Mấy hôm nay, báo chí rồi các bài bình luận trên Facebook “nóng bỏng” với đề tài nộp hồ sơ vào đại học làm tôi cũng thấy hơi “nóng đầu”. Thay vì bàn luận chuyện “nước nhà”, tôi xin kể lại những kinh nghiệm của bản thân khi giúp con cái của bạn bè trong mấy năm qua để nộp hồ sơ vào các trường ở Anh hoặc xin học bổng ở Mỹ. Cho đến những ngày này, tôi cũng đang theo sát việc làm hồ sơ của chính con gái tôi vừa học xong lớp 11 tại Mỹ đang chuẩn bị hồ sơ nộp chậm nhất vào cuối tháng 12 này.
Để tiện so sánh, tôi chỉ mô tả “hành trình” học và làm hồ sơ của những học sinh đang học theo hệ Anh.
Hành trình thi GCSE (lớp 10 và lớp 11) với 9 môn thi là tối thiểu: Bắt đầu từ năm lớp 10, trong 2 năm, toàn bộ chương trình học của học sinh đều xoay quanh kỳ thi GCSE, làm sao để được kết quả cao nhất. Học sinh phải chọn ít nhất 9 môn (thường thì đa số đều chọn học 10 môn), trong đó có 6 môn bắt buộc (hai môn tiếng Anh, toán, lý, hóa, sinh vật). Các cháu có thể tự chọn các môn còn lại ngoài 6 môn bắt buộc. Toàn bộ năm học lớp 11 là các đợt luyện thi triền miên với các đợt thi thử do trường tổ chức trong tháng 11 (mặc dù tháng 6 các cháu mới thi thật). Con gái tôi học rất tốt nhưng cũng bị kỳ thi này ám ảnh đến mất ăn mất ngủ trong 2 năm trời vì đủ các sức ép: từ nhà trường muốn học sinh có kết quả tốt để giữ vững hoặc nâng hạng trong bảng xếp hạng, từ từng giáo viên (giáo viên sẽ cố gắng “kéo” các học sinh giỏi chọn môn do mình dạy). Điểm GCSE đặc biệt quan trọng với những học sinh muốn vào các trường hàng đầu của Anh như Oxford, Cambridge. Họ sẽ nhìn kết quả, nếu sinh viên nào không có ít nhất 6 điểm A* thì hồ sơ bị loại ngày từ vòng đầu.
Sau khi thi GCSE, các em sẽ phải chọn ít nhất 3 môn để học tiếp 2 năm (lớp 12 và 13) và thường thì các em chọn 4 môn. Cuối năm lớp 13, các em phải trải qua kỳ thi KHỦNG với tên gọi là Alevel. Tôi không biết nói gì hơn ngoài nhắc lời con gái tôi: “Sức ép kinh hoàng”. Cũng chính vì sức ép tâm lý cộng với sự buồn chán vì trong 2 năm đằng đẵng chỉ học 3 môn, con gái tôi mới quyết định chuyển sang học ở Mỹ sau khi kết thúc kỳ thi GCSE.
Tôi không hiểu tại sao 5 năm trở lại đây, điểm thi GCSE và Alevel của học sinh Anh cứ “leo thang” từng ngày. Số học sinh ở các trường thứ hạng cao đạt toàn bộ A* trong các kỳ thi GCSE và Alevel tăng đến chóng mặt. Vì vậy, một số trường yêu cầu học sinh thi IGCSE (tức là International GCSE với bài thi khó hơn nhiều). Tỉ lệ toàn bộ đạt A* vẫn cao ngất. Vậy là cuộc đua vào đại học ngày càng quyết liệt bởi nhiều A* thế, biết chọn ai bây giờ? Mỗi sinh viên được nộp hồ sơ vào tối đa 5 trường (riêng ngành y và thú y chỉ được chọn 4 trường). Sự KHỦNG KHIẾP lại được nâng lên tầm cao hơn. Năm ngoái, trường con gái tôi có một cô bé học cực SIÊU nhưng vì chủ quan nên nàng chọn trường Oxford cho cả 5 nguyện vọng. Kết quả là Oxford không nhận, nàng ngồi nhà chờ 1 năm để tìm trường khác. Tất nhiên, trường nội trú Wycombe Abbey nơi con gái tôi học là trường đứng trong top 5 của các trường tư (independent) nên sức ép càng lớn. Thực tế là năm nào cũng gần 50% học sinh của trường được Oxford và Cambridge nhận lại càng tạo nên sức ép tâm lý. Bạn học cùng trường kể với con là cô bé ghét hai trường đó lắm nên không nộp hồ sơ. Nhưng cô giáo tư vấn và bố mẹ cứ bắt phải nộp, kết cục là nàng đặt Oxford vào nguyện vọng cuối cùng, để khỏi bị mắng. Đầu kỳ nghỉ hè này, con gái tôi về Anh thăm các bạn, mẹ của cô bạn thân mời nàng đến nhà chơi. Nàng kể là bà bỏ ra đến hơn 2 tiếng, chỉ để thuyết phục nàng phải nộp hồ sơ vào Havard hoặc Stanford. Bí quá, nàng chỉ biết vâng dạ và cười trừ. Bà mẹ này còn nói: “Cháu không nộp hồ sơ vào mấy trường đó là có tội với nhân loại đấy!” Tôi nghe kể lại mà khiếp quá, đổ hết mồ hôi. Nhờ vậy nàng cám ơn và ca ngợi mẹ hết lời vì đã không ép nàng phải vào các trường nổi tiếng. Hết ra mồ hôi, mẹ cảm thấy phổng mũi.
Vậy làm hồ sơ vào đại học ở Mỹ thì sao? Nói một cách công bằng, học phổ thông ở Mỹ có sức ép nhưng không căng thẳng như ở Anh. Các môn học cũng đa dạng và toàn diện hơn. Cái làm tôi khoái nhất là họ bắt tập thể thao hàng ngày (chứ không tổ chức theo kiểu thi đấu lấy thành tích) và rất khuyến khích học các môn nghệ thuật như đàn, hát, tham gia dàn nhạc và dàn đồng ca. Con gái tôi hài lòng lắm, ngoài việc phải tự luyện thi SAT (cả SAT 1 và SAT 2). Tháng 1, sau khi thi và có kết quả SAT 1 khá cao, con tôi bắt đầu “công cuộc” tìm trường mệt mỏi kinh người. Ngồi ở Việt Nam, tôi cũng toét hết cả mắt để tìm thông tin về trường rồi “bàn ra tán vào” với con. Rồi là thi SAT 2 vào tháng 5 và tháng 6, rồi đi xem trường... mọi thứ cứ “lộn tùng phèo” hết cả. Để rồi hè đến, từ đầu tháng 8 là con gái “chổng mông” viết bài luận. Nàng định nộp hồ sơ vào 7 – 8 trường nên tổng cộng cả essay chính thức và bổ sung là bài luận cả dài và ngắn. Tôi ngán ngẩm nhìn con gái suốt ngày “chúi mũi” vào giấy và bút, gõ máy tính lách cách, mẹ hết “đi ra đi vào” lại “đi lên đi xuống”, thở dài thườn thượt. Chộp lúc con viết xong bài nào, mẹ lại nằng nặc xin xem bằng được rồi tán thưởng (chứ còn biết làm gì nữa?).
Vậy đấy, hành trình thi cử và làm hồ sơ vào đại học ở Anh và Mỹ so với Việt Nam đâu có “kém cạnh” gì. Nhưng những điểm khác cơ bản là: