Là em út, Phương Xuân được anh và hai chị gái thương yêu, chiều chuộng nhiều. Bố mẹ sinh ra bốn người con, anh trai Phương Xuân là đầu, tiếp đến hai chị gái. Vừa học xong cấp ba, anh cả ở nhà lao động phụ gia đình được ít tháng thì tình nguyện đi bộ đội. Gần ba mươi tuổi đầu anh vẫn chưa hề có ý định lập gia đình. Hồi chưa vào Nam, mấy lần đi công tác tranh thủ tạt qua nhà được mấy giờ thì mẹ luôn giục anh lấy vợ:
- Con ạ! Mẹ thấy con Hường nhà bác Lu xóm bên vừa đẹp người, đẹp nết. Con chịu, mẹ mang trầu cau qua dạm hỏi rồi lên Ủy ban xã đăng ký kết hôn là xong. Chiến tranh biết được khi nào dứt, con thì nay đây mai đó, trên bom dưới đạn, chẳng biết trước được điều gì. Mẹ chỉ muốn có đứa cháu nội để bồng bế...
Mẹ thở dài. Anh ngồi trầm ngâm im lặng một lúc rồi nhích lại nắm hai bàn tay gầy của mẹ:
- Lấy chồng lính khổ lắm mẹ ạ. Mẹ thấy đó, con đi xa biền biệt. Chiến tranh ác liệt, chẳng biết sống chết thế nào. Không khéo mình lại gieo nỗi đau buồn cho người ta. Mà con chưa đến ba mươi thì mẹ lo gì. Hết giặc con về quê cưới một lúc hai cô vợ rồi sinh ra một tá con cho bà thỏa sức bồng bế. Không khéo, đến lúc đó mẹ lại mắng mỏ con là giao cho bà cục nợ.
Mẹ anh mắng yêu con:
- Tổ bố mày! Mẹ thì lo cao lo thấp mà mày cứ trêu đùa như không.
Mẹ đưa tay lùa vào mái tóc anh như hồi mới lớn, năm ngón tay gầy luồn vào từng kẽ tóc con trai. Bà nhìn ra ngõ, hàng xoan đứng lặng giữa trưa hè im phắc. Ánh nắng hắt vào song cửa tre, nghe rõ tiếng o o của con ong đục lỗ cây kèo nhà. Hai giọt nước mắt của bà lặng lẽ lăn xuống mái tóc con. Anh ngẩng lên nhìn mẹ, rơm rớm nước mắt.
- Lại đốt hương cho bố đi con. - Mẹ anh nhắc.
Anh bước lại bàn thờ rút ba cây hương thắp cho bố. Người đàn ông mặc quân phục, đeo huân chương và huy hiệu Chiến thắng Điện Biên Phủ trong di ảnh nhìn anh nghiêm nghị. Cái nhìn như muốn nói: “Này con trai, làm Bộ đội Cụ Hồ phải lo phấn đấu rèn luyện nhiều đấy nhé!”. Anh cúi đầu, chắp tay vái bố, khấn thầm: “Thưa bố. Con sẽ noi gương bố, tu dưỡng tốt, không sợ gian khổ, hy sinh. Ra trận, phải chiến đấu dũng cảm”. Anh bước về chỗ cũ, ngồi xuống nắm tay mẹ lần nữa rồi khoác ba lô vào vai định lên đường. Vừa lúc đó, Phương Xuân đi học về. Anh ôm em trai vào lòng, căn dặn: “Anh phải đi đây. Ở nhà chăm chỉ học hành, nghe lời mẹ và hai chị nhé!”. Phương Xuân hỏi: “Thế bao giờ anh về?”. Anh trai vỗ vai em trả lời: “Hỏi thế mà cũng hỏi. Khi nào tan giặc thì anh sẽ về...?”. Phương Xuân nhớ mãi câu nói ấy của anh trai mình.
Lúc đó, Phương Xuân mới vào học cấp ba. Anh trai Phương Xuân ra đi được mấy tháng thì mẹ qua đời. Bà bị bệnh viêm phổi cấp tính ho ra máu rồi mất tại bệnh viện huyện Yên Dũng. Anh trai không về được. Chiến trường miền Nam đang trong thời kỳ dầu sôi lửa bỏng.
