• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đánh thức năng lực vô hạn
  3. Trang 11

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 27
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 27
  • Sau

Chương 6

LÀM CHỦ TRÍ TUỆ

“Đừng bới lông tìm vết, hãy tìm biện pháp khắc phục.”

— Henry Ford

Mô hình thay đổi mà tôi và Lập trình Ngôn ngữ Tư duy (NLP) hướng dẫn rất khác với mô hình được nhiều trường phái trị liệu sử dụng. Nhiều chuyên gia trị liệu tin rằng để có thể thay đổi, bạn phải hồi tưởng lại những trải nghiệm khủng khiếp và thực hiện nhiều lần như vậy. Nghĩa là để cho những trải nghiệm đau thương bùng lên, đến khi không dung chứa nổi nữa thì sẽ nổ tung. Theo các chuyên gia trị liệu, đó là cách duy nhất con người có thể thay đổi. Chúng ta phải khơi dậy những chuyện đã qua và chịu đựng đau đớn thêm lần nữa trước khi quyết định thay đổi tất cả.

Kinh nghiệm cho tôi biết rằng đó là một trong những cách kém hiệu quả nhất để giúp mọi người giải quyết vấn đề của họ. Khi bạn yêu cầu một người trải nghiệm lại những thương tổn khủng khiếp, khả năng để họ có những hành động và kết quả viên mãn sẽ bị hạn chế trầm trọng. Sự thật là phương pháp này có thể khiến mọi người củng cố thêm những mẫu hình mang lại đau khổ. Trải nghiệm điều này càng nhiều, bạn càng dễ lặp lại nó. Đó là lý do vì sao những chuyên gia trị liệu này thường mất rất nhiều thời gian để đạt được kết quả như ý.

Phương pháp truyền thống vẫn tạo ra kết quả. Tuy nhiên, có phương pháp nào cho ra những kết quả tương tự trong thời gian ngắn hơn và ít gây đau khổ hơn cho bệnh nhân không? Có – nếu chúng ta làm theo những gì Bandler và Grinder đã thực hiện. Bằng cách hiểu cặn kẽ về hoạt động của não bộ, bạn có thể trở thành chuyên gia trị liệu, chuyên gia tham vấn cho riêng mình. Bạn có thể làm được nhiều hơn thế, như thay đổi cảm giác, cảm xúc hoặc hành vi của mình chỉ trong chốc lát.

Để tạo ra kết quả mỹ mãn, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tạo ra một mô hình mới cho quá trình thay đổi. Hãy xem não bộ cũng giống như chiếc máy hát. Bất kỳ trải nghiệm nào cũng sẽ được ghi lại và được lưu giữ trong não giống như những chiếc đĩa nhạc. Chúng có thể phát ra bất cứ lúc nào nếu đúng yếu tố kích hoạt.

Nếu kế hoạch điều trị của bạn bao gồm việc bấm đi bấm lại nút khơi dậy nỗi đau, có thể bạn sẽ củng cố thêm cho trạng thái tiêu cực mà bạn đang muốn thay đổi. Do vậy, bạn cần phải làm điều gì đó hoàn toàn khác. Có thể bạn chỉ cần lập trình lại máy hát. Bạn nhấn cùng một nút, nhưng thay vì phát ra những bài hát u buồn, nó sẽ phát ra những bài mê ly, ngây ngất. Hoặc bạn có thể ghi âm lại đĩa hát – lục lại những ký ức cũ và thay đổi chúng.

Không cần trải nghiệm lại tất cả những điều đã qua để thay đổi trạng thái của mình. Những gì ta cần làm là thay đổi cách nhìn nhận từ tiêu cực sang tích cực.

“Không điều gì quyền lực hơn chính bản thân tôi, khi tôi trao sức mạnh cho nó thông qua những suy nghĩ có ý thức của mình.”

— Anthony Robbins

Chúng ta hình thành nên hiển thị nội tại thông qua 5 giác quan – thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác và khứu giác. Nói cách khác, chúng ta trải nghiệm thế giới thông qua 5 giác quan này. Vì vậy, bất cứ trải nghiệm nào chúng ta lưu giữ trong tâm trí đều được tái hiện thông qua các giác quan này, đặc biệt là 3 phương thức chính: hình ảnh, âm thanh và xúc giác/vận động.

