cho anh này.”

Lucas quay lại, nhấc cái ống nghe lên, “Tôi đây?"

"Tôi là Rusty, tôi đang ở trường. Anh qua đây nhanh lên.”

Trường trung học cơ sở Grant là một tòa nhà hình chữ nhật xây bằng gạch đỏ với những cây bách tùng xanh điểm xuyết trên bãi cỏ. Một người đàn ông trong bộ đồ đi tuyết đang hất tuyết xuống khỏi cái mái nhà phẳng lì. Những âm thanh chà xát văng vẳng trong bầu không khí buốt lạnh. Lu- cas đậu xe ngay phía trước, kéo khóa áo lên và xỏ tay vào đôi găng. Biển báo thời gian và nhiệt độ ở dưới phía bên kia đường báo - hai mươi mốt độ. Mặt trời trôi đi trên bầu trời phía Nam, nhợt nhạt như một đồng bạc cũ.

Bob Jones đang đứng đợi bên ngoài văn phòng hiệu trưởng khi Lucas bước vào. Jones có khuôn mặt tròn, đầu hói cùng đôi gò má hồng hào với bộ ria mép đen như của nhân vật phản diện và một nụ cười xoa dịu đầy chuyên nghiệp của thầy hiệu trưởng. Ông mặc một bộ vét xanh với chiếc áo sơ mi trắng cổ cứng, cà vạt đầy vẻ yêu nước với sọc đỏ, trắng, xanh xen kẽ.

"Rất vui khi gặp anh,” Thầy hiệu trưởng bắt tay Lucas. "Tôi đã nghe về anh. Thật cừ đấy. Để tôi đưa anh xuống phòng họp. Tên của cậu bé là John Mueller." Ngôi trường có những sảnh rộng được sơn màu be với những dãy tủ nhỏ màu nâu giữa những chiếc bảng tin bằng gỗ ép. Trong không khí ngập mùi tất thể thao, mùi giấy và mùi vụn gọt bút chì.

Đi được nửa đường, thầy Jones bỗng nhớ ra điều gì đó, "Tôi mong anh có thể nói chuyện này với cha của John sau khi anh hỏi chuyện cậu bé xong. Tôi không nghĩ là có vấn đề gì liên quan đến luật pháp, nhưng nếu anh có thể…”

"Chắc chắn rồi,” Lucas nói.

Rusty và Dusty đang ngồi uống cà phê bên bàn họp. Rusty vắt chân lên bàn. Cả hai người đều to con, lực lưỡng, khuôn mặt vuông vức với hàm răng trắng và mái tóc được chải chuốt tỉ mỉ. Rusty là người Chippewa25, Dusty thì có làn da trắng đậm chất Thụy Điển. Rusty vội vàng rút chân khỏi bàn khi Lucas và Jones bước vào, để lại một vệt nước bẩn trên bàn.

25 Chippewa, hay còn gọi là Ojibwe, là một bộ lạc da đỏ sống ở Bắc Mỹ.

"Cậu bé đâu rồi?" Lucas hỏi.

"Quay lại lớp toán rồi,” Dusty nói.

"Tôi sẽ gọi thằng bé,” Jones nhanh nhảu. Ông nhanh chóng tiến ra sảnh. Tiếng gót giày vang vọng trong hành lang lát đá cẩm thạch.

Dusty lau vết bẩn trên bàn bằng khuỷu tay và đẩy một tập tài liệu về phía Lucas. "Tên của thằng bé là John Mueller. Chúng tôi đã xem hồ sơ của nó. Học sinh khá giỏi. Trầm tính. Bố cậu bé có một cửa hàng bán xác động vật nhồi ở hạt N, mẹ làm việc tại tiệm bánh Grotek.”

Lucas ngồi xuống, mở tập tài liệu, lật từng trang. "Thế còn thằng bé kia thì sao? Thằng bé mà mấy cậu bảo đã từng bị giết hại ấy."

Rusty gật đầu, lấy tài liệu từ chỗ Dusty. "Jim Harper. Cậu bé cũng từng học ở đây. Học sinh lớp bảy. Cậu bé đã bị giết khoảng ba tháng trước.”

"Ngày 20 tháng 10,” Dusty bổ sung. "Chuyện gì đã xảy ra?" Lucas hỏi.

