N
ếu tha thứ là việc làm có ý nghĩa thì sao lại khó thực hiện đến vậy? Bản chất tự nhiên của con người là cứ muốn giữ khoảng cách với người khác và nuôi dưỡng hiềm khích trong lòng. Bản năng mạnh mẽ nhất trong ta là oán trách, chứ không phải thứ tha.
Cơn phẫn nộ cứ tóm lấy ta trong khi “người bạn” tha thứ vẫn đang kiên nhẫn chờ đợi, hy vọng được ngó ngàng đến. Sự thù ghét – cũng như người anh em cùng họ với “hắn” là sự giận dữ và phẫn nộ - thích giữ chặt hơn là giải phóng. Trong khi sự tha thứ lướt qua ta như chiếc bóng mong manh thì sự thù ghét lại quấn chặt lấy ta. Tổn thương càng nặng nề bao nhiêu, chúng ta càng khó lòng thoát khỏi ám ảnh của khát khao trả thù bấy nhiêu.
Cố gắng không trả thù gây cho ta cảm giác như thiếu một tách cà-phê sáng trước khi bắt đầu một ngày làm việc. Nó làm ta bứt rứt không yên. Ta bị ràng buộc với ý thức “cân bằng” việc “ăn miếng trả miếng”, nỗi đau phải trả bằng nỗi đau, sự lăng mạ phải trả bằng lăng mạ.
Để không trả thù ai đó đòi hỏi khả năng kìm nén cực kỳ mạnh mẽ, điều đó cũng khó và trái tự nhiên như việc bạn hắt hơi mà vẫn cố mở mắt vậy. Xét về mặt sinh học, đó là chức năng mà ta không được trang bị. Nó đi ngược bản năng sinh tồn con người.
Không chỉ có “bản năng” con người phản đối việc tha thứ mà cả tâm lý và cảm xúc của ta cũng không hề “muốn” ta làm điều đó. Lý do khiến ta khó kháng cự lại được sự căm ghét là vì cảm giác dễ chịu mà nó mang lại. Khi bị tổn thương, theo lẽ tự nhiên, bạn sẽ xoa dịu chính mình bằng cách căm ghét người đã xâm hại bạn.
Cuối cùng, ta phản đối việc tha thứ chỉ vì ta là những người “học rộng hiểu nhiều”. Ta cho rằng tha thứ là điều không nên dựa vào những lý do như: khiến ta nhu nhược, vô tình tạo ra bất công, tạo khe hở cho kẻ xấu, không giải quyết được vấn đề, tạo ra tiền lệ nguy hiểm...
Tuy nhiên, lý do sâu xa hơn khiến ta không chấp nhận tha thứ vì ta tin rằng bằng cách căm ghét hay trả thù, ta đã có thể thay đổi, biến sai thành đúng. Không chỉ muốn tác động vào quá khứ, ta còn muốn thay đổi cả quy luật của cuộc sống.
Và trên hết, điều con người muốn thay đổi là “cái chết không thể tránh khỏi”. Cái chết chế giễu ta. Nó luôn chiến thắng; nó cười vào quyền năng vô hạn và làm tiêu tan khao khát được thống trị của con người...
Mỗi sự xúc phạm mà ta chịu đựng đều tạo thêm một vết hằn to lớn trong tâm trí, khiến ta càng thêm tức giận. Ta tin rằng chỉ cần trả thù, ta sẽ nắm được quyền thống trị. Bằng cách ghét đủ kẻ thù, “xóa sổ” tất cả những kẻ đã gây tổn thương ta, ta sẽ đứng vào ví trí cầm quyền, được ra lệnh, được thống trị.
Cái chết là bằng chứng rõ ràng nhất về giới hạn quyền năng của con người. Sinh ra chỉ để chết đi, yêu thương để rồi mất mát, sống rồi lại phải từ bỏ cõi đời này, đó là những nguyên nhân dẫn đến sự phẫn nộ, hoặc ít nhất cũng đáng để ta ném một vài hòn đá vào nhà kẻ có tội. Điều này có đúng với bạn không? Bạn có cho rằng không phải ta tức giận với cái chết mà chỉ căm phẫn kẻ làm ta tổn thương.
