Sau trận Phước Hòa gã như người mất hồn. Bom của bên này rơi và pháo của bên kia dập là nguyên do của hàng trăm cái chết thê thảm của hai phía. Một góc rừng lồ ô gần căn cứ Phước Hòa bị thiêu rụi.
Trận đó Quân giải phóng đánh không thủng, buộc họ phải rút để lại hàng trăm xác chết nằm ngang dọc trên mặt đất lổn nhổn sạm khói. Khi Quân giải phóng lọt vào vòng trong thì bị kháng cự quyết liệt. Mãi tới chiều, khi họ vừa rút thì gặp hai tiểu đoàn dù từ chi khu Đon Luân lên ứng cứu chi viện Phước Hòa đánh chặn. Mấy ngày sau đó, gã nghe tụi lính kháo nhau rằng quân Bắc Việt thất bại vì ý đồ tác chiến bị lộ, có thể do chỉ điểm. Khi tiếng súng im hồi lâu, gã mới chui ra khỏi hầm. Đứng trên nóc hầm, gã không tin vào mắt mình. Tất cả bị xới xáo tan hoang. Mùi tử khí bốc lên tanh lòm, nồng nặc.
Chỉ huy căn cứ Phước Hòa ra lệnh cho lính sửa sang lại công sự, gia cố hầm hào. Tỉnh trưởng tỉnh Y tức tốc điều thêm bốn chiếc trực thăng quân sự, hai đại đội pháo 105 ly bổ sung cho căn cứ. Một tiểu đoàn thủy quân lục chiến Mỹ cũng được điều đến để sẵn sàng tham chiến nếu quân Bắc Việt tấn công lại. Suốt một tuần sau đợt tấn công của bộ đội Bắc Việt, sáng nào thức dậy, gã cũng nghe tiếng loa phát ra rả: ... Đêm 26 sáng ngày 27 tháng 10 năm 1967, phía Bắc Việt tấn công vào căn cứ quân sự Phước Hòa cách Trung tâm tỉnh Y khoảng 20 kilômét về phía tây. Trận đánh diễn ra từ 22 giờ 15 phút, có từ hai hoặc ba trung đoàn Quân giải phóng lao vào tấn công phía Việt Nam cộng hòa, ở vị trí YU198045 và bị đẩy lùi bởi pháo binh, trực thăng của quân lực Việt Nam cộng hòa. Qua báo cáo cho thấy 134 xác chết và 54 súng AK bỏ lại… Còn thêm chiếc bakota tâm lý chiến bay rè rè trên đầu phát xuống: ... Trận Phước Hòa, có đến 300 lính Bắc Việt bỏ xác cùng vô số súng đạn các loại do Trung cộng viện trợ…
***
Ba người lính phượng hoàng cùng gã được đẩy đi thu gom xác Việt cộng và xác lính quân đội Sài Gòn. Số lính quân đội Sài Gòn tử trận được đưa về nghĩa địa dân sự chôn cất. Bọn chỉ huy bắt bọn gã gom thi thể của một trăm ba mươi tư lính Bắc Việt về chôn lấp tập trung.
Hoàng Lạc nhìn qua một lượt. Kinh hãi quá. Những cái thây cháy sém và toang hoác thịt lộ cả xương ra ngoài. Nhiều người quần áo bị rách toạc loang bết máu sẫm đen. Bất giác, gã cúi đầu. Những người lính phía bên kia tuổi đời cũng chẳng khác gì mình. Chắc có người còn đang tuổi học hành.
Gã bước đi uể oải, miễn cưỡng giữa các thây người. Những khuôn mặt trẻ măng cháy sém. Gã ngồi xuống vuốt mắt cho từng người một. Nhiều đôi mắt không nhắm được trân trân nhìn gã. Lòng gã trĩu nặng nỗi buồn. Gã có cảm giác như ngày tận thế đang đến rất gần.