"Bị bóp cổ. Đầu tiên cảnh sát cho rằng đó là một tai nạn, nhưng khi gửi thi thể xuống Milwaukee thì bác sĩ nhận định là bị bóp cổ chết. Không tìm được hung thủ.”

Rusty tiếp lời, "Vụ án giết người đầu tiên ở thị trấn trong mười bốn năm qua,.”

"Chúa ơi, tôi chả biết gì về chuyện ấy cả,” Lucas ngước lên nhìn hai người.

Dusty nhún vai. "Nói thế nào nhỉ?... Tôi đoán là chẳng ai nghĩ về chuyện đó cả. Khá là xấu mặt cảnh sát. Chúng tôi không tìm ra manh mối nào của vụ đó. Không gì hết. Bất cứ cái gì. Dù sao thì ba tháng cũng trôi qua rồi, mọi người đều muốn quên nó đi.”

"Cậu bé đó từng học trường này, hơn nữa lại học cùng lớp với con gái nhà LaCourt. . . Lạy Chúa tôi...”

Thầy hiệu trưởng Jones quay lại cùng với một cậu bé. Thằng bé gầy gò, có đôi tai vểnh, mái tóc màu lúa mì chín, mắt to, cánh mũi hẹp và miệng rộng. Cậu bé mặc một chiếc áo sơ mi bằng vải dệt sợi len, quần jean bạc màu và đôi giày thể thao của một nhãn hiệu lạ hoắc. Cậu bé trông giống như một chú yêu tinh vậy.

"Cháu khỏe chứ, John? John đúng không?" Lucas hỏi khi Jones vừa bước vào phòng. "Chú nghe nói rằng cháu biết một vài chuyện về Lisa.”

Cậu bé gật đầu, ngồi xuống chiếc ghế đối diện Lucas và chỉ vào hai anh chàng cảnh sát, "Cháu đã kể hết cho các chú này rồi."

"Chú biết nhưng chú muốn nghe chính cháu kể, được chứ?,” Lucas trịnh trọng như đang nói chuyện với một người trưởng thành. John gật đầu nghiêm túc. "Vậy sao cháu lại quen Lisa?"

"Chúng cháu hay đi cùng xe buýt. Cháu xuống bến ở hạt N, còn bạn ấy đi xa hơn.”

"Bạn ấy có nói gì với cháu không?"

"Lisa nói rằng bạn ấy rất sợ hãi.” John đáp một cách chuyên chú. Đôi tai cậu bé đỏ lên, nhô ra như những chiếc đĩa trong trò ném đĩa. "Bạn ấy tìm được một bức ảnh ở trường.”

"Bức ảnh gì vậy?"

"Bức ảnh trong một tờ báo. Đó là ảnh Jim Harper, bạn ấy mới bị giết hại cách đây không lâu. Chú có biết bạn ấy không?" “Chú nghe chuyện đó rồi.”

"Ừm, thật ra bức ảnh đó. . . ,” John quay đi và nuốt nước bọt. Một lúc sau cậu bé mới tiếp tục lên tiếng, "Cậu ấy trần truồng nằm trên giường cùng một người đàn ông cũng trần truồng, với cái, chú biết đấy… cái… ý cháu là…nó đang dựng đứng… .”

Lucas nhìn John. Cậu bé cũng nhìn chằm chằm Lucas với ánh mắt nghiêm trang. “Chỗ đó của hắn ta đang cương cứng phải không? Người đàn ông ấy?" Lucas hỏi dồn.

"Vâng," John sốt sắng trả lời.

"Vậy bức ảnh đâu rồi?" Lucas cảm thấy ngứa ngáy. Đây có thể là một manh mối.

"Lisa mang nó về nhà rồi. Cậu ấy định cho mẹ xem bức ảnh.” "Lúc nào? Cháu có nhớ ngày nào không?" Lucas cuống quýt. Rusty và Dusty chăm chú theo dõi cuộc đối thoại, mắt đảo qua Lucas rồi lại sang John.

"Tuần trước. Thứ Năm. Đêm đó mẹ đi làm về muộn, và lúc cháu về thì bố cháu đang nấu ăn."

"Cháu có biết bạn ấy lấy bức ảnh ở đâu không?"

"Lisa nói có một bạn khác đưa cho bạn ấy,” John nhún vai. "Cháu không biết đó là ai. Bức ảnh nhăn nhúm lắm, hình như được truyền qua tay rất nhiều người rồi.”