Xét bề ngoài, điều này đúng. Một đứa bé bị ăn hiếp sẽ kiếm cách trả thù vào ngày hôm sau. Tuy nhiên, nếu nhìn thấy được hận thù và khát vọng trả thù đã ăn sâu vào lịch sử con người, gây biết bao thảm họa, bạn sẽ tự hỏi: “Lý do sâu xa của những hành động này là gì? Sao không thể nhận ra chúng ta tha thứ cho nhau là vì quyền lợi cao nhất của con người?”...
Nguyên nhân khiến ta quên đi sự khôn ngoan (mà cứ cắm đầu vào trả thù) là sự sợ hãi. Nó đã chế ngự ta, khiến ta bất lực trước cái chết. Chúng ta không chấp nhận cảm giác bất lực, vì vậy tìm mọi cách đoạt lấy vị trí cầm quyền bằng cách trả thù. Trả thù gây ra ảo tưởng được thống trị.
Chúng ta chiến đấu và mưu hại lẫn nhau để chế ngự cái chết. Nghe thật nghịch lý phải không? Ta tàn sát nhau với niềm tin rằng ta sẽ thoát khỏi cái chết. Bạn có thể thay từ “tổn thương” bằng từ “giết chóc” trong trường hợp mạng sống của ta không bị lâm nguy, như ví dụ về đứa bé đã đề cập phía trên. Nhưng ngay cả một đứa bé cũng phải đấu tranh để giảm đi cảm giác bất lực và gia tăng cảm giác được nắm quyền. Trong hầu hết các cuộc chiến, ta thường cố làm giảm đi sự bất lực của mình bằng cách phô trương sức mạnh – thay vì bắt tay nhau và thừa nhận mình thật sự bất lực.
Xin đừng hiểu lầm tôi. Tôi không hề có ý khuyên chúng ta tạo dựng nên một thế giới mà trong đó mọi người đều “dĩ hòa vi quý” theo hướng tiêu cực. Tôi chỉ đang cố trình bày nguyên nhân sâu xa vì sao nhân loại chém giết lẫn nhau, vì sao chiến tranh luôn diễn ra. Đó cũng là lý do người lớn tự hủy diệt mình, xâu xé nhau hay giết đi tình bạn lâu dài chỉ bởi những điều nhỏ nhặt.
Khi ai đó làm ta đau, lập tức ta có ý định đánh trả chứ không mảy may nghĩ đến sự khoan dung và lòng yêu thương. Việc trả được mối thù khiến ta mạnh mẽ, khiến ta quên đi mất mát cuối cùng, cho dù sự thật là mất mát ấy vẫn thuộc về ta. Chúng ta rồi sẽ chết đi. Mọi hành động trả thù, trừng phạt đều là sự cám dỗ dữ dội điều khiển ta đi chệch quỹ đạo tiến bộ của nhân loại.
Chúng ta muốn trả đũa, muốn xóa bỏ sự thiếu cân bằng, muốn thay đổi luật chơi bất công của cuộc đời. Điều đó không thể được thực hiện bởi bàn tay con người và không thể diễn ra trên trái đất này. Những tưởng hành động báo thù có thể làm dịu đi mọi áp lực và khiến ta mạnh mẽ, nhưng không, áp lực gây ra bởi cái chết vẫn áp đảo chúng ta. Sức mạnh thật sự của ta nằm trong sự thừa nhận thực tế này và hành động sao cho phù hợp.
Tha thứ “thừa nhận” sự thiếu cân đối. Tha thứ vượt lên trên sự trả đũa, nó nhìn cuộc đời từ một đỉnh núi mang tên Yêu thương.
Tha thứ mang nhiều ý nghĩa hơn việc cứ ngồi đợi “thời gian rồi sẽ chữa lành mọi vết thương”. Bản thân thời gian đã làm công việc đó, bạn chẳng phải nỗ lực gì cả. Con người sẽ quên đi nhiều thứ, chỉ là sớm hay muộn thôi. Cũng như cái dằm trong tay bạn trước sau gì cũng bị cơ chế tự đào thải của cơ thể loại bỏ.
Nhưng với sự tha thứ chủ động lại khác. Nó nhìn thẳng vào nỗi đau và bất công, chịu đựng tổn thương hết lần này đến lần khác mà vẫn quả quyết: “Tôi sẽ làm tiêu tan nỗi đau bằng cách cho qua hết chuyện không hay”.
