Có trải nghiệm tôn giáo không? Tìm kiếm chân lý; ý nghĩa của cuộc tìm kiếm. “Một trí não tôn giáo là gì?”, “Phẩm chất của một trí não không còn trải nghiệm là gì?”. Kỷ luật; đức hạnh; trật tự. Thiền không phải là một sự trốn tránh. Chức năng của kiến thức và sự giải thoát khỏi cái đã biết. “Thiền là khám phá xem liệu có một địa hạt nào không bị ô nhiễm bởi cái đã biết không.” “Bước đầu tiên là bước cuối cùng.”
Các câu hỏi: Cái tương tự với rác rưởi; nhận thức; ý thức; tình yêu; thời gian tâm lý.
Krishnamurti: Ta đã nói rằng sẽ cùng nhau thảo luận một vấn đề vô cùng phức tạp, đó là: có chăng trải nghiệm tôn giáo và những ý nghĩa hàm chứa trong thiền là gì? Nếu quan sát, ta sẽ thấy khắp nơi trên thế giới con người luôn luôn tìm kiếm điều gì đó vượt qua cái chết của chính mình, vượt qua các vấn đề của chính mình, điều gì đó trường tồn, chân thực và phi thời gian. Con người gọi đó là Thượng đế, họ gán cho nó nhiều cái tên, và phần đông chúng ta đều tin tưởng vào điều gì thuộc dạng đó mà chưa bao giờ thật sự trải nghiệm.
Nhiều tôn giáo khác nhau đã hứa hẹn rằng nếu bạn tin tưởng vào một số hình thức lễ nghi, giáo điều, các đấng cứu tinh, thì nếu bạn sống theo một cách nào đó, bạn có thể tiếp cận với điều lạ thường này, dù ta gọi nó bằng cái tên nào đi nữa. Và những người đã trực tiếp trải nghiệm nó, đã làm điều đó theo tình trạng quy định, niềm tin của họ, theo ảnh hưởng của môi trường và văn hóa của họ.
Rõ ràng tôn giáo đã mất hết ý nghĩa của nó, bởi vì đã có chiến tranh tôn giáo; tôn giáo đã không giải đáp được tất cả các vấn đề của ta. Các tôn giáo đã chia rẽ con người. Họ đã tạo ra một thứ ảnh hưởng văn minh nào đó, nhưng họ không thay đổi con người một cách triệt để. Khi ta bắt đầu tìm hiểu xem có trải nghiệm tôn giáo hay không và trải nghiệm đó là gì, tại sao người ta gọi nó là “tôn giáo”, thì rõ ràng trước hết ta phải vô cùng trung thực. Không phải trung thực theo một nguyên tắc, một tín điều, hay theo một thái độ sống dấn thân nào đó, mà nhìn mọi thứ trung thực để thấy mọi thứ như chúng là, không có bất kỳ sự xuyên tạc nào, không chỉ ở thế giới bên ngoài mà cả thế giới nội tâm nữa: không bao giờ được tự lừa dối bản thân. Bởi vì rất dễ rơi vào tình trạng lừa dối nếu người ta khao khát đạt được một dạng trải nghiệm, gọi nó là tôn giáo hay cái tên nào khác – chẳng hạn khi người ta dùng thuốc gây ảo giác. Bấy giờ bạn đã bị vướng mắc trong một dạng ảo tưởng nào đó.
Nếu có thể, ta phải tự mình khám phá xem trải nghiệm tôn giáo là gì. Ta phải hết sức khiêm nhường và trung thực, tức là không bao giờ đòi hỏi kinh nghiệm, không bao giờ yêu cầu một thực tại hay một sự thành tựu cho chính mình. Do đó, ta phải quan sát thật kỹ những ham muốn, bám chấp và nỗi sợ của riêng ta, thấu hiểu chúng một cách trọn vẹn, nếu ta có thể làm được như vậy, thì trí não không có cách gì bị làm cho méo mó, do đó sẽ không có ảo tưởng, không có lừa dối. Và ta cũng phải đặt câu hỏi: trải nghiệm nghĩa là gì?
Tôi không biết liệu bạn có đi sâu vào câu hỏi đó không. Đa số chúng ta buồn chán với những trải nghiệm bình thường mỗi ngày. Ta mệt mỏi với tất cả chúng, và càng tinh khôn, hiểu biết, ta lại càng chỉ muốn sống trong hiện tại – dù điều đó có nghĩa là gì đi nữa – và sáng tạo ra một thứ triết lý về hiện tại. Trải nghiệm có nghĩa là kinh qua, trải qua, đi đến cùng và chấm dứt với trải nghiệm đó. Nhưng điều bất hạnh đối với phần đông chúng ta là mỗi trải nghiệm đều để lại một vết sẹo, một ký ức, niềm vui hay nỗi buồn, và ta chỉ muốn giữ lại những trải nghiệm vui. Khi ta đòi hỏi có được trải nghiệm ở bất kỳ loại nào, tâm linh, tôn giáo, hay siêu việt, trước tiên ta phải thử khám phá xem liệu có một trải nghiệm nào như thế không, và bản thân trải nghiệm có ý nghĩa gì. Nếu bạn trải nghiệm điều gì mà không thể nhận biết nó, thì trải nghiệm đó sẽ ngừng tồn tại. Một trong những ý nghĩa thiết yếu của trải nghiệm là sự nhận ra. Và khi có sự nhận ra, thì nghĩa là nó đã được biết, đã được trải nghiệm, nếu không bạn không thể nhận ra nó.