"Người đàn ông trông như thế nào? Cháu có nhận ra hắn không?"

"Không ạ. Mặt của hắn không bị chụp vào ảnh. Toàn bộ khung cảnh đều lọt vào ống kính, nhưng đầu của hắn lại bị cắt mất cứ như là ai đó đã không nhắm ống kính máy ảnh chuẩn xác vậy."

Khỉ thật. "Vậy là cháu chỉ thấy mỗi người của hắn thôi sao?"

"Vâng. Và một số thứ xung quanh nữa. Giường và đồ đạc, mấy thứ như thế."

"Người đàn ông đó to con hay nhỏ bé? Cơ thể của hắn ấy?"

"Hắn ta khá to con. Hơi béo."

"Tóc hắn màu gì?"

John cúi đầu, đôi mắt nhíu lại, "Cháu không nhớ.”

"Cháu có để ý xem hắn có nhiều lông ở ngực, bụng hay ở háng không?" Lucas cố tìm một từ mà thằng bé có thể liên tưởng đến, "Ý chú là, nó có mọc rậm rạp không? Trông kiểu kinh kinh ấy?"

"Không. Không có… Nhưng mà đó là một bức ảnh đen trắng và chất lượng thì không được tốt cho lắm. Đó là mấy tờ báo bán ở siêu thị Super Valu. . . ?"

"National Enquirer,” Rusty gợi ý.

"Vâng ạ. Bức ảnh như kiểu được lấy ra từ mấy tờ báo kiểu vậy đó ạ. Chất lượng không được tốt lắm.”

Lucas nghĩ thầm, Nếu lông của hắn ta không làm chú bé cảm thấy kinh tởm thì khả năng cao là tóc vàng. Lông và tóc đen trên giấy chất lượng thấp trông sẽ rất kinh. "Nếu chất lượng bức ảnh không tốt như vậy thì cháu có chắc đó là Jim không?"

Cậu bé gật đầu. "Đó là Jim, chắc chắn là cậu ấy. Chú có thể nhìn thấy khuôn mặt của cậu ấy trong bức ảnh. Cậu ấy đang cười giống như cách Jim cười vậy. Jim mất một ngón tay và nếu nhìn thật kĩ thì sẽ thấy cái đứa trong bức ảnh cũng mất một ngón tay. Cái đứa trong ảnh còn đeo khuyên, và Jim cũng đeo khuyên. Cậu ấy là người đầu tiên trong trường đeo khuyên tai.”

"Ừm. Cháu đã kể rằng Lisa rất sợ hãi? Sao cháu biết bạn ấy đã sợ hãi?"

"Bởi vì bạn ấy đã cho cháu xem bức ảnh.”

"Vậy ư?" Lucas cau mày, không hiểu lắm.

"Bạn ấy là con gái mà. Còn bức ảnh… chú biết đấy…” John ngọ nguậy trên cái ghế. "Bạn ấy sẽ không bao giờ cho một thằng con trai xem những thứ như thế nếu bạn ấy không sợ hãi.”

"Được rồi.” Lucas nhớ lại những gì anh vừa hỏi, dò xét những nội dung trong bức ảnh mà cậu bé đã thấy, nhưng không rút ra được gì hơn. "Bố cháu đang ở cửa hàng à?"

"Vâng, chắc là vậy,” cậu bé gật đầu. “Cháu đã kể với bố về bức ảnh chưa?"

"Chưa ạ.” Trông John có vẻ không thoải mái. "Ý cháu là . . . làm sao cháu có thể kể với bố về chuyện đó?"

"Chú hiểu rồi. Giờ chú sẽ chở cháu về và nói chuyện với bố cháu một lát nhé. Để bố cháu biết là mọi chuyện đều ổn ấy mà. Tốt nhất là cháu nên giữ bí mật về cuộc trò chuyện này.”

"Cháu nhớ rồi. Cháu sẽ không kể với ai khác đâu. Về cái chuyện đó ấy ạ,” cậu bé mở to mắt, hết sức nghiêm túc.

"Tốt lắm,” Lucas thả lỏng và mỉm cười. "Giờ thì đi lấy đồ của cháu đi, chú sẽ đưa cháu về nhà.”

"Chúng tôi làm tốt chứ?" Rusty lười biếng hỏi khi John vừa đi khỏi.

