Lão ngồi xuống lấy chai nước lọc uống rồi lại đứng dậy. Đất như đang cồn lên ở dưới chân lão. Hoàng Lạc ngỡ nghe rõ từng hơi thở phập phồng từ lòng đất hoang vắng lạnh lẽo. Đất đỏ sẫm như màu máu đặc quánh của năm mươi năm về trước. Xa xa núi Bà như cái thúng màu sẫm úp dưới nền trời xanh ngút.
Lão trở lại vùng đất ám ảnh mình suốt nửa thế kỷ qua, nhưng rất khó xác định từng vị trí cụ thể. Hầu như thay đổi hoàn toàn. Chỉ còn núi Bà là y nguyên, ngoài ra không còn vật nào làm mốc để định vị được nơi lão cùng mấy người lính phượng hoàng chôn lấp xác Việt cộng. Phía sau căn cứ Phước Hòa, rừng lồ ô giờ đây là rừng cao su của Công ty cổ phần Long Phú. Phía trước là những vùng dân cư đông đúc nằm giữa các vườn điều, vườn tiêu xanh tốt.
Lão Hoàng Lạc đứng ra nhận làm nhân chứng về vị trí chôn lấp số bộ đội của Trung đoàn 87 hy sinh thời chống Mỹ. Mấy lần lão được đưa vào Đội tìm kiếm hài cốt liệt sĩ Trung đoàn 87 với danh nghĩa là nhân chứng đặc biệt. Vậy mà, qua bốn lần khai quật họ chỉ tìm thấy số hài cốt liệt sĩ thuộc bộ đội đặc công của Bộ. Mỗi lần khai quật, lão với mấy người trong Đội tìm kiếm săm soi từng gàu đất nhưng vẫn chưa phát hiện ra hài cốt của những người lính thuộc Trung đoàn 87.
Trên một trăm hài cốt bộ đội mà lão trực tiếp chôn cất đang nằm ở đâu? Câu hỏi đó luôn hiện lên bức bối trong đầu Hoàng Lạc.
Sau mỗi lần đi theo Đội tìm kiếm như vậy, lão về nhà trằn trọc suy nghĩ. Có lúc lão ngồi lặng phắc như pho tượng. Trông lão như vừa ốm dậy, mắt trũng sâu dưới mái tóc không hớt bù xù. Lão xuống bếp nhóm lửa nấu nước pha trà. Lão xách bàn và ghế nhựa ra sân ngồi uống một mình, mắt hướng về khu xây dựng Trung tâm hành chính thị xã P. Lão ngồi mấy giờ liền.
Đêm đã khuya, Hoàng Lạc vẫn không tài nào chợp mắt nổi. Gió thổi trên cao, gió thổi dưới thấp làm xao động bầu trời và cây lá trong vườn nhà lão. Có cái gì đó làm lão bồn chồn nôn nao. Con gà trống khét lão nuôi đã gáy canh ba. Mắt lão vẫn mở trân trân. Gần đến sáng lão mới chợp mắt thiu thiu ngủ.
Mấy người lính Bắc Việt gầy gò, nhào đến, chỉ thẳng vào mặt lão mắng té tát: “Mày là thằng tay sai bán nước. Mày đã cầm súng bắn vào cô giao liên của Cách mạng, mày đã mang tội với nhân dân”. Lão quỳ gối, chắp tay van xin mấy người lính mặc áo màu xanh lá cây: “Dạ… dạ… Con biết tội rồi… Con xin mấy ông tha cho”. Một người lính trẻ măng, tay cầm súng AK gầm lên: “Tao sẽ giết mày. Giết mày. Thằng tay sai đốn mạt ạ!”. Một người đàn ông già hơn chạy đến la lớn: “Đừng giết nó các đồng chí ơi! Nó… nó là con trai tôi…”. Lão nhìn lên, ba, đúng rồi ba mình. Tiếng lão đùng đục: “Ba ơi, con không có tội, con bị bắt buộc giết người!”. Người lính trẻ vẫn cầm súng lăm lăm chĩa vào lão: “Không, nó nói láo. Tội nó đáng chết! Đáng chết! Không thể tha thứ được!”. Khẩu AK rung lên. Lão thấy nhói trước ngực.
