• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đánh thức trí thông minh
  3. Trang 22

6Hành động của ý chí và năng lượng cần thiết cho sự thay đổi triệt để

Cần một năng lượng to lớn; sự hoang phí năng lượng. Ý chí là phản kháng. Ý chí như là sự khẳng định của cái “tôi”. Có chăng hành động không chọn lựa, vốn không có động cơ? “Nhìn bằng con mắt không bị quy định.” Nhận thức không chọn lựa về sự quy định. Thấy và vứt bỏ cái sai lầm. Thứ không phải là tình yêu. Đối mặt câu hỏi về sự chết. “Chấm dứt năng lượng với tư cách cái ‘tôi’ là có khả năng nhìn vào cái chết.” Năng lượng để nhìn vào cái chưa biết: năng lượng tối thượng là trí thông minh.

Các câu hỏi: Ta hiểu về mặt tri thức, nhưng không thể sống với nó; con người có khả năng không? Làm thế nào để nghe? Các cảm giác và cảm xúc có phải là nguyên nhân của bạo lực không?

Ta cần thật nhiều năng lượng, sinh lực, sự quan tâm để tạo ra một sự thay đổi triệt để trong chính mình. Nếu quan tâm đến các hiện tượng bên ngoài, ta phải thấy mình có thể làm gì cho thế giới trong tiến trình thay đổi bản thân; và ta cũng phải thấy không chỉ cách để bảo tồn năng lượng mà còn cách để gia tăng năng lượng nữa. Ta không ngừng làm tiêu tan năng lượng, bằng cách nói những chuyện vô ích, bằng cách đưa ra vô số ý kiến về mọi thứ trên đời, bằng cách sống trong một thế giới của những khái niệm, công thức, và bằng cách cứ xung đột không dứt trong chính mình. Tôi nghĩ tất cả những điều này làm phung phí năng lượng. Nhưng vượt lên trên những điều đó, có một nguyên nhân sâu xa hơn nhiều làm tiêu tan năng lượng sống thiết yếu – năng lượng không chỉ để tạo ra một cuộc thay đổi trong chính ta, mà còn để thâm nhập cực sâu, vượt qua mọi ranh giới tư tưởng của chính ta.

Người xưa đã nói, hãy kiểm soát tình dục, hãy cầm cương các giác quan của bạn cho vững, hãy thề rằng bạn không phung phí năng lượng của mình: bạn cần phải tập trung năng lượng của bạn vào Thượng đế hay điều gì đó. Tất cả những kỷ luật như thế cũng là một sự phung phí năng lượng, bởi vì khi bạn lập lời thề, thì đó là một hình thái phản kháng. Cần có năng lượng không chỉ cho cuộc thay đổi bên ngoài nông cạn, mà còn để tạo ra một sự chuyển biến bên trong sâu sắc hay một cuộc cách mạng. Ta phải có một cảm nhận phi thường về thứ năng lượng không có nguyên nhân, không có động cơ, có khả năng hoàn toàn tĩnh lặng, và chính sự tĩnh lặng này có tính chất bùng nổ của riêng nó. Ta sẽ đi sâu vào điều đó.

Ta thấy con người phung phí năng lượng của họ như thế nào trong những cuộc cãi vã, ganh tỵ, trong cảm giác âu lo cực độ, không ngừng theo đuổi niềm vui thú và trong sự đòi hỏi niềm vui ấy. Đó rõ ràng là một sự phung phí năng lượng. Và chẳng phải việc có vô số ý kiến và niềm tin về đủ thứ chuyện trên đời cũng là một kiểu phung phí năng lượng đó sao? Người khác phải cư xử thế nào, người khác nên làm gì, vân vân. Chẳng phải có những công thức và khái niệm là phung phí năng lượng sao? Trong nền văn hóa này, ta được khuyến khích để có những khái niệm và sống theo đó. Chẳng phải bạn có những công thức và khái niệm theo nghĩa là có những hình ảnh về việc bạn nên là thế nào và điều gì nên xảy ra sao? Theo nghĩa là tư tưởng vứt bỏ “cái đang là” và đưa ra công thức cho “cái nên là”? Mọi nỗ lực như thế đều là phung phí năng lượng và tôi hy vọng ta có thể xuất phát từ đó.

Lý do cơ bản nằm đằng sau sự tiêu tán năng lượng là gì? Ngoài các khuôn mẫu văn hóa mà ta có được từ việc phung phí năng lượng, còn một câu hỏi sâu sắc hơn nhiều, đó là: Ta có thể hoạt động và tiếp tục sống cuộc đời thường nhật mà không có bất kỳ dạng kháng cự nào không? Kháng cự là ý chí. Tôi biết tất cả các bạn được dạy phải sử dụng ý chí, phải kiểm soát theo nghĩa “bạn nên, bạn không nên, bạn phải, bạn không được”. Ý chí không phụ thuộc vào thực tế. Ý chí là sự khẳng định của bản ngã, cái tôi, độc lập với “cái đang là”. Ý chí là dục vọng; biểu hiện của dục vọng là ý chí.