Vì thế, khi người ta nói về trải nghiệm tôn giáo, tâm linh hay siêu việt – từ đó đã bị dùng sai – bạn hẳn đã biết về nó rồi, để có thể nhận ra rằng bạn đang trải nghiệm điều gì đó khác với trải nghiệm thông thường. Có vẻ hợp lý và đúng đắn khi cho rằng trí não phải có khả năng nhận ra trải nghiệm, và sự nhận ra hàm ý điều gì đó bạn đã biết rồi, do đó, nó không có gì mới mẻ.
Khi bạn muốn trải nghiệm trong lĩnh vực tôn giáo, đó là vì bạn không giải quyết được các vấn đề của bạn, những lo âu, tuyệt vọng, sợ hãi và phiền muộn thường ngày, do đó bạn muốn có cái gì đó hơn thế. Trong đòi hỏi được hơn đó có sự lừa dối. Điều đó hoàn toàn logic và đúng đắn, tôi nghĩ thế. Sự logic đó không phải lúc nào cũng đúng, nhưng khi ta sử dụng logic và lý luận một cách lành mạnh, trong sáng, ta sẽ biết những giới hạn của lý luận. Mong cầu có được những trải nghiệm rộng hơn, sâu hơn, căn cơ hơn sẽ chỉ dẫn đến việc làm dài thêm con đường của cái đã biết. Tôi nghĩ điều đó thật rõ ràng, và tôi hy vọng chúng ta đang truyền đạt, chia sẻ cho nhau.
Lúc ấy, cũng trong công cuộc tìm hiểu tôn giáo này, ta tìm kiếm để khám phá xem sự thật là gì, liệu có một thực tại, liệu quả thực có một trạng thái trí não vượt thời gian hay không. Một lần nữa, tìm kiếm hàm ý là có người tìm kiếm, phải không? Vậy người ấy đang tìm kiếm điều gì? Làm thế nào người ấy biết rằng điều người ấy tìm thấy trong cuộc tìm kiếm là đúng đắn? Một lần nữa, nếu người ấy tìm thấy sự thật, ít nhất là điều người ấy nghĩ là sự thật, thì điều đó phụ thuộc vào tình trạng quy định của họ, vào kiến thức của họ, vào kinh nghiệm của họ trong quá khứ; sự tìm kiếm khi ấy đơn thuần trở thành một sự phóng chiếu thêm nữa những hy vọng, sợ hãi và khát vọng của chính họ.
Một trí não truy vấn – chứ không phải tìm kiếm – phải hoàn toàn thoát khỏi hai điều này, tức là thoát khỏi mong cầu đạt được trải nghiệm và thoát khỏi việc tìm kiếm sự thật. Ta có thể thấy lý do tại sao, bởi vì khi bạn tìm kiếm, bạn tìm đến nhiều vị thầy, đọc nhiều sách vở, tham gia các nghi lễ, vâng phục các đạo sư, vân vân, giống như lượn lờ qua các cửa hiệu xem hàng hóa cho vui. Loại tìm kiếm này không có ý nghĩa gì cả.
Do đó, khi bạn đào sâu khám phá câu hỏi này: “Một trí não tôn giáo là gì, và đâu là phẩm chất của một trí não không còn muốn trải nghiệm bất cứ điều gì?”, bạn phải khám phá xem liệu trí não có thể thoát khỏi mong cầu đạt được trải nghiệm và có thể hoàn toàn chấm dứt mọi sự tìm kiếm hay không. Ta phải xem xét, tìm hiểu mà không do bất cứ động cơ nào thúc đẩy, không do bất kỳ mục đích, dữ kiện thời gian nào và bất kể có một trạng thái phi thời gian hay không. Đào sâu khám phá nghĩa là không có bất kỳ niềm tin nào, không dính líu với bất kỳ tôn giáo nào, bất kỳ tổ chức được gọi là tâm linh nào, không vâng phục bất kỳ vị đạo sư nào, và do đó, không chịu thua bất cứ uy quyền nào – nhất là của người nói đây. Bởi vì bạn rất dễ bị ảnh hưởng, bạn ngây thơ khủng khiếp, dù bạn có thể tinh khôn, học rộng biết nhiều; nhưng vì bạn luôn háo hức, luôn mong muốn, và do đó dễ bị đánh lừa.
Vì thế, một trí não đang đào sâu khám phá vấn đề tôn giáo là gì thì phải hoàn toàn thoát khỏi mọi hình thái niềm tin, mọi hình thái nỗi sợ; bởi vì nỗi sợ, như có lần ta đã giải thích, là một yếu tố gây xuyên tạc, sinh ra bạo lực và thù địch. Cho nên, trí não đang đào sâu khám phá phẩm tính của trạng thái và động thái tôn giáo thì phải thoát khỏi điều ấy. Muốn vậy, trí não đó phải cực kỳ trung thực và khiêm nhường.
Đối với phần đông chúng ta, tính kiêu căng là một trong những chướng ngại lớn nhất. Bởi vì ta nghĩ là ta biết, bởi vì ta đọc nhiều, bởi vì ta đã dấn thân, đã tu tập theo hệ thống này, hệ thống kia, đã đi theo một vị đạo sư nào đó đang rao giảng triết lý của ông ta, ta nghĩ là ta biết, chí ít là phần nào, và đó là khởi đầu của tính kiêu căng. Khi bạn đào sâu khám phá một vấn đề kỳ lạ như thế, bạn phải tự do, thật sự không biết một chút gì về nó. Bạn thật sự không biết, phải không? Bạn không biết sự thật là gì, Thượng đế là gì – nếu có điều gì như thế – hay một trí não tôn giáo đích thực là gì. Bạn đã đọc về nó, người ta đã nói về nó suốt cả ngàn năm nay, đã xây dựng những tu viện, nhưng thật ra họ đang sống dựa vào kiến thức, kinh nghiệm và sự tuyên truyền của người khác.
Để khám phá, chắc chắn là ta phải gạt bỏ hoàn toàn mọi thứ đó, vì vậy hành động đào sâu khám phá điều này là một vấn đề cực kỳ nghiêm túc. Nếu bạn muốn đùa giỡn với nó thì có những kiểu giải trí gọi là tâm linh, tôn giáo cho bạn, nhưng đối với một trí não nghiêm túc thì chúng không mang chút giá trị nào cả.
Để đào sâu khám phá xem một trí não tôn giáo là gì, ta phải thoát khỏi chính sự quy định của ta, thoát khỏi Kitô giáo, Phật giáo, cùng với tất cả những tuyên truyền suốt hàng ngàn năm, sao cho trí não thật sự tự do để quan sát. Điều đó vô cùng khó khăn, bởi vì ta sợ phải đơn độc, phải đứng một mình. Ta muốn được an toàn, cả bên ngoài lẫn bên trong; do đó ta phụ thuộc vào người khác, dù đó là tu sĩ, người lãnh đạo, hay vị đạo sư nói rằng: “Tôi đã trải nghiệm, nên tôi biết”. Ta phải đứng hoàn toàn một mình chứ không phải bị cô lập. Có sự khác biệt rất lớn giữa cô lập và hoàn toàn một mình, là một, không phân tách. Cô lập là một trạng thái của trí não, trong đó quan hệ chấm dứt, khi trong cuộc sống và hoạt động thường nhật, bạn đã thật sự xây lên một bức tường bao quanh chính bạn, một cách cố ý hoặc vô thức, để không bị tổn thương. Sự cô lập đó hiển nhiên ngăn chặn mọi hình thái quan hệ. Đơn độc ý nói một trí não không phụ thuộc ai khác về mặt tâm lý, không luyến ái, ràng buộc vào bất cứ người nào; nó không có nghĩa là không có tình yêu – tình yêu thì không phải là ràng buộc, luyến ái. Đơn độc nói đến một trí não sâu tận bên trong không có bất kỳ cảm giác sợ hãi nào và do đó không có cảm giác xung đột nào.
Khi tiến xa vào tận bên trong đó, ta mới có thể tiến hành khám phá kỷ luật nghĩa là gì. Đối với phần đông chúng ta, kỷ luật là một hình thái rèn luyện, tập luyện; hoặc để khắc phục một chướng ngại, hoặc để chống cự hay triệt tiêu, trấn áp, kiểm soát, định hình, tuân phục – tất cả những điều đó đều bao hàm trong từ kỷ luật. Nghĩa gốc của từ này là học; một trí não muốn học – chứ không phải rập khuôn, bắt chước – phải là tâm trí ham hiểu biết, quan tâm cao độ, còn một trí não đã biết tuốt thì không thể học. Vì thế, kỷ luật nghĩa là học để xem tại sao ta kiểm soát, tại sao ta trấn áp, triệt tiêu, tại sao có sự sợ hãi, tại sao ta luôn tuân phục, so sánh, và do đó có xung đột. Chính động thái học hỏi tạo ra trật tự; không phải trật tự theo một thiết kế hay một khuôn mẫu, mà chính trong hành động tìm hiểu tình trạng hỗn loạn, vô trật tự, mới có trật tự. Phần đông chúng ta đều sống trong hỗn loạn bởi hàng tá lý do mà chúng ta không cần tốn thời gian đi sâu vào chi tiết. Ta phải học hỏi về tình trạng hỗn loạn, học hỏi về cuộc sống vô trật tự mà ta đang hướng đến; không phải cố gắng đem lại trật tự cho tình trạng hỗn loạn hay vô trật tự, mà chỉ học hỏi về nó thôi. Chính trong động thái học hỏi đó, trật tự sẽ sinh ra.
Trật tự là một vật sống chứ không mang tính máy móc, trật tự chắc chắn là đức hạnh. Một trí não sống trong hỗn loạn, tuân phục, bắt chước sẽ không bao giờ trật tự, bởi vì nó đang ở trong tình trạng xung đột. Một trí não đang ở trong tình trạng xung đột thì vô trật tự và một trí não như thế vốn không có đức hạnh. Từ sự khám phá, từ động thái học hỏi này, trật tự xuất hiện và trật tự là đức hạnh. Làm ơn quan sát điều này trong bản thân bạn, hãy nhìn rõ xem ta sống vô trật tự, hỗn loạn, máy móc ra sao. Trong trạng thái đó, ta cố gắng tìm một cách thức sống đạo đức, trật tự và ôn hòa. Làm thế nào một trí não đang trong tình trạng hỗn loạn, tuân phục, bắt chước, lại có được một kiểu trật tự, một kiểu đức hạnh nào cơ chứ? Luân lý xã hội, như bạn có thể thấy, hoàn toàn vô đạo đức, vô luân; nó có thể đáng kính, nhưng những gì đáng kính thường vô trật tự.