Lão gục xuống. Mấy người lính tan biến vào không khí. Bóng ba lão dần dần mờ xa rồi cũng mất hút. Bỗng nhiên lão đứng dậy được. Thập thững lội qua mấy con suối, leo lên mấy quả đồi, đến một ngôi làng có những ngôi nhà hình chữ nhật màu xám. Lão bước vào ngôi nhà thứ nhất. Một người đàn ông có khuôn mặt quen thuộc nhìn lão. “Ba đã xin tha cho con nhưng họ không chịu. Thôi, chiến tranh là vậy. Hỗn độn. U minh. Con phải chịu sự trừng phạt thôi…”. Lão đi ra và bước vào ngôi nhà thứ hai. Một người đàn bà có dáng lưng còng còng quen thuộc quay mặt vào trong. Mùi hương trầm. Tiếng mõ cốc cốc. Tiếng tụng kinh văng vẳng. Nam mô a di đà Phật… Xin Phật cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh. Phật ơi, tui sinh nó tui biết, nó không phải là người ác. Lão gọi “Má!”, gọi mãi mà không thấy người đàn bà quay lại. Những giọt nước mắt bay ngược lên trời rồi trôi về phía lão. Lão rất muốn đến với người đàn bà mà mình vừa gọi má đó nhưng chẳng hiểu vì sao chân không bước về phía trước được. Cơn nhói ở ngực trái vẫn tăng lên. Tay lão sờ vào đó, lạ là không có lỗ thủng nào và máu cũng tuyệt nhiên chẳng rỉ ra một giọt. Lão đi lui ra để định bước vào ngôi nhà thứ ba. Có tiếng gọi giật giọng phía sau. Lão quay lại, thấy một tấm mặt ngựa gắn trên bộ quần áo rằn ri cũng quen thuộc. Đôi mắt xếch của mặt ngựa vằn lên những tia đỏ, hắn gào: “Mày không được vào đó nghen”. Lão không nghe lời hắn và bước vào ngôi nhà thứ ba. Một người phụ nữ ngoài hai mươi tuổi, có khuôn mặt bầu bầu, đôi mắt bồ câu rất quen thuộc nhìn lão. Trên tay có một chiếc áo may dở. Bất chợt người phụ nữ bật khóc. Những giọt nước mắt đỏ như huyết rỏ xuống nền đá lạnh. Lão thấy buốt sống lưng. Tiếng người phụ nữ váng vất: “Anh đã trả thù cho em là đủ rồi, đừng đày ải thân xác mình làm gì nữa. Sao anh không lấy vợ, cho có người sẻ chia hôm sớm…”. Lão bước tới ôm người phụ nữ vào lòng thì đột nhiên nàng bỗng tan biến ra thành khói. Làn khói trắng có màu hoa sứ quấn quýt lấy lão rồi đóng lại thành một chấm sáng lao qua trước mắt lão. Lão thất thần gọi to: “Em… em ở đâu rồi?”. Lão cuống quýt đi tìm cô gái mà lão tin đó là vợ mình. Lão dấn bước về phía trước, càng đi càng thấy mịt mùng. Bỗng như có một phép thuật nào đó, vợ lão lại hiện ra, trên tay cầm một tờ giấy nhỏ. Nàng cười: “Mấy anh bộ đội nói em trao cái này cho anh”. “Bản án tử hình thứ hai à?” - lão hỏi. “Không phải, anh cứ xem đi thì biết”. Nàng lại biến mất. Lão vội vàng mở tờ giấy ra, có những đường ngang dọc và chấm nhỏ trên đó. Lão giật mình, sao giống thế, sơ đồ địa hình nơi lão và ba chiến hữu chôn lấp các người lính Bắc Việt...