Khi biết ý chí là gì, tôi tự hỏi: Có thể sống trong thế giới này mà không có sự vận hành của ý chí không? Ý chí là một hình thức kháng cự, một hình thức chia rẽ. “Tôi sẽ” chống lại “Tôi sẽ không”, “Tôi phải” chống lại “Tôi không được”. Vậy là ý chí dựng lên một bức tường trong hành động chống lại mọi hình thức hành động khác. Ta chỉ biết thứ hành động tuân thủ theo một công thức, một khái niệm, hoặc gần đúng theo một lý tưởng và hành động trong mối quan hệ với lý tưởng đó, khuôn mẫu đó. Đó là cái mà ta gọi là hành động và trong đó có xung đột. Sẽ có sự bắt chước cái “nên là”, mà ta đã phóng chiếu ra thành một lý tưởng để hành động theo đó; cho nên có sự xung đột giữa hành động và lý tưởng, bởi vì trong đó luôn luôn có một sự gần đúng, mô phỏng, tuân thủ. Tôi cảm thấy đó là một sự phung phí năng lượng hoàn toàn và tôi sẽ chỉ ra tại sao.

Tôi hy vọng chúng ta đã quan sát chính các hành vi của chính mình, trí não của chính mình, để thấy cách ta vận dụng ý chí vào hành động. Nhắc lại, ý chí độc lập với thực tế, với “cái đang là”; nó phụ thuộc vào bản ngã, vào những gì nó muốn – không phải dựa vào “cái đang là”, mà dựa vào những gì nó muốn. Và cái muốn đó tùy thuộc vào môi trường, hoàn cảnh, văn hóa, vân vân; nó xa rời thực tế. Do đó, có sự mâu thuẫn và chống đối “cái đang là”, và như thế là hoang phí năng lượng.

Hành động nghĩa là làm ngay bây giờ, chứ không phải ngày mai, không phải hôm qua. Hành động nằm trong hiện tại. Có thể có hành động mà không có ý niệm, không công thức, không khái niệm được không? – một hành động mà trong đó không có sự kháng cự, tức ý chí. Nếu có ý chí thì sẽ có sự mâu thuẫn, kháng cự và nỗ lực, tức là một sự hoang phí năng lượng. Vì thế, tôi muốn khám phá xem liệu có hành động nào không có ý chí như sự khẳng định của cái “tôi” trong kháng cự không?

Bạn thấy đó, chúng ta là những nô lệ của nền văn hóa hiện tại, chúng ta là nền văn hóa ấy, và nếu có một loại hành động khác, một loại cuộc sống khác và do đó một loại văn hóa cũng hoàn toàn khác – không phải phản văn hóa, mà là điều gì đó hoàn toàn khác – ta phải thấu hiểu toàn bộ vấn đề ý chí. Ý chí thuộc về một nền văn hóa cũ kỹ, trong đó bao hàm tham vọng và động lực, toàn bộ thái độ khẳng định và công kích của cái “tôi”. Để có một đường lối sống hoàn toàn khác, ta phải thấu hiểu vấn đề chính yếu, đó là: Có thể có hành động không công thức, khái niệm, lý tưởng hay niềm tin không? Một hành động dựa trên kiến thức, tức là quá khứ, tức là bị quy định, thì không phải là hành động. Vì bị quy định và phụ thuộc vào quá khứ, nó tất phải gây ra sự bất hòa, rồi dẫn đến xung đột. Vì thế tôi muốn khám phá xem liệu có hành động nào không có ý chí và sự chọn lựa không còn xen vào?

Hôm trước tôi đã nói, ở đâu còn có hỗn loạn, ở đó tất phải có sự chọn lựa. Một người nhìn thấy mọi thứ một cách rất rõ ràng (không hoảng loạn hay cố chấp) thì sẽ không chọn lựa. Vì thế, chọn lựa, ý chí, kháng cự – cái “tôi” trong hành động – là hoang phí năng lượng. Có chăng một hành động không liên quan gì đến tất cả mọi thứ ấy, sao cho trí não sống trong thế giới này, hoạt động trong phạm vi kiến thức mà vẫn tự do hành động, không bị cản trở vì sự hạn chế của kiến thức? Diễn giả nói rằng có một hành động không có sự kháng cự, không có sự can thiệp của quá khứ, không có phản ứng của cái “tôi”. Hành động đó diễn ra tức thì bởi vì nó không nằm trong phạm vi thời gian – thời gian là hôm qua, với tất cả kiến thức và kinh nghiệm tác động vào hôm nay, để rồi tương lai được thiết lập sẵn bởi quá khứ. Có một hành động diễn ra tức thì, và do đó đã hoàn tất, trong đó ý chí không hoạt động. Để tìm ra nó, trí não phải học cách quan sát, cách thấy. Nếu trí não nhìn theo công thức về điều bạn nên là hay điều tôi nên là, thì hành động khi đó thuộc về quá khứ.