Có hai điều mà chúng ta có thể làm khác đi để thay đổi cách nhìn nhận/hiển thị nội tại của bản thân: hình dung/diễn đạt điều gì (ví dụ, tưởng tượng thay đổi trường hợp xấu nhất bằng trường hợp khả quan nhất), và hình dung/diễn đạt như thế nào. Nhiều người sở hữu những “chiếc khóa” có khả năng kích hoạt não bộ phản ứng theo cách thức nhất định nào đó. Ví dụ, một số người nhận thấy việc tưởng tượng ra một điều gì đó có thể thúc đẩy họ mạnh mẽ, trong khi những người khác nhận thấy âm điệu khi họ tự trò chuyện với bản thân giúp thúc đẩy tạo nên sự khác biệt lớn nơi họ. Có một số cách thức chủ chốt để kích hoạt phản ứng tức thời. Một khi ta khám phá ra những cách thức khác nhau để thấu hiểu sự việc và cách chúng ảnh hưởng đến ta như thế nào, từ đó ta có thể điều khiển tâm trí mình và bắt đầu nhìn nhận mọi việc theo cách thúc đẩy thay vì giới hạn mình.

Hãy nhớ lại một kỷ niệm thú vị gần đây của bạn. Thực sự bước vào trải nghiệm đó. Nhìn lại những gì bạn đã thấy: sự kiện, hình ảnh, màu sắc, độ sáng… Nghe lại những gì bạn đã nghe: giọng nói, âm thanh… Cảm nhận những gì bạn đã cảm nhận: cảm xúc, nhiệt độ… Trải nghiệm chính là như vậy.

Bây giờ, hãy tách mình ra, cảm nhận bạn đang bước ra khỏi hoàn cảnh ấy và quan sát chính mình. Tưởng tượng bạn đang theo dõi chính mình như đang xem một bộ phim. Bạn cảm thấy khác như thế nào? Cảm xúc nào mãnh liệt hơn, tình huống thứ nhất hay thứ hai? Sự khác biệt ở đây đó là một tình huống là trải nghiệm có liên quan, tình huống kia là trải nghiệm tách biệt.

CÁC PHƯƠNG THỨC TẬP TRUNG, NHẬN THỨC THƯỜNG GẶP & CÁC TIỂU TÌNH THÁI

Thị giác

1. Là bộ phim sống động hay hình ảnh tĩnh

2. Hình ảnh là bức tranh toàn cảnh hay bị đóng khung (nếu đóng khung, hình dạng của khung là gì)

3. Có màu hay trắng đen

4. Độ sáng

5. Kích cỡ hình ảnh – kích thước thật, to hơn hay nhỏ hơn

6. Kích cỡ của những vật trọng yếu

7. Bạn ở trong bối cảnh hay quan sát từ xa

8. Khoảng cách từ hình ảnh đến bạn

9. Khoảng cách từ vật trung tâm đến bạn

10. Hình ảnh 3 chiều (3D)

11. Cường độ màu sắc (hoặc đen, trắng)

12. Độ tương phản

13. Chuyển động (nếu có, nhanh hay chậm)

14. Trọng tâm tập trung (phần nào – trong hay ngoài)

15. Tập trung không liên tục hay ổn định

16. Góc nhìn

17. Số lượng hình ảnh

18. Vị trí

19. Yếu tố khác

Thính giác

1. Âm lượng

2. Phách – phách mạnh hay phách nhẹ

3. Nhịp – đều hay bất thường

4. Sự nhấn nhá

5. Nhịp độ

6. Khoảng dừng

7. Thanh điệu

8. Âm sắc (chất lượng, vang vọng từ đâu)