Hoàng Lạc tỉnh giấc khi con gà khét đã dụ mái cục cục trước sân. Trời sáng bạch. Lão uể oải ngồi dậy, đầu nhức như búa bổ. Giấc mơ làm cho lão bàng hoàng. Hoàng Lạc chợt nhớ tới tờ giấy mà người vợ quá cố trao cho mình trong mơ. Lão cố nhớ lại những đường ngang dọc, những chấm nhỏ rồi lụi cụi vẽ ra giấy. Cầu Phật phù hộ cho mình cùng Đội tìm kiếm gặp được các anh ấy.
***
Một tiếng súng đanh chát phát ra giữa thinh không. Cả Tiểu đội của Phương Xuân bật dậy, ngơ ngác. Lệnh báo động: “Có biệt kích!”. Đơn vị bủa đi truy tìm, mãi không thấy biệt kích, thám báo đâu cả. Quay lại, Phương Xuân phát hiện ngón tay trỏ của chiến sĩ gác thuộc tiểu đội mình bị nát bét, máu chảy đầm đìa. Cậu ta dùng súng tự bắn vào ngón tay mình.
Phương Xuân lặng lẽ đến bên người chiến sĩ. Trước hết, phải thắt ga rô và băng ngón tay cho cậu ta. Sau đó, phải báo quân y xử lý. Chắc là do áp lực của trận đánh vừa rồi, cộng thêm đói khổ và sốt rét nhiều mà cậu ấy suy sụp tinh thần. Phương Xuân nhìn thẳng vào đôi mắt đồng đội. Sự thất vọng, sợ hãi và cầu cứu hiện lên. Phương Xuân thấy thương cảm người lính trẻ. Trách móc, sỉ nhục hay mắng nhiếc chẳng giải quyết được gì. Cậu ta còn trẻ mà chiến trường lại khốc liệt, gian nguy đến vậy.
Chuyện phấn đấu vào Đảng của mình chắc chắn sẽ gặp muôn vàn trắc trở từ vụ việc mất an toàn này. Phương Xuân biết Chính ủy Trung đoàn không ưa gì mình vì cái chuyện anh dám đặt câu hỏi khó đỡ với ông trong một buổi lên lớp chính trị. Trung đoàn trưởng Trần Thi biết chuyện này nên đã chủ động gặp Chính ủy nói đỡ mấy câu cho thằng em trai bướng bỉnh của bạn mình. Chính ủy hậm hực: “Ông cũng đừng chiều nó quá, thằng Phương Xuân đánh đấm được nhưng ngang lắm, thích lý sự bắt bẻ người khác. Đến tôi mà nó cũng không sợ…”. Trần Thi cười cười: “Hắn đánh đấm được là ngon rồi. Cầm quân, tôi và ông mong gì hơn thế. Còn tính khí nó thì ta cứ rèn dần ông ạ!”. Phương Xuân biết được đoạn đối thoại này qua lời cậu công vụ rất mến anh kể lại. Anh hơi buồn nhưng cũng tự nhận là mình bộc trực quá. Nghĩ sao nói vậy, không hề quanh co, cong queo.
“Thôi, mặc xác nó, không trở thành đảng viên thì làm quần chúng tốt. Không tụt tạt B quay, không hèn nhát khi ra trận là được rồi. Cốt yếu ở cái chất người lính chứ không phải đảng viên hay quần chúng”. Nghĩ là nghĩ thế thôi nhưng nguyện vọng được đứng trong hàng ngũ Đảng luôn thôi thúc anh phấn đấu.
Phương Xuân đưa người chiến sĩ lên Bệnh xá, nói là cậu ta lau súng do sơ ý không biết đạn còn trong hộp nên bị cướp cò. Nghe anh nói với bác sĩ thế, cậu chiến sĩ cúi đầu im lặng, nước mắt ứa ra. “Đau lắm à! Lau súng, lau ống gì mà bất cẩn vậy. Coi như xong ngón tay ngoéo cò, không còn được ra trận nữa đâu nhé!”. - Bác sĩ an ủi người lính. Phương Xuân thấy có gì không đúng trong hành vi bao che cho chiến sĩ của mình. Ai cũng như nó thì đầu hàng địch đi cho nó xong, khỏi phải giã nhau chí chóe nữa. Nhưng, nếu để việc này lộ ra thì chắc chắn nó phải ra tòa án binh và chịu hình phạt kỷ luật không hề nhẹ. Nó còn trẻ lắm, măng tơ đang đầy má thế kia…
***
Mới tờ mờ sáng, Phương Xuân đã thức dậy đi tìm rau rừng về cải thiện bữa ăn cho bộ đội. Ở khu vực này có rất nhiều cây sa nhân. Phương Xuân sinh ra ở miền trung du nhưng chưa hề biết mặt cây sa nhân. Lúc đầu gặp anh cứ nghĩ đấy là cây riềng rừng nên đào củ về giã ra trộn với muối làm thức ăn. Muốn đào được sa nhân phải có nhiều thời gian hơn. Sớm nay, anh chỉ đi loanh quanh chỗ đóng quân hái được ít rau tàu bay mang về.
Ngâm mấy cây rau vào chậu xong, Phương Xuân bước vào lán. Ơ kìa, chiếc ba lô của mình ai đã mở ra vậy? Anh nhìn vào, gói mì chính hai lạng không cánh mà bay đâu mất. Đó là gói mì chính cuối cùng của Tiểu đội dùng để thỉnh thoảng nêm cháo cho người ốm. Phương Xuân báo cáo đơn vị và đề nghị cho kiểm tra quân tư trang. Trời ạ, thủ phạm không ai khác chính là chiến sĩ tự bắn vào ngón tay mình dạo trước. Cậu ta trân trân nhìn gói mì chính như là mới thấy lần đầu rồi bất ngờ cầm lên xé nó ra đổ xuống đất. Những hạt mì chính trắng tinh rơi tung tóe trên nền lán mấp mô.
Không kìm được cơn giận, Phương Xuân giơ tay tát một cái vào mặt cậu ta. Anh quát lớn: “Đồ ngu. Đồ hèn. Nếu sợ đánh nhau, sợ chết thì sao mày không đào ngũ từ Quảng Bình cho xong mẹ nó đi. Mày vào đây làm gì? Mày làm khổ bọn tao như thế chưa đủ sao? Tại sao mày không nhận tội lấy trộm mì chính lại còn xé bao ra ném xuống đất. Lấy gì nêm canh, nêm cháo đây, hả!”. Cậu ta ngồi sụp xuống, hai bàn tay úp mặt khóc hu hu. “U ơi! Tại sao con lại khổ thế này u ơi!”. Đồng đội thấy thế xúm lại can ngăn. Phương Xuân đứng nguyên như trời trồng. Không nói thêm một câu nào nữa. Anh đi lại sạp nứa ngồi, im lặng đưa tay lên vò đầu. Anh thấy thương hại đồng đội và ân hận việc làm vừa rồi của mình.
Đời lính chiến. Chuyện gì cũng có thể xảy ra. Nhục. Vinh. Đủ mọi thể loại. Ba tháng trước, Trung đội anh có một chiến sĩ vì đói quá mà ăn nhầm củ ráy. Hôm đó trời nhá nhem tối, đơn vị báo động di chuyển đến địa điểm mới chuẩn bị chiến đấu. Cỡ hơn hai giờ sau Thủ trưởng mới cho các bộ phận quay về vị trí cũ. Đang đói, chiến sĩ thấy củ ráy nằm ở góc bếp, cứ tưởng khoai lang cầm lên cắn một miếng nhai ngấu nghiến. Bất ngờ cậu ta trú trớ không nói được, sau ít phút môi sưng to, lưỡi co thụt vào trong. Phương Xuân cùng một số chiến sĩ hốt hoảng chạy lại. Nước mắt người chiến sĩ giàn giụa trông thật tội nghiệp.