Khi tha thứ, bạn không những tha cho người đã mang lỗi với bạn mà còn tha cho quy luật của cuộc sống nữa. Bạn đang giải thoát chính mình ra khỏi chuỗi phẫn nộ và buồn bực về sự bất công, tội lỗi, và cái chết đang trói buộc chúng ta. Chúng ta gia công “chuỗi xích” này, từng mắt xích một.
Càng trưởng thành, chúng càng gặp nhiều “dạng” bất công khác nhau. Cuộc sống lúc nào cũng chực “ghìm” ta xuống. Vì vậy, sẽ tốt hơn nếu ta có thể loại bỏ các gánh nặng của cuộc đời, và tha thứ là một trong những cách thực hiện điều này. Nhưng rất khó để tha thứ cho một ai đó, ngay cả khi bạn đang cảm thấy rất ổn.
Chị họ Josselyn, người tôi xem như chị ruột, mất vào năm 2002 khi mới 56 tuổi. Đó là mất mát lớn trong cuộc sống của tôi. Nếu có thể oán trách ai về cái chết của chị, tôi đã có thể vơi đi phần nào nỗi đau. Nhưng không, chẳng có ai cả. Và vì không còn biết trút sự đau buồn vào đâu nên tôi không còn biết làm gì khác ngoài việc chắp tay cầu nguyện hằng đêm.
Nỗi đau trong bạn sẽ dễ dàng vơi đi nếu có ai đó để bạn trách móc. Hờn trách tạo ra cái cớ để nguôi ngoai. Nhưng sự thật là, bạn có tỏ ra tức giận với một ai đó cũng vô ích, cũng như việc ta hay phàn nàn về chuyện thời tiết vậy. Chúng tôi đành phải quen với cuộc sống không có chị ấy, và vẫn đang thực hiện điều đó. Dù rằng, cuộc sống không thể nào như trước được; mỗi mất mát sẽ làm thay đổi đời người, mất mát càng nhiều, sự thay đổi càng lớn.
Hình ảnh chị vẫn lưu mãi trong tâm trí tôi: khuôn mặt rám nắng thân thiện, vài nếp nhăn hiện lên khi cười, đôi mắt thông minh, má lúm đồng tiền, mái tóc ngắn vàng óng tạo vẻ nghị lực ở tuối 56.
Không ai trong chúng tôi chuẩn bị tinh thần cho sự ra đi của chị. Chị đã quán xuyến cả đại gia đình. Chị và anh Tom có tất cả năm đứa con. Đứa út chuẩn bị tốt nghiệp thì chị qua đời, con cả lại là bác sĩ phòng cấp cứu đúng tại bệnh viện nơi chị trút hơi thở cuối cùng. Chẳng ai lường trước được chuyện này.
Bạn tôi cho rằng tha thứ khó thực hiện bởi nó tương đương với việc từ bỏ ước muốn thay đổi quá khứ, và tôi đã nhận ra điều đó là đúng khi mất đi chị Josselyn. Chướng ngại to lớn nhất ngăn ta không muốn tha thứ chính là hy vọng. Ngày nào còn giữ hy vọng thay đổi quá khứ, ngày đó bạn vẫn sẽ buồn bực, vì không thể thực hiện được điều đó.
Khi tha thứ cho Thượng đế về việc Người cướp đi chị Josselyn, tôi cũng đã từ bỏ hy vọng rằng đó chỉ là trò đùa của Người thôi, rằng chị ấy chưa chết, rằng quá khứ có thể thay đổi được, rằng ngày mai chị sẽ quay lại với chúng tôi... Đó là điều không thể.
Một trong những lý do khiến người ta thưa kiện nhau là vì họ vẫn còn nuôi hy vọng quá khứ sẽ được đổi thay. Thưa kiện, đánh nhau hay hạ gục ai đó dễ hơn nhiều so với việc phải chấp nhận “sự thật”. Và trong cốt lõi của vấn đề, đây chính là nguyên nhân khiến tha thứ khó thực hiện.