Sau thất bại của Chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ chuyển sang Chiến tranh cục bộ ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và quân chư hầu vào miền Nam, nhằm đẩy mạnh chiến tranh. Với chiến lược Chiến tranh cục bộ, đế quốc Mỹ tham vọng sẽ thực hiện thành công chiến thuật hai gọng kìm là tìm diệt và bình định ở miền Nam, đồng thời mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. Quân viễn chinh Mỹ, lực lượng chiến đấu chính, quân chư hầu, ngụy quyền Sài Gòn không ngừng tăng lên về số lượng và trang bị hiện đại nhằm chống lại Cách mạng và nhân dân ta. Quân ngụy Sài Gòn tăng cường bắt lính, phối hợp với quân Mỹ và chư hầu mở ra nhiều cuộc càn quét đẫm máu hòng tiêu diệt các lực lượng vũ trang của Cách mạng và bình định nông thôn miền Nam. Chúng dùng mọi thủ đoạn nhằm ly khai lực lượng Cách mạng và nhân dân trong vùng địch tạm chiếm. Giống như thời chống thực dân Pháp, rừng núi hiểm trở lại trở thành chiến khu, căn cứ địa cách mạng. Lực lượng vũ trang không những không bị tiêu diệt mà lớn mạnh trưởng thành hơn, tổ chức nhiều cuộc tiến công vào quân Mỹ khiến chúng kinh hoàng như trận Vạn Tường. Các đội biệt động tại những thành phố lớn xuất quỷ nhập thần đánh địch ở trong hang ổ, sào huyệt chúng. Nắm thắt lưng địch mà đánh là phương châm tác chiến của Quân giải phóng thời bấy giờ. Những điều này Phương Xuân biết được qua thầy giáo dạy sử. Cứ đến môn lịch sử là Phương Xuân chăm chú lắng nghe thầy giảng như nuốt từng lời. Buổi lên lớp nào thầy cũng dành một khoảng thời gian để nói về tình hình chiến sự ở trong nước.
Chiến tranh ngày một ác liệt hơn, giặc Mỹ leo thang dùng máy bay, tàu chiến bắn phá miền Bắc bắt đầu từ ngày 5 tháng 8 năm 1964. Trường cấp ba huyện Yên Dũng rời vào dưới chân núi Vôi. Hai chị lấy chồng ở xa, anh trai thì biệt tăm biệt tích, nhà chỉ còn mình Phương Xuân. Mỗi buổi đi học về, Phương Xuân thấy mình cô đơn trong căn nhà trống vắng. Những lúc buồn, Phương Xuân chỉ muốn đứng thật lâu bên bàn thờ bố mẹ. Từ hai tấm di ảnh, ánh mắt bố mẹ nhìn anh như muốn nói với con trai những điều gì đó.
***
Mãi cho đến bây giờ, Phương Xuân cũng không biết chính xác mình sinh vào tháng ngày nào. Khi còn sống, mẹ chỉ nói với anh: “Mày sinh đúng vào lúc gần sáng ngày chợ phiên cuối năm Giáp Thân...”. Tính ang áng theo dương lịch thì anh sinh vào đầu năm một nghìn chín trăm bốn mươi lăm.
Làng quê anh sinh ra là vùng đất chiêm khê mùa thối, nỗi lo lũ lụt ám ảnh mỗi người… Bố anh là con thứ hai trong gia đình có ba chị em, ông là người sáng dạ nhưng không được học hành. Quê anh có tên cổ là làng Yên. Làng tên Yên mà chẳng được yên chút nào. Đói nghèo. Tăm tối. Cuộc sống mỏi mòn, rỗng mục, lê thê từ ngày này qua ngày khác. Mới chín tuổi, bố anh đã đi ở đợ giữ trâu cho nhà giàu. Lớn lên, lưu lạc nơi này nơi khác làm thuê kiếm ăn nhưng cuối cùng cũng phải quay đầu trở về nơi chôn nhau cắt rốn. Phận làm thuê không có gì thay đổi.