Bây giờ, tôi xin hỏi: Có chăng một hành động không có động cơ, tức là nằm trong hiện tại và không mang lại mâu thuẫn, lo âu và xung đột? Như tôi đã nói, một trí não được rèn luyện trong một nền văn hóa có niềm tin, vận hành và hành động với ý chí, một trí não như thế rõ ràng không thể hành động theo nghĩa mà ta đang nói đến, bởi vì nó bị quy định. Vậy trí não đó – trí não của bạn – có thể thấy được sự quy định này và thoát khỏi đó để hành động theo cách khác được không? Nếu trí não tôi được rèn luyện thông qua giáo dục để vận hành với ý chí, thì nó không thể thấu hiểu thế nào là hành động không ý chí. Cho nên mối quan tâm của tôi không phải là tìm ra cách để hành động không ý chí, mà đúng hơn là tìm hiểu xem liệu trí não tôi có thể thoát khỏi chính sự quy định của nó, tức là sự quy định của ý chí, hay không. Đó là mối quan tâm của tôi và tôi thấy, khi tôi nhìn vào chính mình, rằng mọi điều tôi làm đều có một động cơ bí mật, là kết quả của một nỗi âu lo nào đó, nỗi sợ hãi nào đó, sự đòi hỏi niềm vui, vân vân. Bây giờ, trí não đó có thể tự giải thoát một cách tức thì để hành động khác đi không?

Vậy, trí não phải học cách nhìn. Điều đó, đối với tôi, là vấn đề chính yếu. Trí não này, vốn là kết quả của thời gian, của các nền văn hóa, kinh nghiệm và kiến thức khác nhau, có thể nhìn với đôi mắt không bị quy định không? Tức là, liệu trí não đó có thể hoạt động ngay lập tức, thoát khỏi sự quy định của chính nó không? Vậy thì tôi phải học cách nhìn vào sự quy định của chính tôi mà không có khao khát thay đổi, chuyển hóa, vượt qua nó. Tôi phải có khả năng nhìn nó đúng như nó là. Nếu có ý muốn thay đổi nó thì tôi lại sinh ra hành động của ý chí. Nếu tôi muốn lẩn trốn nó thì lại có sự kháng cự. Nếu tôi giữ phần này và bỏ các phần khác, một lần nữa nó có nghĩa là chọn lựa. Và chọn lựa, như ta đã chỉ ra, là hỗn loạn. Vậy thì tôi có thể, trí não này có thể, nhìn mà không có bất kỳ sự kháng cự nào, bất kỳ lựa chọn nào không? Tôi có thể nào nhìn núi non, cây cối, hàng xóm láng giềng, gia đình tôi, các chính trị gia, các giáo sĩ, mà không có bất kỳ hình ảnh nào về họ không? Hình ảnh là quá khứ. Do đó, trí não phải có khả năng nhìn. Khi tôi nhìn vào “cái đang là” trong chính tôi và trong thế giới mà không có sự kháng cự, thì từ sự quan sát đó mới có hành động tức thì không phải là kết quả của ý chí. Bạn hiểu chứ?

Tôi muốn tìm ra cách để sống và hành động trong thế giới này; chứ không phải đi vào một tu viện hay trốn vào cõi niết bàn mà các đạo sư nào đó đã hứa hẹn. “Nếu bạn làm thế này, bạn sẽ có được thế kia” – thật là vô nghĩa. Hãy gạt bỏ tất cả những điều đó, tôi muốn tìm ra cách để sống trong thế giới này mà không có bất kỳ sự kháng cự, không có bất kỳ ý chí nào. Tôi cũng muốn tìm hiểu xem tình yêu là gì. Trí não tôi, trí não đã bị quy định theo sự đòi hỏi niềm vui, hài lòng, thỏa mãn, dẫn đến sự kháng cự, thấy tất cả những gì không phải là tình yêu. Vậy tình yêu là gì? Bạn biết đó, để khám phá xem tình yêu là gì, ta phải phủ nhận, phải gạt bỏ hoàn toàn những gì không phải là tình yêu. Thông qua cái phủ nhận để đi đến cái xác nhận; đừng tìm kiếm cái xác nhận mà hãy đến với nó bằng động thái thấu hiểu cái không phải là nó. Tức là, nếu tôi muốn tìm ra sự thật nhưng tôi không biết sự thật, thì tôi phải có thể nhìn ra đâu là cái giả. Nếu tôi không thể tri giác cái giả, tôi không thể thấy cái thật. Vậy, tôi phải khám phá xem cái gì là giả.