"Ừ, các cậu đã làm rất tốt.”

Hai anh chàng đập tay ăn mừng. "Các cậu đã hỏi hết bạn của Lisa chưa?"

"Tất cả rồi,” Rusty đáp.

"Tốt. Giờ tìm hiểu mấy đứa bạn của Jim Harper đi. Tìm kiếm mối liên hệ giữa Lisa và Harper. Nếu bức ảnh được chuyền tay thì hãy tìm ra những đứa nhóc đã cầm ảnh.”

Lucas dùng điện thoại công cộng trong phòng nghỉ giáo viên để gọi về văn phòng cảnh sát trưởng. "Giọng anh lạ quá,” Lucas nói khi giọng Carr vang lên ở đầu dây bên kia.

"Cuộc điện thoại của anh đang được chuyển tiếp cho tôi. Anh cần gì thế?"

"Cuộc nói chuyện của chúng ta có đang được đổi tần số không?"

"Không hẳn.”

"Tôi sẽ nói chuyện với anh sau. Chúng ta đã có manh mối rồi.”

"Tôi đang trên đường tới nhà LaCourt.”

"Tôi cũng đang đến đó, gặp nhau ở đấy nhé.” Lucas gác máy một lúc, rồi lại gọi đến văn phòng cảnh sát trưởng, nhờ chuyển máy tới Helen và yêu cầu bà ta tìm lại những hồ sơ về vụ Harper.

John Mueller đi cất sách, lấy áo khoác và ủng. Lucas chờ cậu bé ở cửa trước. Tiếng chuông reo vang, lũ trẻ lập tức tràn ra hành lang. Một cô gái nổi bật trong đám đông thu hút ánh nhìn của anh. Đó không phải là một học sinh. Là một bác sĩ. Weather. Anh bước tới chỗ cô. Đã lâu rồi anh không gặp gỡ phụ nữ. Anh cứ nghĩ rằng mình có thể lờ đi nhu cầu của bản thân bằng cách ở ẩn và tập thể thao. Hiển nhiên anh đã sai, khi mà trống ngực anh dội từng hồi thế này đây… hoặc là anh đang lên cơn đau tim. Weather bước về phía Lucas trong lúc đội mũ lên và đeo đôi găng to quá khổ có mặt trong làm bằng da. Cô gật đầu, "Có gì mới không?"

"Chẳng có gì cả" anh lắc đầu. Lucas nghĩ thầm, Không quá đẹp nhưng rất cuốn hút. Có vẻ cứng rắn. Có vẻ như cô ấy sẽ thích thỉnh thoảng đấm đá một chút. Cô ấy đang hẹn hò với ai nhỉ? Hẳn phải có bạn trai rồi. Một tên khốn nào đó giày của hắn chắc sẽ đính những cái tua rua nhỏ, và hắn sẽ chải chúng thẳng thớm vào buổi sáng trước khi vuốt keo bóng lộn.

"Tôi đang chẩn đoán bệnh lao ở đây,” Weather gật đầu, đi về phía sảnh, hướng đến một cánh cửa đúp để mở dẫn tới phòng tập thể dục. “Có một đứa nhóc cứ sợ rằng một kẻ nào đó sẽ đến giết nó vào ban đêm.”

Lucas nhún vai, “Đời là vậy đó.” Lời vừa ra khỏi miệng, anh đã biết chúng nghe thật không phải.

"Anh đúng là người theo chủ nghĩa Tự do đấy nhỉ?,” cô đáp bằng cái giọng đều đều.

“Này, tôi chẳng thể làm gì khác ngoại trừ tóm tên khốn ấy lại,” Lucas hơi bực bội. “Nghe này, tôi thực sự đã không…” Anh đang nói dở thì cô quay đi.

"Vậy thì anh hãy tóm hắn đi,” cô đẩy cửa đi ra ngoài.

Bực mình thật. Lucas dựa vào bảng thông báo ngay lối vào, nhìn cô đi về phía chiếc xe. Dáng đi rất uyển chuyển. Khi quay vào trường tìm John, Lucas thấy một cô bé tóc vàng đang quan sát anh.