Mẹ hay chấm nước mắt kể: “Khổ nhất là mùa đông, gió bấc thổi lạnh thấu xương. Bố con chỉ có hai bộ áo quần vá chằng vá chịt. Ống quần rách te tua. Mặc mà như không mặc. Chẳng bao giờ được mang dép guốc, đi trên sỏi lâu ngày bàn chân bị rỗ, người lúc nào cũng chúi bổ về trước. Sau mùa gặt tháng mười đất cày lên cứng tựa đá vôi, bước nhanh lỡ vấp phải đau đến chảy nước mắt. Vậy mà bố con vẫn cắn răng chịu đựng nhận ruộng cày xáo trở lại. Người ở quê gọi là cày giáp đất. Bố làm thuê để kiếm tiền về nuôi gia đình...”.
Câu chuyện của mẹ đưa anh về những tháng năm chưa có mặt trên cõi đời này. Mẹ đến với bố cũng ngẫu nhiên, cứ như ông Trời bày đặt sắp xếp vậy. Không biết là năm nào, tháng nào, ngày nào nữa cái lần bố gặp mẹ đó. Trưa mùa đông. Mưa lất phất bay. Gió lạnh. Chiếc đò ngang chở người làng bên kia sông Thương đi chợ phiên. Thuyền ra giữa dòng thì gặp gió lớn tròng trành. Sóng nổi lên. Tròng trành. Mọi người ngồi trên thuyền nhốn nháo. Thuyền nghiêng rồi lật úp. Mấy người đàn ông táo tác bơi vào bờ. Lúc đó, bố đi cày thuê về trông thấy một mái tóc đen dài xập xòa trên mặt nước. Không kịp nghĩ gì thêm, bố buông cày, nhào xuống sông, sải tay bơi ra túm được tóc người con gái kéo vào. Để cô gái nằm ngửa xuống, đầu cho nghiêng sang một bên, bố ấn nhẹ vào bụng sau đó dùng miệng đấu vào miệng hút nước ra ngoài. Cô gái mở mắt ra, ngơ ngác nhìn người thanh niên ngồi cạnh mình. Mấy phút sau, cô mới định thần và nhận ra sự việc. Cô gái được bố cứu chính là mẹ anh. Từ ấy, mẹ coi bố là ân nhân và tình cảm của hai người cứ thế quyện bện vào nhau. Gia cảnh mẹ cũng đầy khó khăn. Có lẽ vì thế mà mẹ thương bố hơn. Hai người thành vợ thành chồng. Đôi vợ chồng nghèo đùm bọc lấy nhau, cày thuê cấy mướn sống đắp đổi qua ngày.
Khi đã có anh trai cả rồi, bố mẹ Phương Xuân vẫn còn đi ở đợ cho nhà giàu. May nhờ thế mà hai vợ chồng có cái ăn và nuôi con lại còn học được nghề làm bánh, bún. Khi học được nghề rồi, hai người mạnh dạn vay ông bà chủ ít tiền về sắm đồ làm ăn. Ông bà chủ tuy giàu có nhưng thương người nên không ngần ngại cho bố mẹ Phương Xuân vay tiền. Nhờ thế, khi sinh chị gái thứ hai, bố mẹ đã có chút vốn liếng làm ăn. Hai người đong thóc từ các nơi về làm ra gạo, làm thành bún, thành bánh. Bố ở nhà làm bún bánh, mẹ gánh bộ sang vùng khác bán hay đổi thóc gạo, ngô sắn về. Cứ thế, kinh tế dần dà khá hơn tuy vẫn còn nghèo.
Thời đó, ở làng có tục lệ đàn ông đến tuổi trưởng thành phải làm lễ Cai Đáng. Tức là, phải bỏ tiền ra làm cỗ mời bà con trong làng, trong xã đến đình ăn uống no say một bữa để công nhận con trai mình đã đến tuổi trưởng thành. Nhiều gia đình làng Yên sống dở chết dở với tục lệ oái oăm này. Bố mẹ Phương Xuân cũng phải chắt chiu để làm lễ Cai Đáng cho anh cả.