Cái gì là giả? Mọi thứ mà tư tưởng đã kết tập – về mặt tâm lý chứ không phải khoa học công nghệ – đều là giả. Tức là, tư tưởng đã kết tập, hình thành nên cái “tôi”, bản ngã cùng với những ký ức của nó, những sự công kích của nó, với sự chia tách của nó, với những tham vọng, đấu tranh, bắt chước, sợ hãi và những ký ức quá khứ của nó; tất cả đều được tư tưởng kết tập. Và tư tưởng cũng đã kết tập những điều phi thường nhất một cách máy móc. Do đó, tư tưởng, như là cái “tôi”, về cốt lõi không có gì là thật, mà toàn là giả. Khi trí não hiểu cái gì là giả, thì sự thật liền xuất hiện. Tương tự, khi trí não thật sự tìm hiểu sâu xem cái gì là tình yêu, không nói “cái này là tình yêu”, “cái kia là tình yêu”, mà chỉ tìm hiểu sâu, thì nó phải thấy cái gì là không phải và buông bỏ hoàn toàn; nếu không, bạn không thể tìm thấy cái chân thực. Liệu ta có thể làm điều đó không? Ví dụ ta nói: “Tình yêu không phải là tham vọng”. Một trí não đầy tham vọng, muốn thành đạt, muốn trở nên quyền lực, nó hung hăng gây hấn, cạnh tranh, bắt chước, một trí não như thế không thể hiểu được tình yêu là gì – ta thấy điều đó mà, phải không?

Vậy, liệu trí não có thể thấy được chỗ sai lầm của điều đó không? Nó có thể thấy rằng một trí não tham lam không thể yêu thương và buông bỏ tức thì bởi vì nó sai lầm không? Chỉ khi nào bạn phủ nhận cái sai hoàn toàn, thì cái đúng mới có mặt. Vậy, ta có thể nào thấy thật rõ ràng rằng một trí não tìm cách kiếm chác hay đạt được, dù là trong thế giới hay trong cái gọi là cõi tinh thần tìm kiếm giác ngộ, đều không thể yêu thương? Mọi động cơ thôi thúc khám phá, đạt được đều là tham vọng. Cho nên, trí não có thể thấy được cái sai của điều đó và hoàn toàn buông bỏ nó tức thì không? Nếu không, bạn sẽ không tìm ra được “cái đang là” và bạn sẽ không bao giờ khám phá được tình yêu là gì. Tình yêu không phải là ganh tỵ, đúng không? Tình yêu không phải là sở hữu, tình yêu không phải là phụ thuộc. Bạn hiểu điều đó chứ? Đừng mang nó theo bạn sang ngày hôm sau mà hãy buông bỏ ngay lập tức. Việc buông bỏ ngay cái sai không phụ thuộc vào ý chí. Nó phụ thuộc vào việc bạn có thật sự thấy cái sai không. Khi bạn buông bỏ cái sai, thì cái không sai, cái đúng liền có ở đó.

Bây giờ, khó khăn hơn một chút. Tình yêu có phải là niềm vui không? Tình yêu có phải là thỏa mãn không? Nếu bạn thật sự muốn một trí não có tình yêu, bạn phải đi vào đó thật sâu. Ta đang hỏi: Phải chăng tình yêu là niềm vui thú, là hài lòng, thỏa mãn? Ta đã nói rằng đòi hỏi niềm vui là sự nối tiếp liên tục của tư tưởng, vốn là khao khát và ý chí luôn theo đuổi niềm vui thú, tách biệt với “cái đang là”. Ta liên kết tình yêu với tình dục, và bởi vì có niềm vui trong đó nên ta biến tình dục thành cái gì đó khác thường. Tình dục trở thành thứ quan trọng nhất trong cuộc sống. Ta đã cố gắng tìm ra một ý nghĩa sâu xa nào đó trong tình dục, một thực tại sâu sắc, một cảm giác thống nhất vĩ đại, sự hòa hợp làm một và những thứ siêu việt khác. Tại sao tình dục lại có ý nghĩa như thế trong cuộc sống của ta? Có lẽ vì ta không còn có thứ gì khác; có thể trong mọi lĩnh vực khác, ta là một thứ máy móc. Không còn có gì nguyên bản trong ta, không có gì sáng tạo – không phải “sáng tạo” theo nghĩa vẽ tranh, viết nhạc, làm thơ, đó là một phần hết sức nông cạn của ý thức sáng tạo thật sự thôi. Bởi vì chúng ta ít nhiều gì cũng chỉ là những con người bắt chước, dùng lại của người khác, nên tình dục và niềm vui thú mới trở nên quan trọng như vậy. Thế nên ta mới gọi đó là tình yêu, và đằng sau lớp mặt nạ đó, ta làm đủ mọi điều tai ác.