Nếu không có cuộc chiến tranh khốn kiếp này thì gã đâu phải đi lính. Mấy người này cũng vậy, họ từ Bắc vào đây làm gì. Họ học ra trường, đi làm việc, lấy vợ sinh con. Họ và gã sống an nhiên trong cuộc sống hòa bình, không bom đạn, không bắn giết nhau hết ngày đêm này qua ngày đêm khác. Trong số lính chết ở đây ai đã có vợ con, người yêu và ai chưa có? Khi nhận được tin báo tử, gia đình người thân của họ chắc sẽ đau đớn, xót thương vô cùng. Cuộc sống sao mà nghiệt ngã, bi đát đến vậy. Gã dừng lại trước một xác chết. Người lính này có nước da trắng và khuôn mặt chữ điền. Túi áo của anh có cái gì dày lên ở bên trong. Sự tò mò khiến gã không để lâu. Gã mở nắp túi, run rẩy kéo ra một cuốn sổ mỏng bìa màu hồng nhỏ hơn nửa bàn tay. Gã giở ra xem, ngay trang đầu tiên đã có tấm ảnh một cô gái xinh xắn mỉm cười. Như kẻ mộng du, gã đưa ngón tay vẽ theo khuôn mặt trái xoan của cô gái. Có lẽ đây là người yêu hay vợ của người lính tử trận. Gã nôn nao nghĩ đến người yêu.
Sau khi theo lệnh của chỉ huy bắn chết nữ Việt cộng được một tháng, gã được cấp trên thưởng mười ngày phép. Gã về nhà mang theo nỗi ám ảnh giết người. Má gã đâu có biết con trai mình đã làm điều ác, đã cầm súng bắn Việt cộng. Bà tính chuyện trăm năm cho Hoàng Lạc.
- Con với nó yêu thương nhau cũng đã trên năm nay rồi. Má cưới vợ cho con nghen.
Hoàng Lạc muốn nói cho má hắn và người yêu biết câu chuyện trên. Nhưng đắn đo sau trước, gã lại thôi. Nói ra, chắc má sẽ nổi giận, không chừng sẽ đuổi gã ra khỏi nhà, làm gì cho làm đám cưới. Gã im lặng. Mọi việc xảy ra trót lọt. Hôm đám cưới, bạn bè, cô bác xung quanh đến uống rượu vui vẻ chúc mừng hạnh phúc của đôi tân hôn. Gã giơ ly rượu lên mà không dám nhìn vào mắt ai. Nỗi ám ảnh giết người vẫn không buông tha gã. Đêm ấy, nằm bên vợ gã thấy người mình xỉu lả. Những tia máu từ ngực cô giao liên vọt ra hiện lên trước mắt gã. Thân gái mảnh mai gục gập xuống trong tiếng cười hô hố của thằng chỉ huy. Mãi vẫn không xua đi được hình ảnh đó. Gã bất lực bên cô vợ trẻ trung đang chờ đợi. “Anh mệt quá em ạ. Thông cảm cho anh nghen…”. Nói xong câu đó gã bật khóc trong sự ngạc nhiên của người vợ trẻ.
Hết phép. Gã trở lại căn cứ Phước Hòa, cũng vừa dịp đại đội gã nhận lệnh tăng cường càn quét các vùng căn cứ cách mạng. Lần này vào sâu hơn, mấy đợt quân phía gã bị đánh bật thất bại đến thảm hại. Tên chỉ huy đại đội bảo an chết tại trận. Gã bị thương ở cánh tay trái, cũng may mảnh đạn trúng vào phần mềm.
Mở đầu trận, hỏa lực pháo mặt đất bên gã nổ dồn. Tiếp đến mấy chiếc xe tăng, xe bọc thép lù lù tiến vào. Gã cầm súng dè dặt bước. Bỗng từ các bờ đất, các lùm cây tiếng súng AK của Quân giải phóng nổ giòn. Bên gã, bọn lính bị tấn công bất ngờ, hốt hoảng lui lại co cụm thành từng nhóm nhỏ. Bùm... bùm... bùm... Tiếng lựu đạn, tiếng thủ pháo, tiếng B-40 vang lên. Khói trắng, khói đen trùm khắp trận địa. Tất cả mù mịt, khét lẹt. Một chiếc xe bọc thép dính đạn B-40 bốc cháy, mấy chiếc kia khựng lại. Tiếng hô xung phong của Quân giải phóng dội đến. Bọn gã vắt chân lên cổ mà chạy. Có một điều làm Hoàng Lạc thắc mắc là trận càn vừa rồi, thằng mặt ngựa mắt xếch trước làm chung ở xưởng cơ khí với gã không tham gia. Nghe mấy thằng lính trong đồn nói lại, trước hôm đó một mình nó đánh chiếc Jeep lùn về nhà...
***
Mấy ngày sau, lấy cớ má ốm nặng gã xin chỉ huy về thăm gia đình. Vừa bước vào sân gã đã ngửi thấy mùi hương trầm phảng phất. Linh tính gã báo có điều gì không lành. Mấy ngày nay, tâm trạng gã không ổn, lúc nào cũng nôn nao lo lắng. Gã bước vội vào nhà. Hoàng Lạc không tin vào mắt mình nữa. Gã chồm tới:
- Sao zậy má? Chuyện gì đã xảy ra với zợ con? Sao má không báo cho con biết?
Khuôn mặt má úa héo, hai mắt sưng húp. Ảnh vợ gã đặt ngay ngắn trên một chiếc bàn nhỏ bên góc trái bàn thờ chính. Làn khói mỏng tang vương lên khuôn mặt hơi bầu cùng đôi mắt sáng đang nhìn gã chăm chăm. Quỳ sụp xuống bên má, gã bật khóc thảm thiết.
- Tại sao lại đến nông nỗi này má ơi? Em ơi, sao lại thế này?
Má gã ôm lấy con:
- Con đến thắp hương cho zợ con đi đã. Rồi má nói cho con nghe.
Câu chuyện tang tóc xảy ra quá bất thường như số phận mong manh của con người trong chiến tranh vậy. Như thường lệ, rằm tháng Bảy má gã đi chùa. Vợ gã ở nhà một mình. Ra ngoài cổng, bà còn dặn với vào: “Tối nay má không về. Đêm ngủ nhớ khóa cửa lại cho chắc chắn nghe con”. Vợ gã gật đầu “Dạ” một tiếng rõ to. Khi đi chùa Thanh Tâm về, bà thấy cửa nhà khóa lại. Chắc nó mắc công chuyện chi đâu đó chưa về. Bà lấy khóa mở cửa thì trời ơi, một cảnh tượng hãi hùng bày ra trước mắt. Con dâu bà nằm vắt ngang trên giường, thân thể lõa lồ, đầu ngoẻo xuống, tóc tai xổ tung ra. “Con!”. Bà chỉ kịp kêu lên như thế rồi lao đến chỗ con dâu. Cô đã tắt thở từ lâu, người lạnh ngắt. Bà bật khóc tức tưởi rồi lấy chiếc mền đắp cho con. Hàng xóm ùa đến ngày càng đông. Một người nói: “Đêm qua trời mưa to, tui có nghe tiếng xe Jeep chạy vào sân nhà bà, tưởng thằng Lạc về với vợ hắn”. Dấu bánh xe lăn vẫn còn hằn rõ trên sân ướt…
Má Hoàng Lạc nấc lên:
- Má nhờ người lên báo cho con nhưng ở đồn họ nói con đang đi thực thi công vụ. Thế họ không về nói lại với con à?
- Không, má ơi. Đồ cái quân chó chết!
Hoàng Lạc bước tới bàn thờ vợ. Mắt gã đỏ ngầu. “Ai đã giết em? Thằng nào đã làm nhục em đến mức này. Anh thề với em sẽ tìm ra nó và giết chết cái thằng chó đó!”. Như có sự mách bảo của linh hồn người vợ, Hoàng Lạc nghĩ đến ngay thằng bạn mặt ngựa, mắt xếch trước kia cùng làm việc tại xưởng cơ khí với mình. Thằng này rất tàn ác khi vào lính rồi trở thành sĩ quan. Gã biết hắn thèm khát vợ mình từ khi hai người chưa cưới nhau. Hoàng Lạc nuốt cơn ức hận đang trào lên ngang cổ, nói thầm với vợ: “Anh thề với em sẽ giết chết cái thằng chó đó!”. Mấy cây hương trên bàn thờ tự nhiên bùng cháy. Phải chăng lời nguyền của Hoàng Lạc đã thấm thấu vào linh hồn người vợ xấu số của mình...
Mấy tháng sau, má gã đổ bệnh rồi qua đời. Hai nấm mộ đặt gần nhau trong nghĩa địa của xã.
Hoàng Lạc đã gặp thằng mặt ngựa đó mấy lần khi trở lại căn cứ. Hình như hắn cố tránh gặp gã. Nếu có gặp thì hắn cứ lúng túng làm sao đó. Động thái đó càng củng cố thêm niềm tin trong Hoàng Lạc, chính hắn, cái thằng mặt ngựa mắt xếch đó là thủ phạm gây ra cái chết của vợ mình. Nỗi ấm ức cứ thắt nghẹn gã từng giờ, từng ngày. Nhưng gã cứ im lặng, nín nhịn. Thời cơ báo thù chưa đến.
Một trận càn mới vào hai xã Nghĩa Tính và Tính Đức nằm giữa căn cứ Phước Hòa và chi khu quân sự Đon Luân. Đây là vùng chiến khu của Việt cộng. Trong trận càn này thằng mặt ngựa có mặt. Hắn hung hăng xông lên phía trước, hô hét tụi lính tiến lên. Hoàng Lạc thuộc tốp lính đi sau. Quân của gã gặp phải trận địa đã bố trí sẵn của phía đối phương. Từng loạt AK đĩnh đạc nhằm về hướng quân của gã. Chiến hữu của gã nhiều tên đã bị đốn gục ngay từ đầu trận giáp chiến. Thằng mặt ngựa vẫn say máu hô hét quân lính. Giữa lúc đang hỗn loạn, gã nâng nòng AR-15 nhắm vào hắn. Đoàng, đoàng, đoàng... Thằng mặt ngựa đứng khựng lại rồi ngã vật xuống đất. Khẩu súng ngắn cầm trên tay văng ra. Chẳng biết khi bị đạn hắn có nghĩ tới Hoàng Lạc trả thù hắn không. Biết hay không biết thì cũng toi rồi, ác giả ác báo. Đúng là ông trời có mắt.
Trận đó bên quân gã thua liểng xiểng. Gã may mắn thoát chết và mừng hơn là đã triệt hạ được thằng mặt ngựa. Gã xin chỉ huy về nhà vài ngày. Gã ghé chợ mua hương hoa bánh trái rồi đến thẳng nghĩa địa. Đặt hoa lên đầu hai nấm mộ, gã thắp hương, quỳ gối lầm rầm khấn vái. “Má ơi, con đã làm tròn phận sự. Em ơi, anh đã trả xong mối thù cho chúng ta. Hắn đã chết rồi em nghen”. Chỉ nói đến đây, gã bật khóc tức tưởi. Khóc như chưa từng khóc vậy. Khóc như nỗi đớn đau bấy lâu nay đông cứng trong gã nay được tan chảy ra thành nước mắt. Cứ thế trào tuôn ra, cứ thế chan chan, không gì ngăn nổi. Khóc đến đâu nỗi đau gã dường như được vợi nhẹ. Gã nghĩ, linh hồn mẹ và vợ mình chắc đã nhẹ nhàng hơn. Làn khói hương trắng xám vẽ nên những đường cong mềm mại. Cỏ trên mộ mẹ và vợ gã đã nhiều và xanh hơn. Bây giờ gã mới chú ý đến điều đó. Hoàng Lạc sợ hãi khi nghĩ tới nỗi cô đơn trong những tháng ngày sắp tới.
***
Chặng đường hành quân từ Bắc vào nam Tây Nguyên cứ rõ mồn một trong ký ức Phương Xuân. Anh nhớ nhất mấy ngày dừng chân tại huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình sau hai tháng hành quân bộ từ miền Bắc vào. Vượt đèo Đá Đẽo, qua phà Xuân Sơn, đơn vị tạm nghỉ tại xã Sơn Trạch. Bộ đội chia nhau vào nhà dân ở vừa huấn luyện thêm vừa học tập chính trị, ổn định tư tưởng chuẩn bị cho trận chiến mới. Nhiều cuộc diễn tập thực hành trên thực địa để lính làm quen dần với chiến trường. Đêm, ngày đơn vị liên tục báo động sẵn sàng chiến đấu và hành quân di chuyển. Lính trẻ ai cũng hăng hái trong những ngày đầu nhập ngũ, do họ chưa hình dung hết khó khăn vất vả khi vượt Trường Sơn. Đang ở cửa ngõ chiến trường, tiếng bom đạn dội tới làm cho không ít chiến sĩ trẻ lo lắng. Cũng đúng thôi, sự ác liệt của chiến tranh ngày càng phơi bày rõ hơn, nó hoàn toàn không giống những gì được xem trên phim ảnh, nghe trong các bài hát, đọc ở các tác phẩm văn học như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ thời bấy giờ. Ở trạm dừng chân này, bộ đội đã tận mắt thấy những người lính từ mặt trận ra, không thương binh thì cũng bệnh tật, hầu hết đều hốc hác xanh xao vì thiếu dinh dưỡng và sốt rét.
Trong mấy ngày dừng chân ở Sơn Trạch, Phương Xuân cùng ba chiến sĩ vượt hai chuyến đò ngang đến chợ phiên thị trấn Ba Đồn mua lợn. Tính toán thế nào mấy tay lính trẻ mua luôn ba con lợn nhỏ, tính tổng cộng khoảng sáu chục cân hơi. Nhìn ba con lợn be bé, Thủ trưởng phê bình liền. Mấy chiến sĩ cho rằng ba thằng này “hâm” mới không dồn tiền mua một con lợn vừa to, vừa béo tốt. Ông bà nói rồi, con lợn có béo cỗ lòng mới ngon mà. Phương Xuân và hai người lính đi chợ về cũng không vừa: “Chính các cậu hâm thì có. Này nhé, một con lợn to thì chỉ có một cái thủ và một bộ lòng. Còn đây, ba con tất nhiên phải có ba cái thủ, ba bộ lòng nhé. Mà mỗi con cỡ hai mươi cân thì cũng là lợn choai rồi. Lợn nhà nông nghèo khó toàn ăn rau với cỏ nên chậm lớn đấy các cậu”. Cả đám chiến sĩ cười vang: “Coi như huề hòa nhé!”.
Đơn vị tiếp tục hành quân. Nghỉ lại ở Hoa Thủy, huyện Lệ Thủy. Vẫn đang đất Quảng Bình. Phương Xuân dồn tiền mua mấy xấp thuốc lá. Loại lính ta gọi là thuốc bọ để mang vào chiến trường hút dần. Mùa mưa bão. Nước lụt trắng đồng, bộ đội giúp dân thu hoạch lúa. Sáng thức dậy, dụi mắt thấy nền nhà nước ngập lênh láng, mấy cái ba lô và cả mấy xấp thuốc lá nữa không biết biến đâu mất. Nhìn ra giàn bầu, Phương Xuân thấy con gái chủ nhà đang phơi áo quần cho bộ đội. Mấy xấp thuốc lá cũng được rải đều trên cái nia gác ở góc giàn. Phương Xuân cảm động nghĩ đến tình quân dân thắm thiết. Thời chiến, đó là tình cảm cá nước gắn bó keo sơn không ai chia lìa được.
***
Trước khi vượt sông Bến Hải ở đoạn thượng nguồn, các đơn vị nhận quân tư trang mới. Số áo quần huấn luyện ở miền Bắc đều nộp lại kho hậu cần. Đơn vị nào cũng hành quân gấp gáp, nên áo quần lột ra lính ta vứt ném tùm lum trên đoạn đường dẫn vào cửa kho. Đơn vị đến sau ném chồng lên đơn vị đến trước. Cứ thế, đoạn đường trước cửa kho, quân phục dày lên chừng nửa mét. Mãi mấy ngày sau anh chị em coi kho mới thu xếp xong.
Con đường hành quân vào chiến trường gian nguy, vất vả vượt sức tưởng tượng của Phương Xuân. Hành quân bộ. Bom đạn. Mưa rừng. Suối lũ. Muỗi vắt. Thèm từng cọng rau.
Nhiều lúc anh nghĩ thầm không biết mình có trụ nổi không hay tụt tạt B quay như một số người khác. Không! Không thể như thế được. Gian khổ, hy sinh cũng phải nghiến răng chịu đựng, vượt qua. Bố, anh trai còn chịu đựng gian khổ hơn mình. Bố đã nằm xuống ở Điện Biên Phủ. Anh trai đang ở chiến trường. Không ai quay lui trong cuộc chiến chính nghĩa này. Hàng nghìn, hàng vạn người đã ngã xuống vì Tổ quốc. Mình không thể hèn nhát trước những con người như thế được.
Trên đường hành quân đến Binh trạm T31 và T32, họ gặp một chiếc võng mắc giữa rừng trên đó có bộ xương người. Võng còn chưa cũ mấy mà xương đã xám đen. Có người đoán chắc người lính đó đi công tác lẻ bị sốt rét ác tính bất ngờ nên mãi mãi không tỉnh lại. Đang giữa mùa mưa. Đường Trường Sơn nhiều đơn vị đi qua, nên khi vượt dốc dấu chân chồng lên dấu chân hàng trăm, hàng nghìn lần, có phiến đá tảng bị lõm xuống. Mưa xối xả, mưa nghiến ngấu, mưa triền miên làm đất nát thành bùn. Đất bị khuấy loãng như cháo ở trên cao đổ xuống. Thật nguy hiểm. Phương Xuân không nhớ mình đã vượt qua bao nhiêu con dốc, ngọn suối trong mỗi ngày. Cũng không biết phải chịu dầm dề bao nhiêu trận mưa rừng rồi. Một chiến sĩ đi trước anh ngồi bệt xuống, hai chân giạng ra không ở một tư thế nào cả. Cậu ấy đã kiệt sức, đầu gục xuống giữa hai đầu gối bê bết bùn.
Phương Xuân cúi xuống hỏi:
- Đồng chí không đi nổi nữa à?
Tiếng người lính lạc trong hơi thở phều phào:
- Ơi... Đảng ơi… Quân đội ơi… Con theo Đảng đến đây hết sức rồi…
Phương Xuân chết lặng. Anh cố trấn tĩnh và cùng một đồng đội ôm chiến sĩ đó đứng dậy. Hai người mắc võng cho người lính kiệt sức ở bên cạnh đường rồi dặn: “Cậu nằm nghỉ khi nào đỡ mệt thì đi tiếp nhé!”. Thương đồng đội chỉ làm được vậy thôi. Cả đơn vị lại tiếp tục lên đường. Không biết số phận của người lính đó ra sao. Những người lính hành quân không hề biết mình đang ở chỗ nào, rừng nối rừng miên man. Chỉ có chỉ huy mới biết được.
Lại thêm hai chiến sĩ chết vì sốt rét ác tính. Phương Xuân điểm lại trong trí nhớ họ tên những đồng đội ra đi vì căn bệnh quái ác đó. Anh cũng đã bị sốt mấy lần nhưng may mắn chỉ sốt rét thường nên đều vượt qua. Khi vào đến huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên, đang đi Phương Xuân có cảm giác ớn lạnh, sởn gai ốc rồi phát nóng đùng đùng. Toàn thân mỏi nhừ như vừa bị ai dần. Chân tay run lẩy bẩy. Mặc thêm áo, đắp chăn vẫn rét. Cái rét toát ra từ thân thể, từ dòng máu của chính mình khi hàng loạt hồng cầu bị ký sinh trùng sốt rét tấn công làm tan vỡ. Cái rét ác nghiệt thấm sâu vào xương, vào tủy con người. Cảm giác bải hoải, kiệt quệ trùm lên cơ thể. Thần chết thấp thoáng trong những cơn mưa Trường Sơn âm u dai dẳng. Hết rét lại đến nóng. Nóng như lửa đốt. Bao nhiêu chăn màn đắp vào lại bị tung ra. Cái nhiệt kế của quân y cho cặp vào nách lấy ra nóng bỏng. Cuối cùng mồ hôi vã ra như tắm, ướt đầm đìa từ đầu đến chân. Khi lên cơn sốt rét, bụng nôn nao, đau tức hạ sườn phải, lưỡi đắng ngắt, không muốn bỏ gì vào mồm. Nhưng cắt cơn sốt rồi thì ăn mấy cũng không no, ăn như giả bữa vậy. Nhiều người lính nằm lại Trường Sơn bởi căn bệnh sốt rét.
Những người lính vượt Trường Sơn lúc ấy sợ sốt rét hơn cả bom đạn. Mà bom đạn lúc ấy đã hủy diệt Trường Sơn bao nhiêu đâu. Sợ nhất vẫn là muỗi Anôphen, ruồi đầu vàng, mồng đen, vắt sọc xanh. Kinh hãi ruồi đầu vàng và mồng đen, lính ta quần áo Tô Châu dày đến vậy mà khi bị chúng chích vào cũng còn đau điếng, sau ngứa gãi sưng lở rất khó chịu. Vắt rừng thì con nào con nấy căng tròn vì no nê máu. Đi bị vắt bắn vào. Ngủ trên võng vắt cũng bám theo. Lúc dậy áo quần người nào cũng dính máu đỏ sẫm. Khổ nhất là vắt bám vào chỗ ấy của đàn ông. Máu rỉ ra rồi đọng lại dính dấp như thể chị em đang bị đến tháng vậy...
Dù gian khổ, vất vả đến mấy cuộc hành quân của những người lính từ miền Bắc vào Nam đánh giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai vẫn không dừng lại. Như cách nói hình tượng của cán bộ tuyên huấn thời ấy là họ phải đi bằng đầu, cuộc hành quân được đo bằng ý chí cách mạng và tinh thần yêu nước nồng nàn. Để về tới đích rất nhiều người đã nằm lại dọc con đường Trường Sơn và trên nhiều vùng đất xa lạ khác. Những người lính trận như Phương Xuân chưa bao giờ, không bao giờ quên được những năm tháng ấy.