Củ ráy ngứa kinh khủng. Kinh nghiệm người đi trước, lấy độc trị độc, thường dùng củ ráy cắt làm đôi chấm lên những nốt ngứa do muỗi đen gây ra. Thường qua những trảng rừng tre gai, muỗi đen nhiều như vãi trấu. Loại muỗi này đốt ít bị sốt rét, không sợ bằng muỗi Anôphen, nhưng rất ngứa. Càng gãi càng nổi lên nhiều nốt đỏ sần sùi. Giữa những nốt đỏ sần sùi ấy mọc lên từng cái lông nhỏ loe hoe vàng... Thoạt đầu tưởng mắc bệnh đậu lào mà ở quê Phương Xuân thường hay có dịch. Đóng quân ở vùng muỗi đen nhiều, bị nó đốt khó chịu lắm, nằm hay ngồi cũng bị ngứa như điên. Khổ nhất, mỗi khi đi tè và đại tiện, muỗi đen vây kín đốt sưng đỏ mông.
Khổ cho cậu chiến sĩ “củ ráy”, một tuần lễ sau vẫn còn nói ngọng. Đơn vị hành quân đến ngã ba biên giới giáp với vùng Hạ Lào, nơi được mệnh danh là xứ sở của voi ở Đông Dương. Đang trên đường hành quân, cậu chiến sĩ “củ ráy” lên cơn sốt ác tính và không qua khỏi. Tiểu đội của Phương Xuân mang đồng đội mình lên một đỉnh cao an táng. Một huyệt cạn nằm cạnh mỏm đá. Hơn năm sau, Phương Xuân và hai chiến sĩ trinh sát quay về chỗ đó tìm thì nấm mộ đồng đội không còn. Những cơn mưa rừng xối xả đã san phẳng mộ người chiến sĩ trẻ xấu số.
Đời bộ đội cũng có lắm tao ngộ bất ngờ. Người chiến sĩ tự bắn vào ngón tay mình và ăn cắp gói mì chính sau này lại trở thành người lính trinh sát cùng nhóm với Phương Xuân. Chuyện cậu ta nằng nặc xin ở lại đơn vị và trở thành người lính trinh sát dông dài lắm. Thôi, chuyện đó sẽ kể vào dịp khác, bây giờ chỉ biết cậu ta là chiến sĩ trinh sát và yêu quý Phương Xuân không ai bằng. Trước trận đánh vào căn cứ Phước Hòa, cậu ấy được bổ sung vào Trung đội trinh sát Trung đoàn.
Phương Xuân đã trải qua những năm tháng cùng cực và éo le. Có lúc trước trận đánh, lính ta bị sốt rét rất nhiều. Chỉ tính riêng Tiểu đội trinh sát của Phương Xuân đã có bốn người thay phiên nhau… sốt. Đói, sốt rét, thiếu thốn mọi thứ nên nhìn lính ta thật xơ xác. Xót xa nhất khi thấy cảnh bộ đội ta đứng, ngồi bắt chấy cho nhau vào những ngày hửng nắng.
Có một phái đoàn ngoài Trung ương vào thăm đơn vị. Tận mắt thấy cảnh bộ đội ăn đói mặc rách các cụ xót lòng lắm. Chẳng biết hai cụ về báo cáo lại Trung ương những gì mà một năm sau đó đơn vị Phương Xuân được tăng tiêu chuẩn. Mỗi người được cấp ba lạng đường và lượng muối được bổ sung chút xíu… trên giấy tờ. Vì thế, tình hình nói chung vũ như cẫn. Nạn thiếu muối đẩy bộ đội vào tình trạng suy kiệt cơ thể, nhiều người mất ngủ. Ai cũng cảm thấy người chơi vơi, hâng hẫng. Từng bắp cơ cũng bị lỏng lẻo, nhão chùng ra. Sự dao động, mất niềm tin trong bộ đội có chiều hướng lan rộng. Đơn vị vắng hẳn tiếng cười, tiếng hát. Thay vào đó là tiếng rì rầm ca thán, bộc lộ sự mệt mỏi, chán nản. Anh em chiến sĩ đang thì thào, rì rầm nhưng thấy bóng chỉ huy là lập tức im bặt. Tuy nhiên không phải tất cả đều như thế. Vẫn còn không ít người trung kiên, nghiến răng chịu đựng gian khổ như Phương Xuân...