Trật tự là cần thiết, bởi vì chỉ từ trật tự mới có thể có hành động trọn vẹn và hành động là cuộc sống. Nhưng hành động của ta sinh ra sự vô trật tự; có hành động chính trị, hành động tôn giáo, hành động kinh doanh, hành động gia đình, chúng là những hành động mang tính phân chia manh mún. Và lẽ đương nhiên, những hành động như thế có tính mâu thuẫn. Bạn là một doanh nhân và ở nhà, bạn là người tử tế, chí ít bạn cố tỏ ra như vậy; có sự mâu thuẫn và do đó, có sự vô trật tự. Một trí não đang ở trong tình trạng vô trật tự thì không thể hiểu đạo đức là gì. Và ngày nay, khi có sự dễ dãi về mọi mặt, đức hạnh và trật tự bị chối bỏ. Một trí não tôn giáo dứt khoát phải có trật tự này, không phải rập khuôn theo một khuôn mẫu hay một thiết kế do bạn hay ai khác đặt ra. Mà trật tự đó, ý thức về thái độ đạo đức chính trực đó, chỉ xuất hiện khi bạn thấu hiểu tình trạng vô trật tự, rối loạn, lộn xộn mà ta đang sống.
Bây giờ, tất cả điều này là để đặt nền móng cho thiền định. Nếu bạn không đặt nền móng, thiền định sẽ trở thành một cuộc lẩn trốn. Bạn có thể chơi đùa bất tận với kiểu thiền định như vậy. Đó là điều phần đông chúng ta đang làm, sống một cuộc sống tầm thường, rối loạn, lộn xộn, và bằng cách nào đó tìm ra một xó xỉnh để cố tạo ra một trí não tịch lặng. Rất nhiều người hứa hẹn cho bạn một trí não tịch lặng, bất kể điều đó mang ý nghĩa gì.
Vì thế để có được một trí não nghiêm túc – và đây là một điều cực kỳ nghiêm túc, chứ không phải một trò chơi – ta phải thoát khỏi mọi niềm tin, thoát khỏi mọi sự ràng buộc, bởi vì ta ràng buộc với toàn bộ cuộc sống, chứ không phải với một mảnh nhỏ nào của nó. Phần đông chúng ta bị dính líu với một cuộc cách mạng vật chất hay chính trị, hay với một hoạt động tôn giáo, một kiểu sống tôn giáo, tu hành nào đó, vân vân. Tất cả đều là những mối ràng buộc manh mún, vụn vặt. Ta đang nói về sự tự do để bạn có thể gắn kết toàn bộ con người bạn, toàn bộ năng lượng, sinh lực và niềm đam mê của bạn với toàn bộ cuộc sống, chứ không riêng phần nào của nó. Khi đó ta có thể khám phá thiền là gì.
Tôi không biết bạn đã bao giờ thâm nhập vào đó chưa. Có thể một số người trong các bạn đã chơi đùa với việc đó, đã cố gắng kiểm soát tư tưởng của mình, áp dụng các pháp tu khác nhau, nhưng đó không phải là thiền. Ta phải từ bỏ những hệ thống mà ta đã được chỉ dẫn: thiền Zen, thiền siêu việt, nhiều điều khác nữa được mang đến từ Ấn Độ và châu Á mà con người bị vướng mắc vào đó. Ta phải đi sâu vào vấn đề của những hệ thống, phương pháp này và tôi hy vọng các bạn sẽ làm điều đó; ta đang cùng nhau chia sẻ vấn đề này.
Khi bạn có một phương pháp để tu hành thì việc gì xảy ra với trí não? Ý nghĩa bao hàm trong các phép tu và phương pháp – một đạo sư – là gì? Tôi không biết tại sao họ tự xưng là đạo sư, là guru. Tôi không thể tìm được một từ đủ mạnh để phủ nhận toàn bộ thế giới của các đạo sư và uy quyền của họ, bởi vì họ nghĩ họ biết. Mà người nào nói “Tôi biết” thì không biết gì cả. Hoặc nếu một người nói “Tôi đã trải nghiệm sự thật” thì hãy hoàn toàn ngờ vực anh ta. Đấy là những nguồn cung cấp phương pháp tu tập. Phương pháp hàm ý phải thực hành, tuân thủ, lặp đi lặp lại, thay đổi “cái thật sự đang là” và do đó làm tăng thêm sự xung đột trong bạn. Các phương pháp tu tập biến trí não thành máy móc, chúng không cho bạn tự do, chúng có thể hứa hẹn tự do ở đích đến, nhưng tự do phải ở điểm đầu tiên, chứ không phải ở điểm cuối cùng. Để khám phá sự thật của bất kỳ phương pháp nào, nếu ngay lúc đầu bạn không tự do, thì rốt cuộc bạn cũng bị trói buộc với phương pháp, và do đó bị trói buộc với một trí não không thể có sự tinh tế, nhanh nhẹn và nhạy cảm. Vì thế ta có thể tống khứ hoàn toàn mọi hệ thống, phương pháp.