Vậy, ta có thể tìm ra tình yêu là gì không? Đây là câu hỏi mà con người luôn luôn đặt ra. Vì không thể khám phá điều này, con người nói: “Hãy yêu Thượng đế”, “Hãy yêu một ý tưởng”, “Hãy yêu nhà nước”, “Hãy yêu thương người xung quanh”. Không phải bạn không nên yêu người xung quanh, nhưng điều này đã trở thành một hoạt động xã hội đơn thuần, nó không phải là tình yêu vốn luôn luôn mới mẻ. Vì thế, tình yêu không phải là sản phẩm của tư tưởng, tức là niềm vui thú. Như ta đã nói: tư tưởng luôn cũ kỹ, không tự do, tư tưởng là sự hồi đáp của quá khứ, và tình yêu không có mối quan hệ chân thực nào với tư tưởng. Như ta biết, phần lớn cuộc sống của ta là một trận chiến, căng thẳng, lo âu, tội lỗi, tuyệt vọng, là cảm giác cô độc và phiền não vô cùng, đó là cuộc sống của ta. Đó thật sự là “cái đang là” và ta không sẵn sàng đối mặt với nó. Khi bạn đối mặt với nó mà không chọn lựa và không kháng cự, thì điều gì xảy ra? Bạn có thể đối mặt với nó không? Không phải để cố gắng vượt qua sợ hãi, ghen tỵ, cái này hay cái nọ, mà để thật sự nhìn vào nó, không hề có ý muốn thay đổi nó, chinh phục nó, kiểm soát nó, chỉ quan sát nó một cách toàn diện, và đặt trọn vẹn sự chú tâm của bạn vào nó. Khi bạn nhìn cuộc sống thường nhật đầy khó nhọc của mình, một đời sống tầm thường hoặc không tầm thường, thì điều gì xảy ra? Chẳng phải bạn có được một năng lượng khủng khiếp sao? Năng lượng đã bị phân tán cho sự kháng cự, cho việc khuất phục, vượt qua, cố gắng thấu hiểu nó, cố gắng thay đổi nó. Khi bạn nhìn cuộc sống này đúng như nó là, chẳng phải lúc đó sẽ có sự chuyển hóa “cái đang là” sao? Sự chuyển hóa đó chỉ diễn ra khi bạn có được nguồn năng lượng mà trong đó ý chí không còn hoạt động nữa.

Bạn biết đó, ta thích những sự giải thích, ta thích những lý thuyết, ta đắm chìm trong những thứ triết học lý thuyết và ta bị cuốn đi bởi tất cả những điều rõ ràng là hoang phí thời gian và năng lượng. Ta phải đối mặt với cái thật sự đang là: đau khổ, phiền não, nghèo khó, ô nhiễm, sự chia rẽ tồi tệ của con người và các quốc gia, những cuộc chiến mà con người đã gây ra – những thứ này không phải tự dưng mà có, mỗi người chúng ta phải chịu trách nhiệm về tất cả chúng – ta phải đối mặt với cái thật sự đang diễn ra. Và cũng phải đối mặt với một trong những điều quan trọng nhất trong cuộc sống: sự chết. Đó là một trong những điều mà con người luôn luôn lảng tránh. Các nền văn minh cổ đại cũng như hiện đại đã cố gắng vượt qua nó, cố chinh phục sự chết bằng cách nào đó, tưởng tượng rằng có sự bất tử, một cuộc sống sau cái chết – bất cứ điều gì trừ việc đối mặt với nó. Trí não có thể nào đối mặt với cái mà nó tuyệt đối không biết không? Thật không may, phần đông chúng ta, nếu tôi có thể nói vậy, đã đọc quá nhiều về những thứ này. Các bạn hẳn đã đọc những điều mà các triết gia và bậc thầy Ấn Độ đã nói, hoặc các bạn đã đọc các triết gia khác và được dạy dỗ theo truyền thống Kitô giáo. Bạn chứa đầy kiến thức, những khẳng định và ý kiến của người khác. Bạn bị trói buộc vào đó, dù có thể bạn không thừa nhận và ý thức được về nó, thì nó vẫn ở trong huyết quản của bạn, bởi vì bạn đã được nuôi dạy trong nền văn minh và văn hóa này. Và đây là điều mà bạn tuyệt đối không biết gì cả. Tất cả những gì bạn biết là bạn sợ hãi khi phải đi đến giây phút cuối cùng. Đó là cái chết.