Chịu khó tần tảo làm ăn và do biết chắt chiu dành dụm nên bố mẹ anh mua được một mảnh đất, sau đó dựng lên ngôi nhà gỗ năm gian hai chái. Gỗ làm nhà ông mua tận rừng Côn Sơn, cái nơi Nguyễn Trãi về ở ẩn cuối đời...
Thấy bố xây ngôi nhà gỗ to lớn, một số địa chủ ở trong làng ghen ghét, ganh tỵ. Chúng mỉa mai bố anh là thằng cùng đinh khố dày, bây giờ mới giàu lên đã làm oai. Bọn nó lập mưu hại gia đình anh. Thằng lý trưởng tổ chức làm cỗ mời bố mẹ anh đến ăn rồi bí mật cho tay chân đến phóng hỏa đốt nhà. Gặp tiết hanh heo, gió to, nhà cửa đồ đạc cháy sạch trong đêm hôm đó. May mà bố mẹ đưa con cái đi theo chứ không thì họa đổ xuống gia đình anh còn lớn hơn. Cơ ngơi bỗng chốc thành tro bụi. Bố mẹ anh kêu trời không thấu, nghèo vẫn hoàn nghèo.
Khi Phương Xuân được ba tháng tuổi, bố mẹ phải bỏ quê hương, dắt díu bồng bế nhau đi làm ăn chỗ khác. Bố vừa dắt anh trai đi bộ, vừa gánh hai chị gái ngồi trong thúng. Mẹ bế Phương Xuân trên tay. Lên đến Thái Đào mẹ mua cho mỗi người một bát bún riêu cua. Vừa mệt, vừa đói, ai cũng ăn ngấu nghiến. Bố mẹ thuê nhà ở rồi đi làm thuê. Mấy chị em trứng gà trứng vịt, ở nhà trông coi nhau.
Năm một nghìn chín trăm năm mươi ba, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của ta đang ở trong thế giằng co. Nhân dân vùng tự do và cả vùng tạm chiếm hướng về Chiến khu Việt Bắc nơi có Cụ Hồ đang ở để lãnh đạo cuộc kháng chiến. Đó là điều mà thực dân Pháp lo sợ nhất. Trên chiến trường, lính Pháp rất e ngại và lo sợ khi đối mặt với quân đội Việt Minh đầy quả cảm. Trong vùng Pháp chiếm đóng thì chúng bị du kích quấy phá. Chúng có thể tạm thời chiếm cứ được đất đai nhưng không thu phục nổi lòng dân chúng. Cuộc chiến tranh Đông Dương trong đó có Việt Nam hao người tốn của Chính phủ Pháp càng ngày càng ít được nhân dân chính quốc ủng hộ...
Gia đình Phương Xuân ở nơi giáp ranh giữa vùng tự do và vùng Pháp tạm chiếm. Bộ đội ta từ chiến khu về đồng bằng hay từ đồng bằng lên chiến khu đều đi qua vùng này. Vùng đệm này ngày của địch, đêm của ta. Nhà bố mẹ anh trở thành một trong các địa điểm trung chuyển của Bộ đội Cụ Hồ.
Bố mẹ anh được Ủy ban kháng chiến chia cho năm sào bảy ruộng. Bố nói:
- Tao không có chữ, nên anh em mày phải cố lên mà học. Khi về nhà thì phụ với bố mẹ tăng gia sản xuất.
Bố cởi trần, mặc quần đùi cầm cuốc vỡ hoang. Mẹ cũng áo nâu nón lá làm phụ với bố. Các anh chị Phương Xuân người nào việc nấy cũng làm không ngơi tay. Phương Xuân còn bé, chưa phải làm gì đứng xem mọi người cày cuốc. Sau mấy tháng, cả nhà vỡ hoang được bốn mẫu bảy ruộng cộng với năm sào bảy được Ủy ban kháng chiến cấp như vậy có cả thảy trên năm mẫu hai. Lúc đó, Chính phủ kháng chiến của Cụ Hồ ban hành chính sách giảm tô. Ruộng khai hoang không phải đóng thuế cho Nhà nước. Bố mẹ hể hả ngắm nhìn thành quả lao động của gia đình. Lúa, ngô, khoai, rau quả cứ gọi là mùa nào thức ấy xanh tốt. Nhà có cái ăn cái cất. Con cái được đi học trường kháng chiến. Mọi việc đang trôi chảy thì đầu năm một nghìn chín trăm năm mươi ba, bố xin đi bộ đội. Chiến dịch Điện Biên Phủ và đã ngã xuống trong trận đánh vào cứ điểm Him Lam.