Điều quan trọng không phải là kiểm soát tư tưởng, mà là thấu hiểu nó, thấu hiểu nguồn gốc, khởi đầu của tư tưởng, vốn dĩ ở trong chính bạn. Tức là não bộ lưu trữ ký ức – bạn có thể tự mình quan sát điều này, chứ không cần phải đọc sách nói về nó. Nếu não không tích trữ ký ức, nó không thể suy nghĩ gì được. Ký ức đó là kết quả của kinh nghiệm, kiến thức – của chính bạn, của cộng đồng, của gia đình, của dòng họ, chủng tộc, vân vân. Tư tưởng sinh ra từ chính nhà kho ký ức ấy. Vì thế tư tưởng không bao giờ tự do, nó có thể nói về tự do nhưng bản thân nó lại là kết quả của những ký ức, kinh nghiệm và kiến thức trong quá khứ; do đó nó luôn luôn cũ kỹ. Tuy nhiên, ta phải có sự tích lũy kiến thức này, nếu không ta không thể hoạt động, ta không thể nói chuyện với người khác, không thể đi về nhà, vân vân. Kiến thức vốn thiết yếu.
Trong thiền, ta phải khám phá xem liệu có sự chấm dứt kiến thức và nhờ đó thoát khỏi cái đã biết hay không. Nếu thiền là sự nối tiếp liên tục của kiến thức, là sự nối tiếp liên tục của tất cả những gì mà con người đã tích lũy, thì sẽ không có tự do. Chỉ có tự do khi có động thái thấu hiểu chức năng của kiến thức, và nhờ đó thoát khỏi cái đã biết.
Ta đang khám phá miền kiến thức, ở đó kiến thức có chức năng của nó và ở đó nó trở thành chướng ngại cho công cuộc khám phá xa hơn. Trong khi tế bào não tiếp tục hoạt động, chúng chỉ có thể hoạt động trong miền kiến thức. Đó là điều duy nhất mà não có thể làm, hoạt động trong miền kinh nghiệm, miền kiến thức, và kiến thức thuộc miền thời gian – tức là quá khứ. Thiền là khám phá xem liệu có một miền không bị nhiễm bẩn từ trước bởi cái đã biết hay không.
Nếu tôi thiền và tiếp tục thiền với những điều tôi đã được học, với những điều tôi đã biết, vậy là lúc đó tôi đang sống trong quá khứ, trong miền quy định tù ngục của tôi. Trong đó không có tự do. Tôi có thể trang trí nhà tù mà tôi đang sống, tôi có thể làm đủ thứ trong nhà tù đó, nhưng vẫn luôn có một sự hạn chế, một rào cản. Vì thế trí não phải khám phá xem liệu các tế bào não, đã phát triển qua hàng ngàn năm, có thể hoàn toàn tịch lặng, và đáp ứng được một chiều không gian mà chúng không từng biết hay không. Nghĩa là, trí não có thể hoàn toàn tịch lặng không?
Đây là vấn đề của tất cả những người theo tôn giáo qua nhiều thế kỷ; họ nhận ra rằng bạn phải có một trí não rất yên tĩnh, vì chỉ khi đó bạn mới có thể thấy. Nếu bạn cứ huyên thiên, nếu trí não bạn không ngừng xao động, chạy nhảy khắp nơi, hiển nhiên nó không thể nhìn, không thể nghe trọn vẹn. Cho nên, người ta nói: “Hãy kiểm soát trí não, giữ nó lại, giam nó vào tù”; họ không tìm ra cách nào để đem lại một trí não hoàn toàn và tuyệt đối tịch lặng. Họ nói: “Đừng đầu hàng bất kỳ dục vọng nào, đừng nhìn phụ nữ, đừng nhìn những đồi núi, những cội cây xinh đẹp ấy cùng vẻ đẹp của trời đất, bởi vì nếu bạn làm thế, nó có thể nhắc bạn nhớ lại một người đàn bà hay một người đàn ông. Cho nên hãy kiểm soát, hãy giữ chặt, hãy tập trung tư tưởng”. Khi bạn làm tất cả những điều đó, bạn đang mắc vào xung đột, do đó, phải kiểm soát, phải khuất phục thêm nữa. Việc làm này đã tiếp diễn cả ngàn năm nay, bởi vì họ hiểu ra họ phải có một trí não tịch lặng. Vậy làm cách nào để trí não trở nên tịch lặng mà không cố gắng, không kiểm soát, không tạo ra một hàng rào ngăn chặn? Và khi bạn đặt câu hỏi “cách nào” thì bạn đã đưa ra một phương pháp. Do đó, không có cách nào cả.
Trí não có thể trở nên tịch lặng không? Tôi không biết bạn sẽ làm gì khi bạn thấy vấn đề, khi bạn thấy sự cần thiết, sự thật rằng phải có một trí não tinh vi, tinh tế, tuyệt đối tịch lặng. Làm thế nào có được nó? Đó là vấn đề của thiền, bởi vì chỉ duy một trí não như thế mới là trí não tôn giáo. Chỉ duy trí não như thế mới có thể nhìn toàn bộ cuộc sống như một thể thống nhất, như một động thái đơn nhất, không bị phân chia manh mún. Cho nên một trí não như thế mới hành động trọn vẹn, không phân chia, bởi vì hành động của nó xuất phát từ sự tịch lặng hoàn toàn.