Nó đứng trước cửa một lớp học, nhìn chằm chằm vào anh với một ánh mắt mãnh liệt lạ thường, như thể đang cố nhớ gương mặt anh. Cô bé cao nhưng có vẻ mỏng manh, mảnh khảnh với những dấu hiệu đầu tiên của nét tròn trĩnh tuổi dậy thì. Cô bé trông thật xanh xao. Có lẽ mái tóc nó là ấn tượng nhất. Mái tóc có màu vàng đục như màu của cánh hoa hướng dương, và đã được tỉa ngắn. Với chiếc cằm nhọn, đôi mắt lớn và mái tóc ngắn, nó có một vẻ đơn bạc như cô bé bán diêm vậy. Nó mặc một chiếc váy cộc tay tự may bằng vải cotton mỏng, loại váy hay mặc vào mùa hè. Nó ôm ba quyển sách trước ngực. Khi Lucas nhìn nó, nó cũng nhìn lại anh một hồi lâu. Một cái nhìn gợi cảm, đầy suy xét, nhưng cùng lúc lại ẩn hiện sự tổn thương. Được một lúc thì nó quay lưng đi khỏi.

John bước tới. Thằng bé mặc một chiếc áo parka to đùng với lông ở viền mũ và đeo găng tay. “Chú đi xe cảnh sát à?" Cậu bé tò mò.

"Không. Chú đi xe hai cầu."

"Tại sao vậy?"

"Chú là người mới.”

Bố của John là một người đàn ông ôn hòa với khuôn mặt tròn. Ông mặc một chiếc áo len màu vàng và quần nhung kẻ. "Sao con có thể không kể cho bố chứ?" Ông ngồi trên một chiếc ghế cao. Trên băng ghế dài, một tấm da cáo được kéo giãn ra phân nửa trên một cái khung làm bằng gỗ. John nhún vai, quay mặt đi.

"Nó ngại đấy. Hôm nay, cậu bé đã làm điều đúng đắn. Chúng tôi không muốn anh nghĩ chúng tôi đã hỏi cung thằng bé. Đáng nhẽ chúng tôi nên gọi cho anh để mời anh đến, nhưng tôi đã đến trường và thằng bé…”

"Không sao, chỉ cần thằng bé không vướng vào rắc rối thôi,” ông vỗ nhẹ lên đầu John.

“Không, không. Nó đã làm đúng. Thằng bé rất thông minh.”

Tấm hình rất quan trọng. Anh cảm thấy thế. Không, anh biết chắc chắn. Lucas lái xe đến nhà LaCourt, miệng huýt sáo. Có tiến triển rồi.

Anh có thể thấy Helper đang cặm cụi làm việc trong bãi đỗ xe của trạm cứu hoả. Anh ta đang cuộn vòi nước lại. Một chiếc xe cảnh sát đỗ gọn một bên ở khu đất thoáng đạt trên con đường dẫn tới căn nhà của gia đình LaCourt. Một cảnh sát vẫy tay với Lucas từ xa. Có đến cả chục người đàn ông đang làm việc hoặc chỉ đứng xung quanh ngôi nhà. Khắp nơi đã được bọc lại bằng vải bạt quân đội. Nhìn từ xa, ngôi nhà trông như một đống cỏ khô màu oliu xám xịt. Đường dây điện được giăng trên những cái cột tạm thời, len lỏi qua lỗ hổng giữa những tấm bạt. Lucas đỗ xe ở garage rồi vội vàng vào trong nhà. Hai cảnh sát đang sưởi ấm bên bếp lửa cùng với một anh chàng trong đội khám nghiệm ở Madison.

“Anh có thấy cảnh sát trưởng đâu không?” Lucas cất tiếng hỏi.

“Ông ấy đang trong nhà,” một cảnh sát trả lời Lucas. Nói rồi anh ta quay sang ngay bên anh chàng từ Madison tới, “Đó là Davenport.”

“Chúng tôi đang chờ anh đây. Tôi là trưởng phòng khám nghiệm… Tod Crane.” Crane trông như đã bị bỏ đói nhiều ngày. Ngón tay và cổ tay của anh ta gầy trơ xương, và lớp da trên cái đầu hói sọi của anh ta dường như căng ra trên hộp sọ như miếng da bọc đàn banjo. Khi hai người bắt tay, Lucas có thể thấy một chút cơ bắp trên cánh tay của Crane. Anh ta bắt tay Lucas chặt như một chiếc kìm mỏ quạ.

“Mọi việc thế nào rồi?” Lucas hỏi.