9. Tính độc đáo của âm thanh – đục, êm dịu, chói tai...

10. Nguồn phát ra âm thanh di chuyển xung quanh

11. Vị trí

12. Yếu tố khác

Xúc giác/Vận động

1. Nhiệt độ

2. Kết cấu bề mặt

3. Độ rung

4. Áp suất

5. Chuyển động

6. Thời lượng

7. Đều đặn hay gián đoạn

8. Cường độ

9. Trọng lượng

10. Mật độ

11. Vị trí

12. Yếu tố khác

Cơn đau

1. Ngứa ran

2. Nóng hay lạnh

3. Căng cơ

4. Rõ rệt hay âm ỉ

5. Áp lực

6. Khoảng thời gian

7. Mức độ liên tục (như: nhoi nhói)

8. Vị trí

9. Yếu tố khác

Mọi hành động của con người đều là kết quả của trạng thái được tạo ra qua các hiển thị nội tại – những hình ảnh chúng ta ghi lại, những điều chúng ta tự nói với bản thân mình v.v. Cũng giống như đạo diễn có thể thay đổi góc quay, âm lượng, thể loại nhạc, tốc độ và mức độ chuyển động, màu sắc và chất lượng hình ảnh, theo đó tạo ra được trạng thái mong muốn ở khán giả; tương tự, bạn có thể điều khiển trí não mình y như vậy để tạo ra trạng thái hoặc hành động hỗ trợ cho mục tiêu, hay nhu cầu cao nhất của bạn.

Tôi sẽ bày cách cho bạn. Một điều rất quan trọng là bạn phải làm những bài tập này. Bạn có thể đọc từng bài tập một, dừng lại và thực hành trước khi chuyển sang bài tập sau. Sẽ rất thú vị nếu bạn cùng làm với người khác. Hãy thay phiên nhau hướng dẫn và thực hành.

Hãy nhớ lại một kỷ niệm đẹp, có thể là mới đây hoặc lâu rồi. Chỉ cần nhắm mắt lại, thư giãn và suy nghĩ về nó. Lưu lại hình ảnh đó và hình dung nó sáng hơn, sáng hơn nữa. Khi bạn làm cho hình ảnh sáng hơn, hãy lưu ý đến những thay đổi trong tâm trạng của bạn. Sau đó, đem hình ảnh trong ký ức lại gần với bạn hơn. Dừng lại và làm cho nó to hơn. Chuyện gì đã xảy ra khi bạn phóng to hình ảnh? Có phải cường độ trải nghiệm sẽ thay đổi? Với đa số mọi người, việc làm cho hình ảnh về một kỷ niệm đẹp trở nên to hơn, sáng hơn và gần hơn sẽ giúp cho kỷ niệm ấy càng đẹp và thú vị hơn, theo đó bạn sẽ cảm thấy vui vẻ và mạnh mẽ hơn.

Tất cả mọi người đều có thể tiếp cận 3 phương thức nhìn nhận này – hình ảnh, âm thanh và các tín hiệu vận động/xúc giác. Nhưng mỗi người sẽ chọn những phương thức khác nhau, với mức độ khác nhau. Nhiều người mạnh về tư duy qua khung hình ảnh. Họ phản hồi lại với những hình ảnh họ ghi trong đầu. Trong khi những người khác lại chú trọng vào âm thanh, nhiều người khác thì chuộng các tín hiệu vận động, những người này thường phản ứng mạnh đối với những gì họ nghe hoặc chạm vào. Vì vậy, sau khi đã thay đổi các khung hình ảnh, bạn hãy làm điều tương tự cho các phương thức khác.

Hãy nhớ lại kỷ niệm đẹp mà chúng ta đã thực hành nãy giờ. Tăng cường độ của âm thanh và giọng nói mà bạn nghe. Cho thêm nhịp điệu hoặc thay đổi âm sắc. Làm cho các âm thanh thêm mạnh mẽ và quả quyết. Bây giờ, bạn thay đổi các tín hiệu vận động/xúc giác. Làm cho ký ức ấm áp hơn, êm và mềm mại hơn. Bây giờ, bạn cảm thấy thế nào về trải nghiệm đó?

Không phải tất cả mọi người đều phản ứng theo cách giống nhau. Đặc biệt là các tín hiệu vận động/xúc giác thường khơi gợi những phản ứng khác nhau ở mỗi người. Hầu hết chúng ta thấy rằng hình ảnh sáng và to sẽ trở nên nổi bật hơn. Nó mang lại cảm nhận mạnh, khiến nó thật lôi cuốn và quan trọng nhất là làm cho trạng thái của ta trở nên tích cực, mạnh mẽ hơn. Khi tôi cho thực hành bài tập này trong các buổi tư vấn, tôi có thể nhìn thấy chính xác việc gì đang diễn ra trong tâm trí con người bằng cách theo dõi những biểu hiện sinh lý. Hơi thở của anh ta bắt đầu mạnh lên, vai thẳng dần, cơ mặt giãn ra và dáng điệu trở nên nhanh nhẹn, hoạt bát hơn.

Hãy thử làm tương tự với hình ảnh tiêu cực. Nghĩ về việc đã làm cho bạn buồn và đau khổ. Bây giờ, làm hình ảnh đó sáng lên. Đem nó đến gần bạn hơn. Làm cho nó to hơn. Chuyện gì đang diễn ra trong tâm trí bạn? Hầu hết mọi người cảm thấy đau khổ hơn. Cảm giác tồi tệ mà họ đã trải qua giờ lại mãnh liệt hơn bao giờ hết. Bây giờ, bạn hãy trả hình ảnh về lại như lúc đầu. Chuyện gì xảy ra khi bạn làm cho hình ảnh nhỏ hơn, mờ hơn và xa hơn? Hãy thử và ghi nhận sự khác biệt trong cảm xúc của bạn. Bạn sẽ phát hiện ra rằng cảm giác tồi tệ đang mất dần.

Thực hiện tương tự với các phương thức khác. Lắng nghe tiếng nói từ bên trong, hoặc bất cứ âm thanh nào đang vang lên trong quá trình trải nghiệm, với âm thanh to và vang. Nghe có vẻ rõ ràng, chắc chắn. Khả năng là điều tương tự sẽ xảy ra – cảm giác tiêu cực sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Xin nhắc lại một lần nữa, tôi không muốn các bạn hiểu việc này theo lý thuyết. Tôi muốn bạn thực hành với sự tập trung cao độ, và ghi chú cẩn thận những phương thức nào tác động lên bạn mạnh nhất. Bạn có thể thử qua tất cả các bước (trong đầu mình), nhận thức các thao tác thay đổi hình ảnh tác động đến cảm xúc của bạn ra sao.

Hãy thực hiện tương tự đối với thính giác. Giảm cường độ của giọng nói bạn đang nghe. Làm cho nó trở nên thì thào. Bỏ qua nhịp điệu và sự sôi động. Làm tương tự đối với các tín hiệu vận động/xúc giác. Làm cho hình ảnh trở nên mỏng manh, mềm mại hơn. Chuyện gì diễn ra với hình ảnh tiêu cực khi bạn trải qua quá trình này? Hình ảnh đó sẽ mờ nhạt đi – mất dần hiệu lực, ít gây đau đớn, hoặc thậm chí không còn tồn tại. Bạn có thể làm cho những trải nghiệm đem đến đau khổ trong quá khứ mất đi hiệu lực, nhạt nhòa và biến mất hoàn toàn.

Chắc chắn bạn đã cảm nhận được sức mạnh của kỹ thuật này thông qua bài tập thực hành ngắn vừa rồi. Chỉ trong vài phút, bạn đã làm cho cảm xúc tích cực trở nên mạnh mẽ hơn, đồng thời làm cho hình ảnh tiêu cực mất đi uy lực của nó đối với bạn.

Về cơ bản, bạn có thể sống theo một trong hai cách: để trí não hoạt động theo cách của nó như trong quá khứ (để nó lóe lên bất kỳ hình ảnh, âm thanh hay cảm giác nào, rồi bạn phản ứng lại ngay lập tức), hoặc điều khiển trí não của bạn một cách có ý thức. Bạn có thể lồng vào các tín hiệu mà bạn muốn. Bạn có thể khiến cho những trải nghiệm và hình ảnh tồi tệ mất hết sức mạnh của chúng. Bạn có thể nhìn nhận chúng theo cách mà chúng không thể chế ngự bạn, bằng cách “thu nhỏ” chúng lại cho đến khi bạn có thể xử lý chúng hiệu quả.

Bây giờ, bạn biết rằng bạn có thể làm cho những trải nghiệm tích cực trở nên mạnh mẽ hơn, làm cho những niềm vui nho nhỏ trong cuộc sống trở nên mãnh liệt. Làm sáng tầm nhìn lên, bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhàng và hạnh phúc hơn. Đấy là cách làm cho cuộc sống có thêm nhiều niềm vui, tinh hoa và sự sôi nổi.

“Không có gì là tốt hay xấu, chính suy nghĩ đã khiến nó trở nên như vậy.”

— William Shakespeare

Vương quốc của bạn chính là trí não của bạn. Bạn có thể điều khiển vương quốc của mình nếu bạn bắt đầu kiểm soát cách bạn nhìn nhận những trải nghiệm trong cuộc sống. Phương thức nhận thức mà chúng ta sử dụng sẽ tác động đến cách trí não cảm nhận.

Có rất nhiều ví dụ về sức mạnh của hiển thị nội tại được thể hiện qua ngôn ngữ, chẳng hạn như:

  • Chúng ta muốn nói đến điều gì khi bảo rằng ai đó có một tương lai xán lạn?
  • Bạn cảm thấy như thế nào khi một người nói rằng tương lai thật u ám?
  • Ý bạn là gì khi bạn đề cập đến việc làm sáng tỏ vấn đề?
  • Chúng ta muốn nói đến điều gì khi bảo rằng ai đó đang làm to chuyện hoặc xuyên tạc một việc gì đó?
  • Mọi người có ý gì khi họ bảo rằng họ đang nặng đầu về việc gì đấy, hoặc trí não đang bị tắc nghẽn?
  • Ý bạn là gì khi bạn nói điều gì đó nghe thật bùi tai?

Những cụm từ trên là sự mô tả tỉ mỉ về những gì đang diễn ra trong tâm trí ta. Hãy nhớ lại vài phút trước khi bạn phóng to một kỷ niệm đau khổ. Bạn có nhớ cách nó “tô đậm” những điểm tiêu cực về kỷ niệm và khiến bạn rơi vào trạng thái tiêu cực? Còn cách nào để mô tả trải nghiệm ấy tốt hơn mà không làm to chuyện? Hãy nhớ rằng ta điều khiển trí não mình, chứ nó không kiểm soát ta.

Thêm một ví dụ nữa. Lần này, hãy nghĩ đến điều gì đó khiến bạn hứng thú thực hiện. Thư giãn và tạo dựng một hình ảnh rõ ràng trong tâm trí. Bây giờ tôi sẽ hỏi bạn một vài câu. Hãy dừng lại và trả lời từng câu một. Không hề có câu trả lời đúng hay sai. Mỗi người sẽ hồi đáp theo những cách khác nhau.

Khi nhìn vào hình ảnh đó, bạn thấy:

Một bộ phim hay một khoảnh khắc?

Nhiều màu sắc hay trắng đen?

Gần hay xa?

Nằm bên trái, phải hay chính giữa?

Cao, thấp hay ngang tầm nhìn?

Liên quan đến bạn – bạn tận mắt nhìn thấy, hay tách biệt với bạn – bạn chứng kiến... bạn đang nhìn thấy nó?

Hình ảnh bị đóng khung, hay trải rộng, kéo dài tít tắp?

Rạng rỡ hay lu mờ?

Tối hay sáng?

Nổi bật hay bị chìm đi?

Khi thực hiện bài tập này, bạn hãy ghi lại tiểu tình thái nào là hiệu quả nhất đối với bạn.

Bây giờ, chuyển sang phương thức âm thanh và các tín hiệu vận động/xúc giác.

Khi bạn nghe được điều gì đó, bạn nghe thấy giọng nói của mình hay giọng của người khác?

Đấy là đoạn đối thoại hay độc thoại?

Âm thanh to hay nhỏ?

Âm thanh trầm bổng hay đều đều?

Có nhịp điệu hay ngắt quãng?

Nhanh hay chậm?

Âm thanh xuất hiện rồi lặng đi hay kéo dài lê thê?

Điều chính yếu mà bạn nghe được hoặc nói với chính mình là gì?

Âm thanh đó phát ra từ đâu?

Khi bạn cảm nhận về nó, bạn cảm thấy nó chói tai hay bùi tai?

Trầm ấm hay lạnh lùng?

Chát chúa hay dịu êm?

Mềm mỏng hay cứng nhắc?

Là chất rắn hay chất lỏng?

Sắc bén hay cùn?

Cảm giác đó đang ở đâu trên thân thể bạn?

Chua chát hay ngọt ngào?

