C
laude Monet là một họa sĩ vĩ đại của nước Pháp. Ông được xem là cha đẻ của trường phái hội họa Ấn tượng. Monet sinh tại Paris năm 1840. Gia đình ông chuyển về Havre vùng Normandie khi ông được năm tuổi. Bố của Monet muốn ông tiếp tục nghề buôn bán thực phẩm khô của gia đình, nhưng Monet chỉ thích vẽ. Eugène Boudin, một nghệ sĩ thường vẽ trên bãi biển Normandie đã dạy Monet một vài kỹ thuật vẽ đầu tiên vào năm 1856.
Trong hai năm 1861 và 1862, Monet phục vụ trong quân đội ở Algérie. Lecadre, một người dì của Monet đồng ý giúp ông ra khỏi quân đội nếu Monet chịu theo những khoa học về nghệ thuật ở trường đại học. Monet rời quân ngũ vào trường đại học, nhưng ông không thích phong cách hội họa truyền thống được dạy ở đây.
Năm 1862, Monet theo học nghệ thuật với Charles Gleyre ở Paris. Ông gặp Pierre-Auguste Renoir, người cùng ông sẽ sáng lập ra trường phái Ấn tượng. Họ cùng nhau vẽ và tình bạn của họ kéo dài tới tận cuối đời.
Monet làm việc ở một xưởng vẽ và gặp gỡ Camille Doncieux. Họ cưới nhau vài năm sau đó. Camille Doncieux làm mẫu trong rất nhiều bức tranh của Monet, đặc biệt là “Femmes dans le jardin”, vẽ khoảng cuối những năm 1860. Monet cùng Camille chuyển về một ngôi nhà ở Argenteuil, gần sông Seine, và họ có đưa con đầu lòng. Rồi họ đến sống ở Vetheuil, nơi Camille qua đời ngày 5 tháng 9 năm 1879. Monet đã vẽ cảnh Camille nằm chết trên giường. Sau đó Monet chuyển về một ngôi nhà ở vùng Giverny vùng Haute - Normandie, nơi ông có một khu vườn lớn.
Năm 1872, Monet vẽ một phong cảnh ở Havre: “Ấn tượng mặt trời mọc” ngày nay được treo tại bảo tàng Marmottan ở Paris. Bức tranh được giới thiệu với công chúng năm 1874 trong cuộc triển lãm ấn tượng đầu tiên. Cuộc triển lãm không thành công như mong đợi của các họa sĩ và gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ từ các nhà phê bình. Louis Leroy của báo Charivari đã mỉa mai dùng tên bức tranh của Monet để chỉ phong cách cuộc triển lãm: “Ấn tượng”. Trong cuộc triển lãm thứ ba của nhóm năm 1876, chính các họa sĩ đã dùng từ này để chỉ phong cách của mình.
Năm 1892, Monet thành hôn với Alice Hoschede, người tình của ông trong thời gian hôn nhân với Camille.
Trong những năm 1880 và năm 1890, Monet vẽ một loạt những bức tranh cảnh nhà thờ ở Rouen, với những góc nhìn và thời điểm khác nhau trong ngày. Ông cũng vẽ một sê ri tranh về những bó cỏ khô trên đồng.
Trong lần đầu tiên tới Anh năm 1870 để tránh cuộc chiến tranh Pháp với Phổ, ông có dịp gặp gỡ họa sĩ người Anh Turner và bị ấn tưởng bởi cách xử lý ánh sáng của Turner. Đặc biệt hơn cả là những tác phẩm vẽ cảnh sương mù trên sông Thames. Trong dịp đó, ông cũng làm quen với họa sĩ người Mỹ Whistler.
Monet còn quay lại London nhiều lần. Và trong khoảng thời gian 1899 đến 1901 sống ở đó, ông đã vẽ khoảng 100 bức tranh với đề tài sương mù London trên sông Thames.
Monet vẽ rất nhiều bức tranh khu vườn của ông cùng bãi cỏ, những cây liễu, cái ao với hoa súng và cây cầu. Ông cũng vẽ nhiều phong cảnh bên bờ sông Seine và một sê ri các bức tranh về hoa súng.
Trường phái Ấn tượng bắt đầu xuất hiện khi một số họa sĩ bài xích những quy chuẩn cứng nhắc đã được học ở trường mỹ thuật. Họ vẽ tranh ngoài trời bằng những nét vẽ nhanh (có thể nhìn thấy được cả những nét quệt, lượn, chấm…), nhấn mạnh đến sự chuyển động của ánh sáng trong tranh nhằm ghi lại chính xác tổng quan khung cảnh thông qua cái nhìn tươi mới về thế giới. Bất chấp hiệu ứng thị giác mới mẻ và độc đáo, những bức tranh vượt “chuẩn” này đã không được đón nhận vì sử dụng những thủ pháp hoàn toàn xa lạ với nghệ thuật hội họa truyền thống đương thời và nhận sự “ghẻ lạnh” từ các phòng trưng bày tranh lúc bấy giờ.
Claude Monet được coi là “Họa sĩ của những khoảnh khắc phù du”, “nhà biểu tượng của màu sắc”. Tranh của ông chú ý tới thiên nhiên, coi trọng diễn tả ánh sáng và màu sắc, ghi lại sự tươi mới của ấn tượng ban đầu một cách trung thực tuyệt đối. Ông thường vẽ đống rơm, nhà thờ, hoa súng, hoa trên cánh đồng, cầu Waterloo. Những bức tranh về khu vườn, hoa súng của ông được công chúng đặc biệt yêu thích.
Thường ngày, Monet thích vẽ những gì ông tận mắt nhìn thấy. Nhưng tới năm 1911, ông mất hoàn toàn thị lực mắt phải. Và tới năm 1922, mắt bên trái của ông cũng yếu dần... Ông gần như trở thành người mù lòa. Sau đợt mổ mắt, mắt Monet bắt đầu có những biến chứng khác, như nhìn đôi, biến dạng hình ảnh, màu sắc không thực. Tuy bị căn bệnh hoành hành song Monet vẫn không chịu rời giá vẽ... Kết quả là, những bức tranh do Monet thực hiện từ năm 1923 trở đi đều mang màu sắc lạnh, vì ông chỉ nhìn thấy được màu xanh, không nhìn thấy màu đỏ, màu vàng... Những bức tranh cuối đời của ông tràn đầy niềm cô đơn và tuyệt vọng.
Nếu như trong những năm đầu của sự nghiệp, Monet bị chỉ trích vì ông có tư tưởng tiên phong, đi trước một số nghệ sĩ cùng thời, thì từ những năm 80 trở đi, ông được công nhận là cha đẻ của trường phái Ấn tượng. Và đến năm 1900, ông đã tạo cho mình một vị thế vững chắc, đứng đầu trong top họa sĩ vẽ tranh phong cảnh.
Tranh của ông sáng tác thường tái hiện lại những ấn tượng đầu tiên về khung cảnh mà họa sĩ cảm nhận được. Những sự phối trộn về màu sắc, độ phản chiếu của ánh sáng được mô tả một cách chân thực nhất. Nội dung tranh của Claude Monet cũng rất giản dị và mộc mạc. Đó có thể chỉ là những đống rơm, những bông hoa súng trên mặt nước tĩnh lặng, những khóm cây, tảng núi đá… Tất cả đều là những hình ảnh vô tri vô giác được Claude Monet thổi hồn vào qua những nét cọ ma thuật. Những bức tranh phong cảnh được ông vẽ mang màu sắc chân thực, tươi tắn, rất thiên nhiên.
Sinh thời, ông triển lãm không nhiều, chỉ có bốn cuộc trưng bày chính: Tuyển chọn các tác phẩm năm 1900; London: Sông Thames năm 1904; Hoa Lily: Phong cảnh sông nước năm 1909 và Venice năm 1912.
Claude Monet mất ngày 5 tháng 12 năm 1926, được chôn tại nghĩa địa của nhà thờ Giverny.