“Một mớ bòng bong,” Crane bẻ tay răng rắc. Những ngón tay trắng bệnh và run lên vì lạnh. “Hung thủ rải dung dịch xăng pha với dầu được trộn sẵn khắp ngôi nhà. Hắn chỉ cần châm lửa là ngôi nhà nổ tung. Chúng tôi còn tìm thấy một số món bị thổi xuyên qua cả tường trong nhà nữa.”

“Kiểu xăng pha hay dùng cho thuyền ấy hả?”

“Đúng vậy, chúng tôi đoán thế. Cũng có thể là xăng của xe trượt tuyết. Chúng tôi tìm thấy ba cái can có dung tích độ hai mươi hai lít. Nhà LaCourt có hai con thuyền, một tàu đáy bằng, một thuyền đánh cá nhưng lại không thấy có can xăng nào ở cạnh hết. Đổ dung dịch trộn lẫn ấy vào một cái chai rồi thả bấc vào là được bom xăng Motolov.”

“Liệu hung thủ có thể bị thương hay bị bỏng không?”

“Không biết được, nhưng hắn chắc chắn đã rất cẩn thận. Hắn ta rải khá nhiều xăng ra khắp căn nhà đấy. Chiều nay chuyên gia về mấy vụ phóng hỏa sẽ đến để xem có thể tìm ra nơi bén lửa đầu tiên không.”

Lucas gật đầu, “Tôi đang tìm một mẩu giấy. Chính xác là một tấm hình được xé ra từ một quyển tạp chí hay tờ báo nào đấy. Bức ảnh chụp một người đàn ông khoả thân và một cậu bé cũng đang khoả thân nằm trên giường phía sau người đàn ông. Bức ảnh có thể được giấu trong ngôi nhà này.”

“Hả? Cái này mới này?” Crane nhướn mày.

“Đúng vậy.”

“Anh cho rằng hắn cố gắng thiêu huỷ bức hình?” Crane hỏi.

“Tôi chỉ suy đoán thôi.”

“Có một vài ngăn kéo đựng hồ sơ đã bị lôi ra và rải đầy xăng, hắn cũng đổ xăng vào một tủ đồ đựng toàn giấy tờ với ảnh đấy. Mấy ngăn kéo trong phòng ngủ của đôi vợ chồng cũng bị lục tung lên rồi rải xăng.”

“Vậy, có thể…”

“Phải có một lý do nào đó khiến hắn thiêu rụi nơi này nếu hắn không bị điên. Nếu hắn chỉ giết họ rồi bỏ đi thì phải một hoặc hai ngày sau mới có người phát hiện ra. Hắn sẽ có đủ thời gian để nguy tạo chứng cứ ngoại phạm. Đốt căn nhà thế này thì hắn có ngụy cơ bại lộ ngay tức khắc.”

“Vậy tìm bức ảnh đó đi,” Lucas quả quyết.

“Chúng tôi sẽ tìm. Rốt cuộc cũng có một cái gì đấy cụ thể để tìm kiếm.”

Carr đến đúng lúc Lucas và Crane đang nói chuyện. Một nụ cười thoả mãn khẽ nở trên gương mặt ông. Có vẻ như Carr có chuyện gì vui từ sáng. “Lũ phóng viên đi hết rồi. Chỉ còn lác đác vài người thôi. May thật, biến mất hết rồi.”

“Chắc là đã tìm thấy một tên sát nhân kinh khủng hơn,” Lucas trêu chọc.

“Tôi đã nói chuyện với Helen lúc ở văn phòng. Vụ Jim Harper là thế nào vậy?”

“Rusty và Dusty tìm được một đứa trẻ ở trường cấp hai nói rằng Jim Harper chụp những tấm ảnh khiêu dâm với một người đàn ông. Tên đó có thể sẽ phải bóc lịch đến cuối đời nếu bị phát hiện nên rất có thể đó là động cơ giết người. Tấm ảnh được in trên giấy chất lượng kém, kiểu của mấy tạp chí rẻ tiền. Một vài đứa trẻ tìm thấy tấm ảnh và phát tán nó khắp trường. Lisa LaCourt là người cuối cùng giữ tấm ảnh. Cô bé mang nó về nhà vào hôm thứ Năm và cho cả thằng bé đã nói chuyện với tôi xem nữa.”