Sợ hãi ngăn chặn bạn nhìn thẳng vào cái chết, giống như sợ hãi đã ngăn bạn sống không lo âu, phiền não, tội lỗi – bạn biết tất cả những điều tàn bạo đó mà. Sợ hãi đã ngăn bạn sống và sợ hãi ngăn bạn nhìn trực diện để xem chết là gì. Sợ hãi đòi hỏi sự an ủi, do đó có cái ý tưởng về luân hồi, tái sinh trong một kiếp sống khác, vân vân. Ta sẽ không đi sâu vào đó, bởi vì điều ta quan tâm là liệu trí não bạn có thể đối mặt với thực tại của phút lâm chung hay không. Đó là những gì sẽ xảy ra, dù bạn đang mạnh khỏe, hay là một người tàn tật, hoặc cực kỳ giàu có, bất cứ điều gì có thể xảy ra – tuổi già, bệnh tật hay tai nạn. Trí não có thể nhìn vào vấn đề to lớn chưa được biết đến này không? Bạn có thể nhìn vào đó như thể lần đầu không? – khi không ai khuyên bảo bạn phải làm gì, khi biết rằng tìm kiếm sự an ủi là lẩn trốn thực tế. Vậy, bạn có thể nào đối mặt, như thể lần đầu tiên, với điều gì đó không thể tránh không?

Trạng thái trí não mà có khả năng nhìn vào một điều mà nó tuyệt đối không biết là gì? Ta không nói đến cái chết về thể lý, mà nói đến vấn đề tâm lý: Liệu trí não có thể đối mặt với một điều, nhận ra rằng mình tuyệt đối không biết gì về điều đó, nhìn vào nó, sống với điều đó và hoàn toàn thấu hiểu nó không? Có nghĩa là, trí não có thể nhìn cái chết mà không hề sợ hãi không? Ngay khi có sự sợ hãi, bạn sẽ có sự chọn lựa, có ý chí, có kháng cự và đó là hoang phí năng lượng. Chấm dứt năng lượng của cái “tôi” là có khả năng nhìn cái chết.

Để đối mặt điều gì đó mà tôi tuyệt đối không biết, thì tôi cần phải có một năng lượng vô cùng lớn, đúng chứ? Tôi chỉ có thể làm điều đó khi không có ý chí, không kháng cự, không hoang phí năng lượng. Để đối mặt với điều không biết, phải có một hình thức năng lượng tối thượng, và khi có cái năng lượng trọn vẹn đó, liệu còn có nỗi sợ chết nữa không? Hay có nỗi sợ về sự nối tiếp không? Chỉ khi nào tôi sống một cuộc đời kháng cự, chống đối, có ý chí và sự chọn lựa, thì mới có nỗi sợ không tồn tại hay không sống nữa. Khi trí não đối mặt với cái không biết, tất cả mọi điều ấy mới tan biến, chỉ còn lại năng lượng vô biên. Và khi có thứ năng lượng tối thượng đó, tức là trí thông minh, thì còn có cái chết không? Hãy khám phá đi.

Người hỏi: Thưa ngài, sáng nay ngài đã đặt câu hỏi về những điều tôn giáo nói, gợi cho tôi thắc mắc: Làm sao tôi có thể hiểu được điều ngài nói ở một cấp độ tri thức? Nó có vẻ nhạy cảm, nó có vẻ hợp lý, nhưng tôi thấy mình thiếu sự đam mê.

Krishnamurti: Quý ông này nói rằng: Điều ngài nói có một ý nghĩa gì đó về mặt tri thức, ngôn từ, nhưng theo cách nào đó nó không thể thâm nhập, không thể đi thật sâu, nó không chạm được đến gốc rễ của mọi thứ để tôi có thể đột phá. Nó không đem lại ý thức về một sức sống mãnh liệt, theo nghĩa là sống với nó. Tôi e rằng đó là trường hợp của phần lớn con người.

(Có tiếng ngắt lời)

Krishnamurti: Xin đừng trả lời. Ta hãy xem xét đã. Quý ông đây nói rằng: Điều ngài nói hợp logic đấy, về mặt tri thức tôi chấp nhận nó, nhưng tôi không cảm nhận được nó ở tận đáy tim để có thể đem đến một sự thay đổi, một cuộc cách mạng trong chính tôi và để sống một cuộc đời hoàn toàn khác. Và tôi nói: Đó là trường hợp đối với phần đông chúng ta. Ta đi một phần hành trình, đi được một đoạn ngắn và rồi bỏ dở. Ta chỉ giữ sự quan tâm được mười phút rồi thời gian còn lại nghĩ đến chuyện khác. Bạn ra về sau cuộc nói chuyện và tiếp tục cuộc sống thường ngày. Vậy, tại sao việc này xảy ra? Về mặt tri thức, ngôn từ, logic thì bạn hiểu, nhưng rõ ràng điều đó không chạm đến tận đáy tim của bạn, để bạn có thể đốt cháy hết cái cũ, như một ngọn lửa. Tại sao điều này không xảy ra? Phải chăng vì thiếu sự quan tâm. Phải chăng đó là một cảm giác biếng nhác, uể oải đã ăn sâu. Hãy xem xét nó đi, thưa ngài, đừng trả lời tôi. Nếu đó là do thiếu sự quan tâm, tại sao bạn không quan tâm? Khi ngôi nhà đang cháy – nhà của bạn đấy, khi con cái bạn lớn lên để rồi bị giết chết, tại sao bạn không quan tâm? Bạn có đui mù, vô cảm, lãnh đạm, nhẫn tâm không? Hay sâu thẳm trong bạn không có năng lượng nên bạn mới lười biếng? Hãy xem xét đi, đừng đồng ý hay không đồng ý. Phải chăng bạn đã trở nên quá vô cảm, bởi vì bạn có những vấn đề của riêng mình? Bạn muốn được thỏa mãn, bạn thuộc giai cấp thấp, bạn thuộc giai cấp trên, bạn âu lo, bạn có cảm giác vô cùng sợ hãi – có tất cả những điều đó; các vấn đề của bạn làm cho bạn ngạt thở, do đó bạn không còn quan tâm bất cứ điều gì nữa, trừ khi bạn giải quyết được các vấn đề của mình trước. Nhưng vấn đề của bạn cũng là vấn đề của những người khác, vấn đề của bạn là kết quả của nền văn hóa mà bạn sống.

