• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Danh nhân hóa học
  3. Trang 22

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 48
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 48
  • Sau

Người sáng lập điện hóa học

D

avy sinh ngày 17 tháng 12 năm 1778 tại Penzance, Cornwall, vương quốc Anh. Sir (Ngài) Humphry là cách gọi trang trọng để chỉ địa vị xã hội của ông.

Từ thời niên thiếu, Davy đã say mê môn hoá học. Từ năm 1798, ông bắt đầu làm việc ở Viện Khí nén, đặt tại ngoại ô Bristol. Trong 3 năm làm việc ở đây, Davy đã nghiên cứu tác dụng sinh lý của các chất khí khác nhau: metan, cacbon dioxit, hydro và đặc biệt là nitơ (I) oxit.

Hồi đó nitơ (I) oxit được coi là nguồn gốc của nhiều loại bệnh tật. Davy đã phát hiện ra tính chất giảm đau của nitơ (I) oxit và xác định thành phần của hợp chất này. Năm 1800, Alessandro Volta giới thiệu pin lần đầu tiên. Davy đã sử dụng pin này để tách các muối bằng cách mà ngày nay người ta gọi là điện phân. Với nhiều pin mắc nối tiếp, ông đã tách ra các nguyên tố kali, natri và canxi, stronti, bari, magie. Ông cũng nghiên cứu năng lượng, tham gia vào việc nghiên cứu chia tách các muối này. Davy là một trong những người đầu tiên tiến hành phân huỷ nước theo phương pháp điện hoá nhờ pin Volta và khẳng định giả thuyết của Lavoisier là nước gồm oxy và hydro.

Trong thời gian 1800-1806, Davy nghiên cứu tác dụng của dòng điện của pin lên các chất khác nhau và đi đến kết luận như sau:

- Sự tạo thành các hợp chất hoá học là do lực hút tương hỗ của các hạt tích điện trái dấu.

- Tác dụng của dòng điện một chiều lên dung dịch các chất được giải thích là do các hạt mang điện của các chất đó bị đẩy khỏi cực mang điện cùng dấu và bị hút vào cực mang điện trái dấu.

- Có mối quan hệ chặt chẽ giữa độ lớn và dấu của điện tích các chất và ái lực hoá học của chúng.

Năm 1801, ông được chỉ định làm giáo sư tại Viện Hoàng gia của Anh và viện sĩ Hội Khoa học hoàng gia Anh, sau đó ông là chủ tịch của hội này.

Thời gian này, có rất nhiều thí nghiệm về điều chế các chất nguyên chất bằng phương pháp điện phân mà Davy tiến hành, dựa trên lý thuyết điện hoá. Thực hiện quá trình điện phân natri hidroxit và kali hidroxit nóng chảy, Davy quan sát thấy trên điện cực âm tạo thành những hạt natri và kali kim loại. Năm 1808, Davy tìm ra phương pháp điện phân muối của các kim loại kiềm thổ trên anôt bằng platin, bao quanh catôt là thuỷ ngân. Cũng trong năm này, Davy đã thu được magie, canxi và bari ở trạng thái nguyên chất, xác định bản chất kim loại của stronti. Hai năm sau, nhờ phương pháp điện phân, ông đã chứng minh được bản chất nguyên tố của clo.

Năm 1812, Davy được phong tước hiệp sĩ, đọc bài diễn thuyết chia tay tại Viện Hoàng gia, và cưới một góa phụ giàu có là Jane Apreece. Sau kỳ nghỉ dài tại châu Âu lục địa, ông bắt đầu sản xuất đèn Davy là loại đèn an toàn cho công nhân mỏ.

Khi nghiên cứu, ông cũng chỉ ra rằng oxy không thể thu được từ các chất gọi là axit oxymuriatic và chứng minh rằng chất thu được là một nguyên tố, ông đặt tên nó là chlorine. Phát minh này đã lật đổ định nghĩa của Lavoisier về axít như là hợp chất chứa oxy.

Năm 1813, độc lập với Gay-Lussac, Davy khẳng định iot là một nguyên tố chứ không phải một hợp chất. Davy lần đầu tiên dùng phương pháp điện phân để nghiên cứu tính chất của flo. Nhưng ông không tách được flo ở trạng thái tự do.

Năm 1815, Davy giả thiết các axit là các chất chứa hydro có thể thay thế – hydro một phần hay toàn phần bởi các kim loại. Khi các axít phản ứng với kim loại thì chúng tạo thành các muối. Các bazơ là các chất có phản ứng với axít để tạo ra muối và nước. Các định nghĩa này có tính thuyết phục trong nhiều thế kỷ.

Năm 1818, Davy được ban thưởng tước hiệu tòng nam tước. Năm 1824 ông đề xuất và cuối cùng đã tạo ra một lớp bọc bằng sắt cho thân tàu bằng đồng, đây là lần sử dụng đầu tiên của phương pháp bảo vệ catốt.

Davy đã tham gia giảng dạy giáo trình đầu tiên về hoá nông nghiệp. Ý kiến của ông về vai trò của muối khoáng trong dinh dưỡng của thực vật đã trở thành nội dung quan trọng trong hoá nông học.

Davy trở nên nổi tiếng nhờ các thực nghiệm về các phản ứng sinh lý của một số chất khí, trong đó có cả khí gây cười (oxit nitro).

Davy sau đó bị suy giảm thị lực vì gặp tai nạn trong phòng thí nghiệm khi ông đang thử nghiệm nitơ triclorua.

Davy mất tại Genevơ, Thụy Sỹ, việc hít thở phải hơi của các loại hóa chất khác nhau cuối cùng đã tác động có hại đến sức khỏe của ông. Người trợ tá phòng thí nghiệm của Davy là Michael Faraday tiếp tục mở rộng các công trình của ông và sau đó đã trở nên nổi tiếng và có ảnh hưởng hơn - đến mức Davy cho rằng Faraday là phát hiện lớn nhất của đời ông. Tuy nhiên, Davy đã kết tội người trợ lý là ăn cắp ý tưởng của mình, điều này khiến Faraday đã phải giảm mọi nghiên cứu trong lĩnh vực điện từ trường cho đến tận khi người thầy thông thái của ông mất.