Ban đầu, bạn có thể cảm thấy một số câu hỏi rất khó để trả lời. Nếu bạn có xu hướng hình thành các hiển thị nội tại chủ yếu dựa trên các tín hiệu vận động, có thể bạn không tưởng tượng ra hình ảnh nào. Nhưng đó chỉ là niềm tin, và chừng nào bạn còn tin thì nó còn là sự thật. Khi bạn nhận thức rõ hơn về các phương thức riêng của mình, bạn sẽ học được cách kết hợp với các phương thức khác để cải thiện khả năng nhận thức hiện thời. Nghĩa là nếu bạn là người thiên về thính giác, bạn sẽ cố gắng nắm bắt và trải nghiệm những tín hiệu âm thanh. Vì vậy, điều đầu tiên bạn nhớ là những gì bạn nghe được vào lúc ấy. Khi bạn rơi vào trạng thái đó và có những hiển thị nội tại mạnh mẽ, bạn sẽ dễ dàng tiếp cận hình ảnh để làm phương thức nhận thức bằng hình ảnh hoạt động, hoặc tiếp cận các tín hiệu vận động/xúc giác để trải nghiệm phương thức nhận thức bằng vận động/xúc giác.

Bây giờ, hãy xem xét cùng lúc những điều mà bạn đã có động lực thực hiện (gọi là trải nghiệm thứ 1) và điều bạn muốn có động lực thực hiện (gọi là trải nghiệm thứ 2). Trước tiên, hãy áp dụng những tiểu tình thái quen thuộc thúc đẩy bạn, rồi từ từ điều chỉnh, đưa vào những tiểu tình thái mà chưa làm bạn cảm thấy có động lực để thực hiện (trải nghiệm thứ 2), làm cho nó tương hợp với tiểu tình thái của trải nghiệm thứ 1. Khả năng là trải nghiệm thứ 1 sẽ rõ hơn trải nghiệm thứ 2. Tập trung vào sự khác biệt giữa chúng, phóng to các hiển thị nội tại của trải nghiệm thứ 2 để chúng càng lúc càng rõ như các hiển thị nội tại của trải nghiệm thứ 1.

Giờ thì bạn cảm thấy thế nào về trải nghiệm thứ 2? Bạn cảm thấy nó thúc đẩy bạn hơn? Sẽ là như vậy nếu bạn làm cho phương thức của trải nghiệm thứ 2 giống với trải nghiệm thứ 1 (ví dụ, nếu trải nghiệm thứ 1 là một bộ phim và trải nghiệm thứ 2 là một khung ảnh, bạn hãy biến trải nghiệm thứ 2 thành một bộ phim). Tiếp tục thực hiện cho các tiểu tình thái thuộc phương thức thị giác, thính giác và xúc giác/vận động.

Hiển thị nội tại giống nhau sẽ tạo ra những cảm nhận, trạng thái tương tự. Những cảm nhận hoặc trạng thái giống nhau sẽ kích hoạt những hành vi tương tự. Nếu bạn tìm ra được những điều cụ thể có thể thúc đẩy bạn thực hiện việc gì đó, chắc chắn bạn sẽ biết cần phải làm gì với trải nghiệm của mình để tạo động lực cho bản thân. Từ trạng thái được thúc đẩy, bạn có thể hành động hiệu quả.

Điều quan trọng chúng ta cần lưu ý chính là có những tiểu tình thái trọng yếu sẽ ảnh hưởng đến chúng ta nhiều hơn các tiểu tình thái khác. Ví dụ, tôi làm việc với một cậu bé cảm thấy không có động lực để đi học. Phương thức thị giác hầu như không lay chuyển được cậu. Tuy nhiên, khi cậu ta tự nhủ với bản thân bằng những lời lẽ nào đó với một giọng điệu cụ thể, ngay lập tức cậu cảm thấy muốn đến trường. Thêm vào đó, khi cậu cảm thấy có động lực, các cơ bắp tay cũng căng lên. Còn khi không cảm thấy có động lực hoặc vào những lúc tức giận, cơ hàm của cậu căng hơn và giọng nói thay đổi. Chỉ bằng cách thay đổi hai tiểu tình thái này (ngôn từ và giọng điệu), tôi có thể tức thời chuyển đổi cậu bé từ trạng thái buồn bã, ù lì sang trạng thái đầy nhiệt huyết.