Vậy nó là gì? Toàn bộ sự lãnh đạm, vô cảm, tàn nhẫn ư? Hay đó là toàn bộ nền văn hóa và giáo dục mang tính tri thức, ngôn từ của bạn? Các triết lý của bạn mang tính ngôn từ, các lý thuyết của bạn đều là sản phẩm của những bộ não cực kỳ xảo trá và các bạn đã được nuôi dưỡng trong đó. Toàn bộ nền giáo dục của bạn dựa trên đó. Phải chăng đó là tư tưởng đã được gán cho một tầm quan trọng lạ thường? – một trí não công nghệ, khéo léo, xảo quyệt, đầy năng lực, một trí não có thể đo đạc, xây dựng, chiến đấu và tổ chức. Bạn đã được huấn luyện trong đó và bạn hồi đáp trên bình diện đó. Bạn nói: “Vâng, về mặt tri thức, ngôn từ, tôi đồng ý với ông, tôi thấy sự logic, sự nối tiếp liên tục của nó”. Nhưng bạn không vượt qua được điều đó, bởi vì trí não bạn bị mắc kẹt trong các hoạt động của tư tưởng vốn là sự đo lường. Tư tưởng không thể đo lường được chiều sâu và độ cao, mà chỉ đo được trên bình diện của nó.

Vậy, đây là câu hỏi thật sự quan trọng cho tất cả mọi người, bởi vì, phần đông chúng ta đồng ý với tất cả những điều này về mặt ngôn từ, tri thức, nhưng chẳng hiểu vì sao ngọn lửa vẫn chưa được đốt lên.

Người hỏi: Tôi nghĩ không có sự thay đổi bởi vì những điều quan trọng không nằm ở cấp độ tri thức mà ở bình diện khác.

Krishnamurti: Đó là điều ta đã nói, thưa ngài. Không có thay đổi nào cả, quý ông này nói như vậy, bởi vì về mặt tâm lý, kinh tế, xã hội, trong giáo dục, chúng ta đã bị quy định. Ta là kết quả của thứ văn hóa mà ta sống trong đó. Và ông ấy nói, chừng nào còn chưa có sự thay đổi trong chính mình, ta sẽ không có bất kỳ mối quan tâm sâu sắc nào. Vậy điều gì sẽ khiến bạn quan tâm? Tôi xin hỏi: Tại sao bạn, dù đã lắng nghe tất cả những điều này một cách thật logic, và tôi hy vọng là với một trí não khỏe mạnh, nhưng vẫn không nhóm lên được ngọn lửa để thiêu rụi mọi thứ đó? Xin bạn hãy tự đặt câu hỏi cho bản thân, hãy tìm hiểu xem tại sao bạn lại đồng ý về mặt logic, về mặt ngôn từ, trên bề mặt, nhưng nó vẫn không chạm vào được đáy lòng bạn. Nếu tiền bạc của bạn hay hoạt động tình dục của bạn bị lấy đi, nó sẽ chạm đến bạn. Nếu cảm giác về tầm quan trọng của con người bạn bị lấy đi, bạn sẽ đấu tranh. Nếu những thần thánh của bạn, chủ nghĩa quốc gia, dân tộc, đời sống tầm thường hẹp hòi của bạn bị lấy đi, bạn sẽ cắn xé nhau như mèo và chó. Tất cả những điều đó chỉ ra rằng về mặt tri thức, ta không có khả năng làm được gì. Về mặt khoa học công nghệ, như lên mặt trăng, ta sống ở cấp độ tư tưởng, nhưng tư tưởng không thể nhóm lên ngọn lửa làm thay đổi con người. Điều có thể làm thay đổi con người là đối mặt với tất cả những điều này, là nhìn sâu vào đó chứ không phải lúc nào cũng sống trên chính cái cấp độ nông cạn ấy.

