• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Danh nhân hóa học
  3. Trang 24

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 23
  • 24
  • 25
  • More pages
  • 48
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 23
  • 24
  • 25
  • More pages
  • 48
  • Sau

Cha đẻ của vũ khí hóa học

F

ritz Haber sinh ngày 9 tháng 12 tại Breslau, Đức (hiện nay là Wrocław, Ba Lan), trong một gia đình Do Thái sinh sống lâu đời trong thị trấn, nhưng sau đó Haber cải sang đạo Cơ đốc. Mẹ của ông mất trong lúc sinh nở. Cha của ông là một thương gia nổi tiếng trong thị trấn. Từ năm 1886 đến 1891 ông học tại Đại học Heidelberg và là học trò của Robert Bunsen, tại Đại học Berlin (ngày nay là Đại học Humboldt, Berlin) trong nhóm của A. W. Hofmann, và tại trường Đại học Kỹ thuật Charlottenburg (ngày nay là trường Đại học Kỹ thuật Berlin) với Carl Liebermann. Ông kết hôn với Clara Immerwahr trong năm 1901. Con trai của họ, Hermann ra đời năm 1902. Trước khi bắt đầu sự nghiệp hàn lâm của mình, Haber đã làm việc kinh doanh hóa chất của cha ông và tại Viện Kỹ thuật Liên bang Thụy Sĩ ở Zürich với Georg Lunge.

Suốt thời gian tại Đại học Karlsruhe từ năm 1894 đến 1911, ông và Carl Bosch đã phát triển tiến trình Haber, có tác dụng xúc tác cho sự tạo thành ammonia từ hydrogen và nitrogen khí quyển dưới điều kiện nhiệt độ thấp và áp suất cao.

Năm 1918, ông được nhận giải Nobel hóa học cho đóng góp của mình. Tiến trình Haber-Bosch đánh dấu một cột mốc quan trọng trong ngành công nghiệp hóa học, bởi nó giúp việc sản xuất các sản phẩm của nitơ như phân bón, thuốc nổ và nguyên liệu chế biến, không còn phụ thuộc vào trữ lượng nitơ tự nhiên, đặc biệt là từ natri nitrat (caliche), mà trữ lượng khoáng sản của đất nước Chile là nguồn cung cấp.

Haber cũng có nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu các phản ứng cháy, sự tách vàng từ nước biển, tác dụng của sự thẩm thấu, điện hóa học, và nghiên cứu cơ bản. Phần lớn công việc của ông từ năm 1911 đến 1933 được thực hiện tại Viện Hóa Lý học và Điện hóa học Kaiser Wilhelm tại Berlin- Dahlem. Năm 1953 viện này được mang tên ông.

Haber đóng vai trò chủ yếu trong việc áp dụng vũ khí hóa học trong thế chiến I. Một phần công việc của ông bao gồm việc phát triển các loại mặt nạ phòng độc với các tấm lọc hấp thu. Ngoài việc chỉ huy nhóm nghiên cứu phát triển sử dụng khí chlorine và các loại khí chết người khác trong chiến tranh hầm hào, Haber cũng giúp đỡ trong việc loại bỏ các khí này.

Đáng tiếc là các khí độc được sử dụng trong thế chiến I khiến cho cuộc chiến này trở thành cuộc đối đầu giữa các nhà hóa học. Ngay cả vợ ông, Clara Immerwahr, đồng thời là đồng nghiệp của ông, cũng luôn chống đối công việc của Haber trong phát triển khí độc và bà đã tự tử bằng chính vũ khí mà ông tạo ra trong vườn, nhiều khả năng là bà muốn đáp lại kết quả thành công đầu tiên của khí chlorine được Haber giám sát tại Trận Ypres ngày 22 tháng 4 năm 1915.

Bà chết vào buổi sáng cùng ngày, Haber đi tới Mặt trận phía Đông để xem xét việc dùng khí độc chống lại quân Nga.

Haber là một người Đức yêu nước vốn tự hào về sự phục vụ của mình trong thế chiến I, vì những thành tích trên ông đã được vinh danh. Thậm chí ông còn được phong làm Đại úy, một điều hiếm thấy đối với các nhà khoa học.

Những nghiên cứu của Haber đã chỉ ra tác dụng của khí độc đối với trường hợp tiếp xúc với nồng độ thấp trong một thời gian dài tương đương với tác dụng của việc tiếp xúc với nồng độ khí cao trong một thời gian ngắn. Ông đã đưa ra công thức toán nhằm đơn giản hóa mối quan hệ giữa nồng độ khí và thời gian tiếp xúc cần thiết để gây ra tác dụng. Công thức này thường được biết đến như là định luật Haber.

Đáp lại những lời chỉ trích việc sử dụng vũ khí hóa học là vô nhân đạo, Haber phát biểu chết vẫn luôn là chết, dù dưới bất kỳ hình thức nào. Trong thập niên 1920, các nhà khoa học trong viện nghiên cứu của ông đã nghiên cứu ứng dụng cyanide dưới nhãn Zyklon B, dùng như là thuốc diệt côn trùng, đặc biệt là khí xông trong các cửa hàng ngũ cốc, và cũng sau đó, khi ông rời khỏi viện, khí này lại được sử dụng trong các trại tập trung của Đức quốc xã và được dùng để giết những người Do Thái khác bao gồm cả họ hàng của ông.

Trong thập niên 1920, Haber đã dành rất nhiều tâm huyết tìm ra phương pháp tách vàng từ nước biển, và xuất bản một số lượng lớn các tài liệu nghiên cứu khoa học về đề tài này. Tuy nhiên, sau nhiều năm nghiên cứu, ông kết luận nồng độ của vàng hòa tan trong nước biển là rất thấp so với các báo cáo được đưa ra bởi những nhà nghiên cứu trước đó, và việc chiết tách vàng từ nước biển là hoàn toàn không kinh tế.

Haber bị buộc phải rời Đức vào năm 1933 bởi chính sách trục xuất người Do Thái của Đức quốc xã. Giải Nobel ông đạt được do những đóng góp to lớn trong ngành hóa học, và đặc biệt là góp phần phát triển các loại phân bón hóa học, thuốc nổ và vũ khí hóa học. Tuy nhiên ông vẫn không thể tránh được sự giận dữ do những thành tựu của ông bị chính quyền Phát xít thực hiện.

Một thời gian sau, ông chuyển tới sống ở Cambridge, nước Anh trong vài tháng, Ernest Rutherford kiên quyết không hợp tác với ông, vì những công trình của ông phát triển vũ khí hóa học.

Haber được Chaim Weizmann mời làm giám đốc Viện Nghiên cứu Sieff (hiện nay là Viện Weizmann) ở Rehovot, thuộc Palestine do Anh ủy trị. Ông bắt đầu chuyến đi của mình tới nơi mà hiện nay là Israel vào tháng 1 năm 1934, sau khi bình phục từ một cơn đau tim. Tuy nhiên, sau đó căn bệnh đã quật ngã ông. Ông mất ở độ tuổi 65 vì suy tim tại khách sạn Basel, nơi ông đang nghỉ chân trên đường tới Trung Đông. Ông được hỏa táng và tro của ông, cùng với tro của Clara được an táng tại nghĩa trang Hornli tại Basel.

Ngay sau khi ông mất, người vợ thứ hai của ông Charlotte, cùng với hai đứa con, đã định cư ở Anh. Con trai của Haber, Hermann, di cư đến Hoa Kỳ trong Thế chiến II. Và tự tử vào năm 1946. Nhiều thành viên trong gia đình Haber chết trong trại tập trung. Một trong những người con của ông, Ludwig (Lutz) Fritz Haber (1921-2004), trở thành nhà sử học nổi tiếng viết về vũ khí hóa học trong thế chiến I, và cho xuất bản cuốn sách mang tựa đề “The Poisonous Cloud” (1986).

Haber bị các nhà khoa học chỉ trích rất nhiều do vai trò của ông trong việc phát triển và áp dụng vũ khí hóa học trong khoảng thời gian trước thế chiến II. Sau khi ông mất, có rất nhiều tác phẩm kịch viết về cuộc đời ông.

Cuộc đời của Haber, đặc biệt là mối quan hệ lâu dài của ông với Albert Einstein, xuất hiện trong vở kịch năm 2003 của Vern Thiessen mang tên “Einstein's Gift”. Thiessen miêu tả Haber như là một nhân vật bi thảm, phải đối mặt với các nỗ lực không thành công trong suốt cuộc đời của mình để lẩn tránh cả tổ tiên Do Thái của ông cũng như việc ứng dụng một cách tốt nhất những thành tựu khoa học của mình.

Đài BBC Radio 4 trong chương trình Afternoon Play đã phát sóng hai vở kịch về cuộc đời của Fritz Haber. Vở thứ nhất miêu tả cuộc đời ông lấy từ Diversity Website: Bánh mì từ không khí, Vàng từ Biển như một câu chuyện hóa học. Fritz Haber tìm ra cách chế biến các hợp chất nitrogen từ không khí. Những ứng dụng này được sử dụng vào hai mục đích chính: phân bón và chất nổ. Những công trình của ông đã tạo điều kiện cho nước Đức sản xuất rất nhiều loại vũ khí. Phần thứ hai của màn kịch nói về tiến trình để lấy được vàng từ nước biển. Ông giúp cho nền nông nghiệp của Đức không còn phụ thuộc vào Chile trong các cuộc chiến tranh lớn. Ông được nhận giải Nobel Hóa học, nhưng giải thưởng lại không được chuyển tới ông vì những công trình về vũ khí hóa học. Sau khi Hitler nắm chính quyền, chính phủ đã buộc Haber phải từ chức giáo sư và công việc nghiên cứu vì ông là người Do Thái.

Vở kịch thứ hai mang tên “The Greater Good” được công diễn lần đầu tiên vào 23 tháng 10 năm 2008. Vở này được Celia de Wolff dàn dựng, Justin Hopper là tác giả kịch bản trong đó ngôi sao Anton Lesser đóng vai Haber. Vở kịch nói về việc khám phá ra vũ khí hóa học trong thế chiến I và những áp lực đè nặng lên vợ ông Clara (Lesley Sharp). Kết thúc vở kịch là việc tự tử của bà và sự che đậy của chính quyền.

Năm 2008, một bộ phim ngắn mang tựa đề “Haber” mô tả quyết định của Fritz Haber bắt tay vào thực hiện công trình nghiên cứu vũ khí hóa học và mối quan hệ của ông với vợ. Bộ phim được Daniel Ragussis viết kịch bản và đạo diễn.

Dẫu cuộc đời Haberr có nhiều sóng gió, bị chỉ trích khá nhiều nhưng trong lịch sử phát triển hóa học, ông vẫn được đánh giá cao. Ông được nhận giải Nobel hóa học năm 1918 cho những cống hiến trong việc phát triển phương thức tổng hợp amonia, đóng vai trò quan trọng cho tổng hợp phân bón và chất nổ. Haber, cùng với Max Born đã đưa ra chu trình Born–Haber như là một phương pháp ước tính năng lượng tinh thể của kim loại rắn tuy ông được miêu tả như là “cha đẻ của vũ khí hóa học” vì vai trò trong việc phát triển và ứng dụng chlorine và các loại khí độc khác trong thế chiến I.