***
Chiếc GMC chở toàn xác lính Việt cộng. Xe lúc lắc đi qua mấy đoạn đường mấp mô ổ voi, ổ gà. Trên một trăm cái xác nằm chồng chéo lên nhau lấp đầy hết thùng xe. Đến gần khu nghĩa địa của dân chiếc xe dừng lại nặng nề khạc ra những đụn khói đen kịt, mùi dầu ma zút hực lên nồng nặc. Hoàng Lạc cùng ba tên lính nhảy xuống. Chiếc máy húc ủi một đường hầm dài hai mươi mét, rộng cỡ ba mét, sâu trên ba mét. Nó chạy ra ngoài tắt máy chờ đợi. Một chiếc Jeep từ hướng căn cứ Phước Hòa lao đến chở theo một trung úy. Xe chưa kịp dừng, viên trung úy đã nhảy xuống chỉ tay vào đoạn hào nói:
- Tụi mày sắp xác Việt cộng lên thành lớp rồi ủi đất xuống lấp chèn thật kỹ. Sau này, sân bay quân sự Phú Bình sẽ mở rộng lên khu vực này. Bọn Cộng quân mãi mãi bị chôn chặt ở dưới tha hồ mà chuyện trò với nhau.
Nói xong, hắn cười hô hố lộ mấy cái răng cửa ám đầy khói thuốc lá vàng đục, rồi nhảy tót lên xe phóng đi để lại vệt bụi đỏ loằng ngoằng phía sau.
Nhìn đống thây người trên thùng xe bị hất xuống đất nằm đè lên nhau ngổn ngang, gã cùng mấy người lính ngao ngán đứng nhìn. Thôi thì cứ để xe ủi ủi đại xuống rồi cho đất lên chèn cứng là xong. Một người trong bọn gã đề nghị. Im lặng. Hoàng Lạc cảm thấy hết sức nặng nề ngột ngạt, gã bước lại chỗ tên lính lái máy ủi. Gã nói một hồi với nó, khuôn mặt nhợt nhạt rồi đanh lại. Hai người gật gật đầu với nhau. Hoàng Lạc quay lại, chỉ tay vào số xác Việt cộng, nói với ba chiến hữu của mình và gã lính lái xe:
- Tui nghĩ thế này các ông ạ. Họ là lính bên kia nhưng cũng là người Việt Nam cả, đều máu đỏ da vàng như chúng ta. Chết đã không hòm săng, vải bọc lại còn bị chôn vùi, chôn lấp thành đống thế này. Nghĩ cũng tội. Chắc các ông cũng không muốn họ bị chôn kiểu đó. Gia đình, cha mẹ, vợ con họ biết họ chết thảm thế này xót xa lắm. Mình làm phước, làm đức cho người ta đi nghen. Ở đây, ngoài mấy anh em mình ra không có ai. Bọn sĩ quan làm sao biết được. Nghĩa tử là nghĩa tận. Theo tui, ta lót bạt ở dưới rồi sắp họ ra từng người kề nhau, hết lớp này tới lớp khác sau đó đậy bạt lên mới ủi đất xuống. Theo phong tục người Việt cứ đặt đầu họ quay về núi.