Người hỏi: Sáng nay ngài bảo rằng khi bạn đủ khả năng nhìn vào cái chết như là cái tuyệt đối không biết, thì có nghĩa là bạn cũng có khả năng nhìn cuộc sống đúng như nó là, và bạn sẽ có khả năng hành động.

Krishnamurti: Đúng vậy, thưa ngài. “Khi bạn có khả năng.” Từ “khả năng” là một từ khó. Khả năng nghĩa là khả năng làm việc hay có khả năng về việc gì đó. Bạn có thể trau dồi khả năng. Tôi rèn luyện để có khả năng chơi đánh gôn, tennis hay lắp ráp máy móc. Ta không dùng từ “khả năng” theo nghĩa thời gian – bạn hiểu chứ? Khả năng bao hàm thời gian, phải không? Tức là, tôi không có khả năng bây giờ, nhưng hãy cho tôi một năm, tôi sẽ có khả năng nói tiếng Ý, Pháp hay Anh. Nếu bạn hiểu khả năng là thời gian, thì đó không phải là điều tôi muốn nói. Ý tôi là: quan sát cái không biết mà không sợ hãi, sống với nó. Điều đó không cần khả năng. Tôi đã nói bạn sẽ làm được việc đó nếu bạn biết cái gì là sai, là giả, và loại bỏ nó.

Người hỏi: Chẳng phải đó là vấn đề của việc không biết cách nghe sao? Ngài đã nói rằng lắng nghe là một trong những điều khó làm nhất.

Krishnamurti: Vâng, đó là một trong những điều khó làm nhất, lắng nghe. Có phải ý bạn muốn nói rằng một người dấn thân vào hoạt động xã hội và dành trọn cuộc đời cho nó, anh ta sẽ muốn lắng nghe những điều này không? Hoặc một người nói “Tôi nguyện sống đời độc thân”, liệu người đó sẽ nghe tất cả những điều này chứ? Không, thưa ngài. Lắng nghe là cả một nghệ thuật.

Người hỏi: Ngài đã nói rằng chỗ khó khăn nằm ở cấp độ tri thức và rằng ta không để cho tình cảm và cảm xúc xen vào các mối quan hệ của ta với người khác. Nhưng tôi có cảm giác điều ngược lại mới đúng. Tôi nghĩ rằng những rắc rối trong thế giới là do những cảm xúc và đam mê không được kiểm soát, có lẽ phát sinh từ chỗ thiếu sự thấu hiểu, nhưng chúng vẫn là đam mê. Chúng ta sống một cuộc đời đầy bạo lực.

Krishnamurti: Bạo lực, tất nhiên, điều đó hiểu được. Bây giờ, bạn có đang sống một cuộc đời đầy cảm xúc, cần phải chế ngự không? Cảm xúc, phấn khích, mức độ nồng nhiệt của niềm vui và tình cảm – bạn có đang sống trong thế giới đó không? Khi bạn sống trong thế giới đó và khi nó trở nên vô trật tự, thì lý trí xen vào và bạn bắt đầu kiểm soát nó, bạn nói “Tôi không được”; nhưng lý trí luôn luôn thống trị.

Người hỏi: Hoặc nó biện minh.

Krishnamurti: Nó biện minh hoặc chỉ trích. Tôi có thể có cảm xúc dữ dội nhưng lý trí xen vào và nói: Nào, hãy cẩn thận, hãy cố gắng kiểm soát bản thân. Lý trí luôn luôn thống trị – tức là tư tưởng – đúng không? Trong các mối quan hệ của tôi với người khác, tôi giận dữ, tức tối, đầy cảm xúc, khi đó việc gì sẽ xảy ra? Nó dẫn đến rắc rối, một cuộc cãi vã xảy ra giữa hai người. Thế rồi, tôi ra sức kiểm soát lý trí – tức là tư tưởng; bởi vì nó đã thiết lập một khuôn mẫu cho chính nó về những gì nó nên làm, hay những gì nó không nên làm, vì vậy nó nói: “Tôi phải kiểm soát”. Thế nên ta mới nói rằng “Phải có sự kiểm soát”, nếu không, mối quan hệ sẽ sụp đổ. Chẳng phải tất cả những điều đó là một quá trình của tư duy, của lý trí sao? Lý trí giữ một vai trò cực kỳ to lớn trong cuộc sống của ta, ta đã chỉ ra điều đó. Ta không nói cảm xúc sai hay đúng, hoặc thật hay giả, nhưng tư tưởng, với sự đo lường của mình, luôn luôn phán xét, đánh giá, kiểm soát, chinh phục, và do đó tư tưởng ngăn bạn nhìn.

Saanen

29/7/1971

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 28
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 28
  • Sau