***
Phương Xuân thực sự nóng ruột và lo lắng khi không nhận được tin anh trai. Trong mấy thành viên trong gia đình thì có lẽ anh trai có tác động nhiều nhất tới tư tưởng và hành động của Phương Xuân. Từ bé, Phương Xuân đã coi anh trai là tấm gương sáng. Học giỏi. Lễ phép. Chăm chỉ. Cẩn thận. Thương bố mẹ, chị em. Đó là những gì anh trai Phương Xuân có. Thời đang còn ở Bắc, thỉnh thoảng anh trai gửi thư và sách cho cậu em trai, trong đó có quyển Ba người lính trinh sát của một nhà văn Liên Xô được dịch sang tiếng Việt. Phương Xuân rất thích cuốn sách này, thời học trò anh đã thuộc lòng nhiều đoạn. Anh trai biết em mình mê truyện trinh thám, tình báo và thích học môn lịch sử.
Có lần, anh trai được tranh thủ về nhà, đêm nằm bên nhau, Phương Xuân đã thổ lộ:
- Sau này, em cũng vào bộ đội làm lính đặc công như anh.
Anh trai xoa đầu em, nói như dỗ dành:
- Nhà chỉ có hai anh em. Anh đã đi bộ đội. Hai chị lấy chồng xa. Em phải tốt nghiệp cấp ba rồi đi đại học để thỏa lòng bố mẹ nơi chín suối.
Phương Xuân nói, giọng bùi ngùi:
- Em ở nhà mỗi mình buồn lắm. Bố mẹ thì đã mất cả rồi. Đất nước lại đang có chiến tranh, thanh niên trai tráng như em mà cứ ru rú ở hậu phương thì chán lắm anh ạ.
Anh trai đặt tay lên bụng Phương Xuân:
- Anh cũng biết thế nhưng gia đình ta chỉ có hai anh em trai, lỡ có chuyện gì thì...
Anh bỏ lửng câu nói, dừng lại rồi ngồi dậy đến bàn thờ thắp hương cho bố mẹ. Đêm tĩnh lặng, nghe rõ tiếng mọt kêu ri rích ở góc nhà nào đó. Mùi hương thơm nhẹ tỏa khắp nhà. Phương Xuân cũng ngồi dậy theo anh trai. Cả hai đều có cảm giác, bố mẹ đang ở bên cạnh mình, gần gũi thân thương như hồi còn sống.
Biết sở thích của Phương Xuân, anh trai hay làm quà cho chú em bằng các câu chuyện về lính đặc công. Câu chuyện các trận đánh của bộ đội đặc công do anh trai kể Phương Xuân còn nhớ mãi tận bây giờ. Cũng có thể vì thương anh trai mà Phương Xuân nhớ lâu, nhớ kỹ những câu chuyện ấy.
Trận đánh vào căn cứ của địch ở núi Nà... Trước khi đánh, các anh phải treo võng nằm phơi sương ngoài rừng để làm quen với khí hậu. Cũng là để cho hơi khí của mình nó nhẹ hơn mỗi khi co mình hay hóp bụng luồn qua dây kẽm gai địch. Trước khi ra trận phải bôi thuốc chống chó béc giê ngửi mùi và hóa trang bằng lá rau lang giã ra trộn với nhọ nồi. Người nọ chấm cho người kia, nhìn loang lổ như màu đất, màu lá. Tất thảy anh em ta đều ở trần, chỉ mặc độc cái quần đùi bó sát.
Căn cứ Nà được bảo vệ nghiêm ngặt, gồm có một tiểu đoàn địch bảo vệ và mấy con chó béc giê. Bốn, năm lớp rào đơn, rào kép, rào bùng nhùng vây quanh các lô cốt, trạm gác và hầm hào đắp bằng bao cát. Căn cứ Nà đóng trên núi có độ cao so với mặt biển một nghìn mét. Bộ đội ta đã đi trinh sát, lên phương án tác chiến và thực hành trên sa bàn.
Từ chân núi lên đến đỉnh dốc đá hiểm trở. Địch có lợi thế trên cao, bộ đội ta dưới thấp, việc chọn điểm tiềm nhập không dễ dàng chút nào. Khi mũi cuối cùng của đơn vị đặc công vừa qua được ba lớp hàng rào thì bị phát hiện. Hỏa lực địch từ các lô cốt bắn ra như mưa. Bộ phận chủ công và một bộ phận nữa đã vào sâu buộc phải quay lại nổ súng nhằm bảo vệ đồng đội đến sau. Cuộc đọ súng quá chênh lệch về lực lượng. Bên địch đông, có hỏa lực mạnh yểm trợ. Bên ta ít, cơ số đạn mang theo hạn chế. Cuộc chiến diễn ra ác liệt, ta chưa đánh vào trung tâm đã buộc phải nổ súng. Hết đạn. Các chiến sĩ đặc công lợi dụng địa hình núi đá dùng dao găm đánh giáp lá cà hạ gục từng tên một. Sau đó, thấy tình thế bất lợi quân ta phải rút ra... “Tuy tiêu diệt được nhiều sinh lực địch nhưng trận đánh không thành công em ạ. Anh kể cho em để thấy rằng cuộc chiến đấu với kẻ thù không đơn giản dễ dàng chút nào. So với những gì người ta đọc, viết trên đài báo cách nhau xa lắm. Bộ đội ta chịu thương vong không ít đâu em ạ. Nếu em muốn vào bộ đội, lại lực lượng đặc công nữa thì phải xác định đầy đủ tinh thần. Không thì... Anh nói thật với em nhé, có người không chịu nổi sự gian khổ ác liệt đã đào ngũ đấy”. Anh trai Phương Xuân kết lại câu chuyện thứ nhất ở đây.
Trận thứ hai đánh vào trung tâm huấn luyện biệt kích, thám báo của địch. Ở đây, địch có ba tiểu đoàn lính và cả chó béc giê canh phòng, tuần tiễu ngày đêm. Hỏa lực địch ở đây rất mạnh. Địch còn sử dụng xe tăng chạy cố định trên đường ray vòng trong, vòng ngoài. Mỗi xe tăng gắn một đèn pha lớn bằng cái nia để chiếu sáng ban đêm. Khu trung tâm này đã bị bộ đội ta đánh một lần, vì thế địch rất đề phòng, tăng cường các lực lượng cảnh giới bảo vệ. Các mũi đặc công bí mật tiếp cận mục tiêu, cắt hàng rào bò vào bên trong. Bọn lính đi tuần và cả chó béc giê không phát hiện được gì. Đêm vẫn yên tĩnh dưới bầu trời đầy sao và những cơn gió lang thang qua vùng trống. Địch không ngờ rằng trong cái không gian yên tĩnh này, các phần tử nổ đã được các chiến sĩ đặc công ta dán vào những mục tiêu cần phá hoại. Lô cốt, nhà bạt, nòng pháo, điểm hỏa lực... tất tật đều được tính sổ. Không giờ. Ta nổ súng, sau khi các phần tử nổ đã được kích hoạt. Nhiều ánh chớp nhoáng lên kèm theo tiếng nổ lớn. Địch thất thanh la hét, kêu rống. Bộ đội ta xông lên dùng AK báng gấp nhằm vào những bóng đen lố nhố trước mặt siết cò hay ném thủ pháo. Nhiều bóng đen đổ sụp, chới với. Tiếng kêu trời, kêu má cất lên. Không gian sặc sụa mùi khói đạn, mùi máu nóng. Kẻ địch đã bị đền tội vào thời khắc chúng không ngờ nhất. Một trận tập kích gọn ghẽ, tiêu diệt nhiều sinh lực đối phương mà ta bị thương vong ít nhất. “Trong chiến đấu là thế em ạ, càng chuẩn bị kỹ càng, càng giữ tốt bí mật thì cơ hội chiến thắng càng lớn. Nhưng, hình như nó cũng có yếu tố may rủi đấy. Ví như hôm ấy, bên ta có một cậu khử mùi không kỹ bị chó béc giê ngửi hơi ra hay tự nhiên bật ho khi nằm bên hàng rào địch... thì coi như bị lộ. Lính tráng bọn anh thường nghĩ: bom đạn tránh mình, chứ mình làm sao tránh được bom đạn. Bom đạn cũng có mắt đấy em ạ!”. “Anh trai kể chuyện với mình mà cứ như đang lên lớp về chiến thuật vậy. Mà sao, bố ấy toàn kể về sự ác liệt trong chiến đấu nhỉ. Hay, bố dọa để mình không có ý định xin đi bộ đội nữa”. Nghĩ là nghĩ thầm trong bụng như thế thôi, chứ Phương Xuân cũng chẳng dám nói ra điều đó. Phương Xuân nhìn anh trai mỉm cười...