Là người ham học hỏi, thích mô phỏng, hẳn là bạn luôn tò mò về cách ai đó tạo ra kết quả. Ví dụ, mọi người tìm đến tôi để được tư vấn và thường nói: “Tôi đang rất chán nản”. Tôi không hỏi: “Vì sao bạn chán?”, rồi yêu cầu họ giãi bày, kể lể. Cách đó càng đẩy họ vào trạng thái chán nản. Tôi không muốn biết tại sao họ chán nản; tôi muốn biết cách họ... chán nản. Vì thế, tôi sẽ hỏi: “Bạn làm việc đó như thế nào?”. Thường thì tôi sẽ nhận được cái nhìn sửng sốt, vì người ta không nhận ra rằng bản thân họ đã làm điều gì đó (về mặt tâm sinh lý), rồi mới dẫn đến chán nản. Vì vậy, tôi hỏi: “Nếu tôi ở trong cơ thể bạn, làm cách nào để tôi có thể cảm thấy chán nản? Tôi sẽ tạo ra hình ảnh nào? Tôi sẽ tự nhủ điều gì? Tôi sẽ nói như thế nào? Sử dụng giọng điệu nào?”. Quá trình này tạo ra những hành vi cụ thể về tinh thần và thể chất, theo đó mang lại những cảm xúc cụ thể. Nếu bạn thay đổi cấu trúc của quá trình này, trạng thái/cảm xúc sẽ thay đổi.

Bây giờ, bạn đã có thể vận hành trí não để tạo ra những trạng thái hỗ trợ bạn có được những trải nghiệm sống như mong muốn và xứng đáng có. Chẳng hạn như:

Bạn trở nên thất vọng hoặc chán nản bằng cách nào?

Có phải bạn đang trầm trọng hóa mọi việc trong đầu mình?

Có phải bạn tự nhủ với mình bằng giọng điệu buồn rầu?

Bây giờ, làm cách nào để tạo ra cảm giác vui nhộn, hưng phấn?

Có phải bạn làm cho hình ảnh sáng lên?

Hình ảnh di chuyển nhanh hay chậm?

Bạn nói với bản thân bằng giọng điệu nào?

Cuộc sống của bạn sẽ thay đổi khi bạn áp dụng hiệu quả các công cụ này. Giống như bất kỳ kỹ năng nào, bạn phải thường xuyên luyện tập. Một số người nghĩ rằng thay đổi các tiểu tình thái là điều hay, nhưng làm thế nào để chúng không quay trở về tình trạng ban đầu?

Cách mà chúng ta có thể làm là thông qua Mô thức Vút nhanh. Chúng ta có thể áp dụng mô thức này cho những vấn đề nan giải nhất và những thói quen xấu. Mô thức Vút nhanh sẽ thay đổi những hiển thị nội tại vốn thường tạo ra trạng thái đau khổ và tự động kích hoạt các hiển thị nội tại mới, đưa chúng ta vào trạng thái vui vẻ như mong muốn. Ví dụ, khi bạn nhận ra các hiển thị nội tại khiến bạn cảm thấy thèm ăn và ăn uống vô độ, với Mô thức Vút nhanh, bạn có thể tạo ra những hiển thị nội tại khác mạnh hơn, khiến bạn muốn đẩy thức ăn ra xa. Điều tuyệt vời của Mô thức Vút nhanh là khi bạn khắc sâu nó vào trong tâm trí, bạn sẽ không cần suy nghĩ về nó nữa. Quá trình sẽ diễn ra một cách tự động mà không cần nỗ lực. Sau đây là các bước thực hiện:

BƯỚC 1

Xác định hành vi mà bạn muốn thay đổi.

Tạo ra hình ảnh về hành vi ấy như thể bạn đang tận mắt chứng kiến. Nếu bạn muốn ngừng cắn móng tay, hãy tưởng tượng ra hình ảnh bạn đang nâng bàn tay lên, đưa các ngón tay vào miệng, rồi cắn.

BƯỚC 2

Tạo ra hình ảnh về hành vi mới mà bạn mong muốn.

Ví dụ, bạn có thể tưởng tượng ra hình ảnh bạn đưa ngón tay ra khỏi miệng, các ngón tay được cắt giũa hoàn hảo và bản thân bạn đang ăn mặc chỉn chu, lộng lẫy. Trông bạn thật tự tin, tự chủ.

Chúng ta đang tạo ra hình ảnh (hiển thị nội tại) lý tưởng, sẽ kéo sự chú ý của bạn theo hướng đó.

BƯỚC 3

“Vút nhanh” hai hình ảnh khiến cho trải nghiệm tiêu cực tự động kích hoạt trải nghiệm tích cực.