“Bạn cùng trường của Lisa à?”

“John Mueller. Bố thằng bé bán xác động vật nhồi.”

Carr gật đầu, “Tôi biết ông ta mà. Đó là một gia đình khá nề nếp. Lạy Chúa, hai vụ này có thể liên quan đến nhau đấy.”

Lucas nhún vai, “Có khả năng. Bố mẹ của thằng bé Harper có ở gần đây không?”

“Nó có bố thôi. Ông ta cũng già rồi, tên Russ. Mẹ nó chuyển đến California từ nhiều năm trước rồi. Ít ra thì bà ta cũng quay lại để dự lễ tang.”

“Russ làm nghề gì?” Lucas hỏi.

“Ông ta có một trạm xăng Amoco ở hồ Knuckle.”

“Được. Tôi sẽ tới đó.”

“Từ từ nào,” Carr lắc đầu. “Anh không nên đi một mình đâu. Anh định tới đó buổi tối sao?”

“Ừ.”

“Trạm xăng mở đến tận nửa đêm nhưng ông ta sẽ không bao giờ mở miệng nếu không bị ép đâu. Lão ta chẳng bao giờ chịu nói chuyện với cảnh sát cả. Tôi sẽ xin lệnh khám xét đồ đạc của Jim Harper, rồi ta sẽ dẫn theo vài người nữa đến đấy. Tôi phải tới nhà thờ tối nay.”

“Thôi được rồi. Nhưng ông ta là một tên khốn hả?”

“Ừ,” Carr gật gù. “Chúa ơi, nếu hai vụ này có liên quan đến nhau và chúng ta có thể giải quyết cả hai chỉ trong ngày một ngày hai… thì tôi sẽ được nhẹ gánh đây.”

“Cha Bergen sẽ làm lễ tối nay chứ?” Lucas hỏi.

“Chắc là không. Ông ấy khá là sốc. Anh gặp ông ấy sáng nay rồi mà.”

“Phải rồi,” Lucas khoanh tay trước ngực, quan sát Carr.

“Thằng bé Mueller nói rằng người đàn ông trong bức ảnh là một người to béo. Tóc hắn ta có thể là màu vàng hoặc nhạt màu. Thằng bé nói tên đó có vẻ không có nhiều lông lá lắm.”

“Nghe có vẻ giống Phil,” Carr đỏ mặt. “Nhưng… đó không phải Phil đâu. Có hàng nghìn tay béo tóc vàng ở hạt này. Tôi là một ví dụ này.”

“Tôi đã nói chuyện với hai người lính cứu hoả rồi. Westrom cho rằng Bergen là thủ phạm. Có vẻ như anh ta là người đi lan tin.”

“Dick là bà tám chính hiệu của cái thị trấn này đây,” Carr tức giận rồi lại hạ giọng xuống, gần như thì thầm, “Đồ quỷ sứ.”

“Anh có bao giờ nghe nói Cha Bergen là người phóng đãng chưa?”

Carr giật mình lùi lại, “Chưa… Chưa bao giờ. Sao thế?”

“Chắc chỉ là tin đồn thôi. Tôi còn nghe được là ông ấy quan hệ với cả nữ lẫn nam.”

“Ông ấy đồng tính ư?” Carr sửng sốt, “Điều đó thật nực cười. Anh nghe ở đâu ra vậy?”

“Tôi chỉ đi hỏi xung quanh thôi. Đằng nào thì chúng ta cũng phải nói chuyện với ông ấy một lần nữa. Sau buổi lễ thì sao? Sau đó chúng ta sẽ đến thẩm vấn Harper.”

Carr trông có vẻ lo lắng. “Thôi được rồi. Tôi sẽ gặp anh ở nhà thờ lúc chín giờ tối. Chúng ta vẫn họp lúc năm giờ đấy chứ?”

“Ừ. Nhưng tôi nghĩ sẽ chẳng có thêm phát hiện gì mới đâu, ngoại trừ việc Rusty và Dusty đã tìm ra được vụ tấm ảnh.”

“Anh sẽ không gây khó dễ cho Phil chứ?”

“Có vài thứ không hợp lí cho lắm,” Lucas cố để không khiến Carr phật lòng. “Ông ấy vẫn chưa kể hết mọi chuyện. Có lẽ vậy. Tôi cần phải suy nghĩ thêm.”