Hoàng Lạc vừa nói vừa đưa tay chỉ về núi Bà. Ba tên lính nghe lọt tai giục nhau làm theo ý gã. Cả bọn hì hục làm theo lời Hoàng Lạc. Tử thi để lâu trong nắng đã bốc mùi tanh lợm. Những người lính chết trận áo quần tả tơi, thân hình bị biến dạng mang nhiều lỗ đạn, vết cắt trên đó trông thật thê thảm. Có mấy con quạ đánh được hơi người chết từ đâu bay đến đậu trên mấy ngọn cây xung quanh kêu ầm ĩ. Bốn gã lính quân đội Sài Gòn, khẩu trang bịt kín miệng, khiêng từng thi thể đặt xuống hào. Hình như bây giờ trong họ nỗi thù hận đã được thay thế bằng tình cảm vốn có của con người, theo đúng cách nghĩ truyền thống của dân Việt, nghĩa tử là nghĩa tận. Trong hoàn cảnh này, ai nỡ đối xử tệ hại với nhau làm chi. Hận thù nên dừng lại bên hố huyệt, khi đối thủ của họ sắp được nằm vĩnh viễn trong lòng đất lạnh lẽo, tối tăm. Cuối cùng, mọi việc cũng xong. Cả thảy, một trăm ba mươi tư thi thể được sắp xếp nằm liền nhau đầu quay về núi Bà. Hoàng Lạc chắp hai tay lại, miệng lầm bầm câu gì đó rồi hô bọn kia trùm kín bạt lên các xác chết. Chiếc máy ủi rung lên, ống khói nhả ra đen kịt, chiếc cần ben được hạ xuống. Từng lớp đất được ủi đến lấp đầy đường hào. Một cái huyệt chung không có nấm, được chiếc máy ủi lăn qua lăn lại lèn chặt đất. Một mảnh vá màu đỏ sẫm hiện lên trên vùng đất loe hoe cỏ dại. Lên xe trở về căn cứ, Hoàng Lạc vẫn ngoái đầu nhìn về phía cái huyệt chung của những người lính Bắc Việt. Nỗi ám ảnh sâu nhất về chiến tranh của gã là đây. Nó không chịu buông rời ra khỏi ký ức của Hoàng Lạc. Năm mươi năm rồi, vẫn thế, chuyện như vừa xảy ra hôm qua…
Sau thắng lợi Phước Hòa, tỉnh trưởng Y huênh hoang tuyên bố rằng: “Quân chủ lực Việt cộng không có chi đáng sợ”. Bọn chúng tổ chức ăn mừng chiến thắng. Rượu. Bia. Đàn bà. Thỏa thuê từ sĩ quan đến lính tráng. Nhiều thằng được thăng cấp hay được trên thưởng phép. Lính tráng phọt phẹt như Hoàng Lạc cũng được thưởng năm ngày phép. Gã không vui, không buồn. Má mất. Vợ không còn. Một thân một mình, một căn nhà trống hoác, trơ trọi. Cô đơn, cô độc, cô liêu. Nhưng dẫu sao còn hơn ở trại lính, thô tạp, tục tĩu, nơm nớp lo sợ Việt cộng trả thù. Gã nghĩ.
Mấy ngày phép, Hoàng Lạc không đi đâu, gã quét dọn nhà cửa và trang trí lại bàn thờ của ba má và vợ. Gã nghĩ, có lẽ nhờ ba má và vợ độ trì phù hộ mà gã được thoát chết trong trận đánh vừa qua. Hoàng Lạc đặt hoa quả, bánh trái, thắp hương cho ông bà, ba má và vợ, cảm tạ sự chở che của những linh hồn ở thế giới bên kia.