Nền móng là một cuộc sống trong mối quan hệ trọn vẹn, một cuộc sống trật tự, và do đó, đạo đức, một cuộc sống mà bên trong đơn giản một cách lạ thường, và do đó hoàn toàn chân phương – tính chân phương của sự đơn giản sâu sắc, nghĩa là trí não không có xung đột. Khi bạn đã đặt nền móng đó, một cách dễ dàng, không hề cố gắng – bởi ngay khi bạn đưa cố gắng vào thì liền có xung đột, bạn thấy được sự thật của nó. Cho nên việc tri giác được “cái đang là” mang lại một sự thay đổi triệt để.
Chỉ duy có trí não tịch lặng mới thấu hiểu rằng trong một trí não tịch lặng có một sự vận động hoàn toàn khác, thuộc một chiều không gian khác, mang một phẩm chất khác. Sự vận động đó không bao giờ có thể diễn tả bằng lời, bởi vì nó vốn là cái không thể mô tả. Cái có thể mô tả là cái đạt đến chỗ này, chỗ mà bạn đã đặt nền móng và thấy được sự cần thiết, sự thật và cái đẹp của một trí não tịch lặng.
Đối với phần đông chúng ta, cái đẹp nằm trong điều gì đó, nơi một tòa nhà, nơi một đám mây, trong hình dáng một cái cây, nơi một gương mặt đẹp. Cái đẹp nằm “ngoài kia” hay nó là phẩm chất của một trí não không có hoạt động xem cái “tôi” là trung tâm? Bởi vì, giống như niềm vui, thấu hiểu cái đẹp là điều kiện thiết yếu cho thiền. Cái đẹp là thật sự từ bỏ hoàn toàn cái “tôi”, và đôi mắt đã từ bỏ cái “tôi” mới có thể thấy cây cối, vẻ đẹp của tất cả chúng và vẻ đáng yêu của mây trời; điều đó xảy ra khi không còn trung tâm là cái “tôi” nữa. Nó xảy ra với mỗi người chúng ta, phải không? – khi bạn nhìn thấy một ngọn núi đáng yêu, khi bạn chợt nhận thấy nó, thì nó có ở đó! Mọi thứ khác đều bị xóa mờ, ngoại trừ vẻ hùng vĩ của ngọn núi đó. Ngọn núi đó, cội cây đó, thu hút bạn hoàn toàn.
Giống như một đứa bé với đồ chơi – đồ chơi thu hút đứa bé, và khi đồ chơi bị phá hủy, đứa bé lại trở về với những gì nó đang làm, phá phách, khóc la. Chúng ta cũng vậy, khi bạn thấy một ngọn núi, một cái cây đơn độc trên đỉnh đồi, hình ảnh đó cuốn hút bạn. Và chúng ta muốn được cuốn hút bởi cái gì đó, bởi một ý tưởng, một hoạt động, một sự gắn kết, một niềm tin, hoặc ta muốn bị ai đó thu hút; giống như đứa bé với đồ chơi.
Vậy, đẹp nghĩa là tinh nhạy – một cơ thể tinh nhạy nghĩa là có chế độ ăn uống đúng đắn, có lối sống đúng đắn và bạn sẽ có toàn bộ điều này, nếu bạn tiến đến mức ấy. Tôi hy vọng bạn sẽ thực hiện hoặc đang thực hiện điều đó ngay bây giờ; bấy giờ trí não chắc chắn và tự nhiên trở nên yên lặng một cách vô thức. Bạn không thể làm cho trí não yên lặng, bởi vì bạn chính là kẻ bày trò, chính bạn tự quấy rầy, âu lo, hỗn loạn – thì làm cách nào bạn có thể khiến cho trí não tịch lặng được? Nhưng khi bạn hiểu tịch lặng là gì, khi bạn hiểu hỗn loạn là gì, phiền não là gì, và liệu phiền não có bao giờ chấm dứt được, và khi bạn hiểu được niềm vui, thì từ đó một trí não tịch lặng lạ thường xuất hiện; bạn không cần phải tìm kiếm nó. Bạn phải khởi sự ngay từ lúc khởi đầu và bước đầu tiên cũng là bước cuối cùng, như thế là thiền.
Người hỏi: Khi ngài nói cái tương tự của ngọn núi, của những ngọn đồi, của bầu trời tươi đẹp – nói thế là sai với những người ở đây, đó không phải là cái tương tự dành cho họ – sự tương tự đó là đồ bẩn thỉu.
Krishnamurti: Chính xác, hãy hiểu như vậy – cái tương tự của những đường phố New York bẩn thỉu, cái tương tự của tình trạng bẩn thỉu, cái tương tự với sự dơ dáy, nghèo khổ, những khu ổ chuột, những cuộc chiến tranh mà mỗi người chúng ta góp phần tạo ra. Bạn không cảm thấy như thế, bởi vì bạn đã tự phân cách, tự cô lập chính mình; cho nên, bạn không có mối quan hệ với người khác. Bạn trở nên suy đồi và để cho tình trạng suy đồi đó lan ra khắp thế giới. Thế nên sự suy đồi này, sự ô nhiễm này, những cuộc chiến, lòng căm thù này không thể bị ngăn chặn bởi bất cứ hệ tư tưởng chính trị hay tôn giáo nào, hay bất kỳ tổ chức nào. Chính bạn phải thay đổi. Bạn không thấy thế sao? Bạn phải hoàn toàn chấm dứt cái mà bạn đang là. Không phải bằng ý chí – thiền là trút sạch hết ý chí khỏi trí não; khi đó một hành động hoàn toàn khác sẽ xảy ra.
Người hỏi: Nếu ta có thể có được đặc ân trở nên hoàn toàn sáng suốt, làm thế nào ta có thể trợ giúp những người còn bị quy định hạn chế, những người còn có một niềm oán giận sâu sắc trong họ?
Krishnamurti: Cho phép tôi hỏi, tại sao bạn lại dùng từ đặc ân? Có đặc ân hay điều gì thiêng liêng trong sự nhận thức sáng suốt đó chứ? Nhận thức là một điều tự nhiên thôi, không phải sao? Nếu bạn nhận thức được sự quy định hạn chế của chính mình, nhận thức được sự náo loạn, sự bẩn thỉu, nghèo khổ, chiến tranh, thù hận, nếu bạn nhận thức được tất cả những điều đó, bạn sẽ có thể thiết lập mối quan hệ với người khác một cách trọn vẹn, bạn liên kết với tất cả mọi người khác trong thế giới. Bạn hiểu điều này chứ? Nếu tôi liên kết với ai đó một cách trọn vẹn, một cách hoàn toàn – không phải như một hình ảnh hay một ý tưởng – thì khi đó tôi liên kết với mỗi người trong thế giới. Lúc đó tôi sẽ thấy tôi không còn làm tổn thương người khác nữa. Họ tự làm họ tổn thương. Khi đó, hãy đi, thuyết giảng, thảo luận, trao đổi – không phải với ý muốn trợ giúp người khác, bạn hiểu chứ?; lên giọng nói rằng “Tôi muốn giúp đỡ người khác” là thứ khủng khiếp nhất. Bạn là ai mà giúp đỡ người khác chứ? – gồm cả diễn giả nữa.
Thưa ngài, hãy nhìn đi, vẻ đẹp của cái cây hay đóa hoa kia không muốn giúp đỡ bạn gì cả, nó ở đó; nhìn thấy sự bẩn thỉu hay vẻ đẹp là việc của bạn, và nếu bạn không đủ khả năng nhìn vào đó, thì hãy tìm hiểu xem tại sao bạn lại trở nên quá lạnh lùng, chai sạn, nông cạn và trống rỗng như thế. Nếu bạn tìm ra được nguyên do đó, bạn sẽ sống trong một trạng thái mà dòng đời cứ thế trôi chảy, bạn không phải làm gì cả.
Người hỏi: Mối quan hệ giữa việc nhìn sự vật chính xác như chúng là và thức là gì?
Krishnamurti: Bạn chỉ biết về thức thông qua hay nhờ vào nội dung của thức, và nội dung của thức là những gì đang xảy ra trong thế giới mà bạn là một phần của nó. Trút sạch hết tất cả những điều đó không phải là không có thức, mà để có một chiều nhận thức hoàn toàn khác. Bạn không thể luận bàn về chiều không gian đó – hãy để cái đó cho các nhà khoa học, các triết gia. Điều mà ta có thể làm là tìm hiểu xem liệu có thể xóa bỏ tình trạng bị quy định của trí não bằng cách trở nên sáng suốt, trở nên hoàn toàn chú tâm hay không.
Người hỏi: Bản thân tôi không biết tình yêu là gì, sự thật là gì hay Thượng đế là gì, nhưng ngài mô tả điều đó là “Tình yêu là Thượng đế”, thay vì “Tình yêu là tình yêu”. Ngài có thể giải thích tại sao ngài lại nói “Tình yêu là Thượng đế” không?
Krishnamurti: Tôi không nói tình yêu là Thượng đế.
Người hỏi: Tôi đọc điều đó trong một cuốn sách của ngài...
Krishnamurti: Tôi xin lỗi, xin đừng đọc sách! (Cười) Từ đó đã được dùng quá nhiều, đã chất nặng quá mức những nỗi tuyệt vọng và hy vọng của con người. Bạn có Thượng đế của bạn, họ có thần thánh của họ. Vậy tôi xin phép đề nghị bạn, hãy tìm hiểu xem tình yêu là gì. Bạn chỉ có thể tìm ra tình yêu là gì bằng cách biết cái gì không phải là tình yêu. Không phải biết về mặt trí óc, mà thật sự ngay trong cuộc sống, bằng cách loại trừ hết cái gì không phải là tình yêu – sự ghen tuông, tham vọng, tham lam, tất cả sự chia tách đang diễn ra trong cuộc sống, cái tôi và cái bạn, chúng ta và họ, đen và trắng. Nhưng điều bất hạnh là bạn không làm thế. Bởi vì việc đó đòi hỏi năng lượng, và năng lượng chỉ xuất hiện khi bạn thật sự quan sát cái đang là, chứ không phải chạy trốn nó. Khi bạn thật sự thấy cái đang là đó, thì trong việc quan sát nó, bạn sẽ có đủ năng lượng để vượt qua nó. Bạn không thể vượt qua nó nếu bạn đang cố gắng lẩn tránh nó, diễn dịch nó hay đánh bại nó. Hãy chỉ đơn thuần thật sự quan sát cái đang là, khi đó bạn sẽ có dư thừa năng lượng, khi đó bạn có thể khám phá tình yêu là gì. Tình yêu không phải là khoái lạc; và thật sự tự mình tìm thấy tình yêu ở nội tâm, bạn biết điều đó nghĩa là gì không? Nghĩa là không sợ hãi, không bám chấp, không phụ thuộc, mà có một mối quan hệ trong đó không có sự chia tách.