Khi bạn hình thành được cơ chế kích hoạt này, bất cứ yếu tố nào đã từng gợi lên trong bạn ý muốn cắn móng tay thì nay sẽ kích hoạt trạng thái hướng bạn đến hình ảnh lý tưởng.

“Vút nhanh” như thế nào?

Tưởng tượng ra một hình ảnh lớn và sáng về hành vi bạn muốn thay đổi. Sau đó, ở góc phải cuối hình, tạo một hình ảnh tối, nhỏ của hành vi mà bạn muốn hướng đến.

Trong vòng chưa tới một giây, hãy phóng to và tăng độ sáng của hình ảnh mới lên, lấn át hình ảnh của hành vi mà bạn không muốn tiếp tục.

Trong quá trình thực hiện, hãy nói “Ồ!” với sự phấn khích. Nghe có vẻ hơi trẻ con; tuy nhiên, khi bạn nói “Ồ!” một cách thích thú, nó sẽ gửi đến não những tín hiệu tích cực và mạnh mẽ.

Bây giờ, trước mặt bạn là một hình ảnh to lớn, sáng, đầy màu sắc và rõ nét về hành vi bạn muốn thể hiện. Hình ảnh cũ đã bị chèn ép, bung vỡ thành từng mảnh.

Chìa khóa thành công của mô thức này là tốc độ và sự lặp lại. Hãy trải nghiệm cảm giác tuyệt vời khi thấy mọi việc diễn ra theo ý bạn muốn. Sau đó, mở to mắt trong một giây để phá vỡ trạng thái. Nhắm mắt lại, thực hiện lại quá trình “vút nhanh”. Thực hiện liên tục 5 hoặc 6 lần, nhanh nhất có thể. Nên nhớ rằng điểm mấu chốt là tốc độ và niềm vui khi thực hiện.

Mô thức Vút nhanh cho ra kết quả cực kỳ nhanh vì não chúng ta thường tránh những điều khó chịu và thích tiếp cận những điều thú vị. Bằng cách làm cho hình ảnh “không cắn móng tay” hấp dẫn hơn hình ảnh “cắn móng tay”, bạn gửi đến não tín hiệu mạnh mẽ về hành vi cần được hướng đến. Cách làm “vút nhanh” có thể không thành công nếu như hình ảnh bạn chọn không đủ thú vị, đáng khao khát. Đôi khi bạn có thể thêm vào những tiểu tình thái khác, chẳng hạn như mùi hương hoặc vị.

Một biến thể khác của Mô thức Vút nhanh là tưởng tượng ra một cái ná cao su ở ngay trước mặt bạn. Giữa giàn ná là hình ảnh về hành vi mà bạn muốn thay đổi. Đặt hình ảnh bạn muốn hướng đến lên dây cao su. Tưởng tượng hình ảnh này đang bị kéo lùi về sau cho đến khi ná cao su giãn hết mức có thể. Sau đó thả tay ra. Tưởng tượng nó đi xuyên qua hình ảnh cũ và lao thẳng vào tâm trí bạn. Khi bạn làm việc này (trong tâm trí), hãy kéo sợi dây thun ra thật xa trước khi buông tay. Nói “Ồ!” khi thả tay ra phá tan hình ảnh cũ. Nếu làm đúng như vậy, hình ảnh mới sẽ tiến đến bạn thật nhanh, đến mức bạn như bật ra sau.

Chúng ta không được sinh ra với niềm tin sẵn có, và niềm tin có thể thay đổi. Khi còn bé, chúng ta tin vào những điều mà bây giờ chúng ta cho rằng nó hoàn toàn vô lý. Hãy kết thúc chương này bằng một câu hỏi quan trọng: Làm thế nào để tiếp nhận những niềm tin hữu ích và bỏ đi những niềm tin tiêu cực? Bước đầu tiên là nhận thức được ảnh hưởng mạnh mẽ của chúng đối với cuộc sống của chúng ta. Bước thứ hai là thay đổi cách bạn truyền đạt niềm tin này đến bản thân.

Niềm tin là một trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, chắc chắn về con người, sự vật, ý tưởng hoặc trải nghiệm nào đó trong cuộc sống. Khó khăn duy nhất mà nhiều người gặp phải là niềm tin rằng chúng ta không thể thay đổi mọi thứ nhanh như vậy. Đây cũng có thể là một niềm tin mà bạn muốn thay đổi!