Đêm hai mươi sáu, rạng sáng ngày hai mươi bảy, tháng mười, năm một nghìn chín trăm sáu mươi bảy. Lực lượng Việt cộng tiến công như vũ bão bằng thủ pháo, B-40, súng phun lửa và các hỏa lực pháo. Ngồi dưới hầm gã nghe mặt đất rung chuyển như sắp đổ vỡ. Căn cứ Phước Hòa có hệ thống hầm hào vững chắc nên phía quân đội Sài Gòn đã cố thủ được. Rất không may cho đối phương, trước đó, một trung đoàn bên gã đã rút ra nhằm đánh lạc hướng Việt cộng. Họ nắm sai lực lượng đối phương đang chốt giữ tại căn cứ nên đề ra kế hoạch tác chiến không phù hợp. Họ đã mắc mưu. Sau mấy mươi phút nổ súng, không ai khác, chính trung đoàn nghi binh sau đó trở lại đánh úp vào quân Việt cộng. Bị bất ngờ, thế chủ động tấn công đã mất, quân Việt cộng chịu thất bại nặng nề, phải rút ra ngoài.
Sau đêm giao chiến, Hoàng Lạc cùng đám lính bảo an theo chỉ huy đi xem lại trận địa. Bọn gã rất ngạc nhiên khi nhìn thấy ở phía ngoài căn cứ Phước Hòa gần bìa rừng lồ ô có năm mươi cái huyệt đào sẵn... Cái còn nguyên, cái bị đất đá, cây cỏ lấp gần đầy. Mấy tên chỉ huy đứng bên những cái huyệt cạn này nói với nhau: “Có lẽ Việt cộng đã tính trước quân số thương vong nên mới cho lính đào huyệt trước”. Những cái huyệt không để đặt quan tài, mà chỉ để lấp xác lính tử trận tại chỗ… Nhưng họ không thực hiện được ý định đặt ra. Năm mươi cái huyệt không chôn một xác nào. Một trăm ba mươi tư lính Bắc Việt đều nằm lại căn cứ Phước Hòa. Số xác đó đã được chôn chung trong một đường hào mà Hoàng Lạc là một trong mấy gã lính đã thực thi công việc.
Sau trận này, từ tỉnh trưởng đến chỉ huy căn cứ Phước Hòa đều chủ quan coi thường Việt cộng. Một tháng sau không thấy động tĩnh gì, tỉnh trưởng cho rút một tiểu đoàn bộ binh, hai khẩu pháo 105, 155 ly về tăng cường cho căn cứ quân sự Đon Luân. Bọn họ không biết rằng, để trả thù cho cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 87, Quân giải phóng đã lên phương án tiêu diệt căn cứ Phước Hòa…
Phối hợp cùng chiến trường tỉnh B, bộ đội và du kích tỉnh Y liên tục tác chiến, thực hiện được những đòn tiến công gây choáng váng cho địch. Bộ đội và du kích địa phương đã phá tan hai cụm bốt Phước Hòa 3 và Phước Hòa 4; phá hai ấp chiến lược gần hai cụm bốt... Quân giải phóng đã san bằng căn cứ quân sự Phước Hòa; tiêu diệt trên một trăm năm mươi tên địch, phá hủy hoàn toàn trận địa pháo, gồm bốn khẩu 105 ly, hai khẩu 155 ly và nhiều doanh trại lính trong sân bay quân sự Phú Bình. Cùng lúc bộ đội chủ lực pháo kích sân bay Phú Bình. Một cụm quân Mỹ đóng dã ngoại gần sân bay Phú Bình phải đốt trại, phá hủy công sự rút chạy về Đon Luân. Đoạn đường từ chi khu Phú Hà đến căn cứ quân sự Phước Hòa không đầy 7 kilômét, nhưng địch đóng đồn bốt dày đặc. Được dân báo tin và che chở, bộ đội chủ lực phối hợp cùng bộ đội và du kích địa phương đã tổ chức phục kích ban ngày. Với tinh thần dũng cảm, giữ được bí mật và tạo thế bất ngờ. Quân giải phóng đã đánh tan một tiểu đoàn biệt động, một đại đội thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn 5 quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, bắt trên năm mươi tù binh, bắn rơi ba máy bay, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự.
Hoàng Lạc và số lính còn lại may mắn thoát chết. Gã chạy về căn cứ chi khu quân sự Phú Hà.