Người hỏi: Ngài có thể nói về vai trò của người nghệ sĩ trong xã hội không – phải chăng người nghệ sĩ phục vụ với một chức năng vượt quá sức mình?
Krishnamurti: Người nghệ sĩ là ai? Người vẽ tranh, làm thơ, muốn thể hiện bản thân qua việc vẽ tranh, hoặc viết một quyển sách, một vở kịch phải không? Tại sao ta phân chia người nghệ sĩ với tất cả những người còn lại trong chúng ta? Hoặc phân chia người trí thức với tất cả chúng ta còn lại. Ta đặt người trí thức ở một cấp độ, người nghệ sĩ có thể ở một cấp độ cao hơn, và nhà khoa học ở một cấp độ còn cao hơn nữa. Rồi ta nói: “Vai trò của họ trong xã hội là gì?”. Vấn đề không phải là vai trò của họ, mà là vai trò của bạn trong xã hội; bởi vì bạn đã tạo ra cái mớ hỗn loạn này. Vai trò của bạn là gì? Hãy khám phá đi, thưa ngài. Tức là, hãy tìm hiểu xem tại sao bạn lại sống trong thế giới bẩn thỉu, hận thù và khốn khổ này; rõ ràng nó không động đến bạn.
Hãy nhìn đi, bạn đã nghe các buổi nói chuyện này, đã chia sẻ điều gì đó với chúng tôi, đã thấu hiểu nhiều điều, ta hãy hy vọng thế. Khi đó bạn trở thành trung tâm của mối quan hệ đúng đắn, và như vậy trách nhiệm của bạn chính là thay đổi cái xã hội khủng khiếp, bại hoại, hủy diệt này.
Người hỏi: Thưa ngài, ngài có thể đi sâu vào thời gian tâm lý không?
Krishnamurti: Thời gian là tuổi già, thời gian là phiền não, thời gian vốn vô tình, không quan tâm. Có thời gian lịch đại theo đồng hồ! Thời gian đó phải tồn tại, nếu không bạn không thể bắt kịp một chuyến xe buýt, nấu một bữa ăn và những việc đại loại thế. Nhưng còn có một loại thời gian khác nữa, mà chúng ta đã chấp nhận. Đó là “ngày mai tôi sẽ là thế, ngày mai tôi sẽ thay đổi, ngày mai tôi sẽ trở thành”; ta đã tạo ra thời gian về mặt tâm lý: đó là ngày mai. Có một ngày mai về mặt tâm lý không? Câu hỏi đó nhấn chìm ta trong nỗi khiếp sợ nếu hỏi một cách nghiêm túc. Bởi vì ta muốn ngày mai: “Tôi sẽ có niềm vui được gặp bạn vào ngày mai, tôi sẽ hiểu được vào ngày mai, cuộc đời tôi ngày mai sẽ khác, tôi sẽ nhận ra sự giác ngộ vào ngày mai”. Cho nên ngày mai trở thành điều quan trọng tột bậc trong cuộc sống của ta. Bạn đã vui thú tình dục ngày hôm qua, tất cả những khoái lạc, tất cả mọi thống khổ – bất kể là gì – và ngày mai bạn muốn lại có nó, bởi vì bạn muốn sự khoái lạc đó được lặp lại.
Hãy đặt câu hỏi đó cho chính mình và tìm ra sự thật về nó. “Có ngày mai hay không?” – ngoại trừ trong tư tưởng phóng chiếu ra ngày mai. Do đó, ngày mai là một sáng chế của tư tưởng, là thời gian, và nếu không có ngày mai về mặt tâm lý thì việc gì xảy ra trong cuộc sống hôm nay? Lúc đó có một cuộc cách mạng lớn lao diễn ra, đúng không? Lúc đó, toàn bộ hành động của bạn trải qua một cuộc thay đổi triệt để, phải không? Bạn là một thể thống nhất toàn vẹn ngay lúc này, không phải là sự phóng chiếu từ quá khứ, thông qua hiện tại, vào tương lai.
Thế nghĩa là sống và chết từng ngày một. Hãy làm như vậy, rồi bạn sẽ tìm thấy sống trọn vẹn trong hiện tại nghĩa là gì. Chẳng phải đó là tình yêu sao? Bạn đừng nói: “Ngày mai tôi sẽ yêu”, liệu việc đó có xảy ra không? Bạn yêu hoặc bạn không yêu. Tình yêu không có thời gian, chỉ đau khổ, phiền não mới có thời gian – đau khổ là tư tưởng, giống như niềm vui vậy. Vì thế ta phải tự mình tìm hiểu xem thời gian là gì, và hãy khám phá liệu có cái “không ngày mai” không. Như thế mới là sống, lúc đó mới có cuộc sống vĩnh hằng, bởi vì vĩnh hằng vốn không có thời gian.
New York
25/4/1971