Trước khi chết, chị Josselyn đã quyết liệt đấu tranh chống lại căn bệnh ung thư, nhưng chị cũng nói rằng: “Cái gì đến sẽ đến thôi”. Tôi phản đối: “Không, chúng ta vẫn có thể cứu vãn được”. Chị chỉ mỉm cười. Chị cười sự ngây thơ của tôi, cười cái hy vọng viển vông của tôi. Đến giây phút cuối cùng, chị đã khóc. Chị không hề muốn ra đi cũng như chúng tôi không hề mong muốn điều đó xảy đến.
Lúc nào chị cũng nói chị chỉ chết một khi con cái chị không còn cần chị nữa, hoặc tối thiểu là khi chúng đã tốt nghiệp đại học hết. Chị gần như hoàn thành tâm niệm, chỉ còn thiếu vài tháng thôi. Nhưng tôi dám chắc bọn trẻ sẽ không bao giờ “không cần” chị ấy, ngay cả bản thân tôi cũng vậy, dù đã ở tuổi 52. Chúng ta không bao giờ ngừng nương tựa vào nhau.
Molly, con cả của chị, là bác sĩ phòng cấp cứu. Trước ngày chị mất, nó nằm kế mẹ mình, vừa bóp lưng cho chị, vừa kể lại những chuyến nghỉ mát của cả đại gia đình, nào là đến Disney World, Cape Cod - nơi chị Josselyn đã lớn lên, nào là đến nông trại vùng quê miền Tây để câu cá, nào là chuyến nghỉ hè ở ngôi biệt thự vùng Jamaica... Thỉnh thoảng, chị nắm chặt đôi tay lại như muốn nói: “Mẹ nghe thấy rồi, mẹ yêu con lắm”.
Cả hai đều biết rằng khoảnh khắc của sự sống đang dần mờ đi. Molly cố làm mẹ hạnh phúc càng nhiều càng tốt vào những phút cuối chị còn lưu lại trên trần thế.
Cuối cùng, chị cũng từ bỏ chúng tôi mà đi.
Chúng tôi quây quần lại bên chị, mỗi người một cách “từ biệt” khác nhau. Đó là cách tưởng niệm của tín đồ dòng Tân giáo. Đứng trước nỗi buồn mênh mang, chúng tôi ngầm bỏ qua những lỗi lầm của nhau. Chúng tôi có cùng suy nghĩ, là hãy giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau.
Bạn không thể thay đổi được quá khứ, không thể khiến điều đã xảy ra lại chưa từng xảy ra. Nhưng vẫn có một điều tốt đẹp khác mà bạn thực hiện được, đó là hãy tha thứ cho những điều đã xảy ra. Hãy cố làm cho nỗi đau ngừng “hành hạ” bạn. Hãy để sự tức giận bùng lên như một ngọn lửa trong bạn rồi tự tắt đi. Đây chính là lúc để lòng khoan dung dẫn dắt bạn. Bạn đã bị “bỏng”, hãy tự chữa lành vết thương chứ đừng làm ngọn lửa lan ra thêm.
Chị Josselyn đã nói đúng, cái gì đến sẽ đến. Chẳng ích gì nếu tôi nổi cơn phẫn nộ với Chúa trời, với số phận, với cuộc sống, hay với chính tôi, hoặc một ai khác.
Tha thứ không có nghĩa trở nên thụ động, và cũng không có nghĩa phải “dừng bước” để tìm hiểu nguyên nhân nhằm tạo ra một kết cục “có hậu”. Tha thứ không có nghĩa là “đứng yên” không chống cự để bản thân bị sự tức giận, phẫn uất, đắng cay “gặm nhấm”.
Tha thứ kết nối con người với nhau. Khi chị Josselyn chết, tôi để cơn tức giận bùng phát, cháy bỏng và rồi vụt tắt. Giờ đây, nó chỉ còn là một đống than ấm. Nơi ngọn lửa từng ngự trị trong tôi giờ đã được thay bằng một tình yêu thương ấm áp, tình yêu của chúng tôi dành cho chị, và của chị dành cho chúng tôi. Nỗi buồn thiếu vắng chị vẫn day dứt chúng tôi, nhưng tình cảm nồng ấm của chị sống mãi.
Để sống tốt hơn, tôi đã bỏ đi hy vọng quá khứ sẽ được đổi thay, tôi đã phải chấp nhận những mặt trái của cuộc sống. Chúng ta sẽ vượt qua giận dữ, phẫn uất, thù ghét... và sẽ thật sự tự do.