Dân làng Phương Xuân cũng hay nhắc tới anh trai mình. Thời chống Mỹ, nhân dân thương quý bộ đội như con em mình. Với bộ đội đặc công thì người dân càng dành cho tình cảm đặc biệt. Họ thêu dệt nên nhiều câu chuyện về đặc công, xem họ như người biết tàng hình, vào căn cứ địch như vào chỗ không người và võ vẽ thì chẳng mấy ai địch nổi. Một người lính đặc công có thể đánh tơi bời mười tên lính ngụy bằng tay không, còn chó béc giê thì chỉ cần chiến sĩ ta thôi miên là im mõm không sủa được nửa tiếng. Đấy là đồn đại của dân, còn thực hư ra sao thì ai biết được. Duy chỉ có chuyện này thì thật trăm phần trăm.
Anh trai Phương Xuân trong lần được tranh thủ về nhà như đã kể trên, đang đi đến lối rẽ vào xã Cao Đồng thì thấy đám thanh niên đang vây kín hai người, một trai một gái. Chắc là đám này trêu ghẹo đôi trai gái chăng? Anh trai Phương Xuân dừng lại quan sát. Hai thằng trong bọn ôm giữ chặt cô gái. Hai thằng còn lại giữ tay người thanh niên. Một thằng khác to cao hơn bước đến mở cúc áo cô gái. Cô gái kinh hãi kêu lên rồi bật khóc nhưng mấy thằng đồng bọn cùng hắn cười hô hố. Người thanh niên tức tối nhưng bất lực nhìn người yêu bị làm nhục. Anh trai Phương Xuân bước đến, bỏ ba lô xuống:
- Chúng mày làm thế mà xem được sao? Có đáng mặt đàn ông không, hả? Buông cô gái ra mau!
Cả đám quay lại trừng mắt nhìn.
- Mày là thằng nào? Thì ra, một thằng bộ đội. Bộ đội là cái thá gì mà đụng vào chuyện của bọn tao?
Thằng mở cúc áo cô gái sấn đến chỗ anh trai Phương Xuân, nhổ bãi nước bọt vào hai bàn tay rồi xoa xoa vào nhau. Nó hạ người hai gối chùng xuống, bất ngờ xoay thế tay trái đưa ngang đầu, tay phải để bụng, tung chân phải đá.
Véo…
Cứ như đã đoán được ý đồ của đối thủ. Anh trai Phương Xuân nghiêng người nhảy qua trái nửa bước, tay phải đón chân nó, quặp cứng. Bàn tay trái của anh như lưỡi dao chặt vát lên cằm. Nhanh như chớp, anh hạ cánh tay trái đánh chõ vào bụng, kết hợp mu bàn tay đập vào mặt, tay phải gồng cứng xoay thế đấm thẳng.
- Oái! Oái! Chết tao…
Thằng côn đồ ngã vật, tru tréo sau cú đánh liên hoàn của anh trai Phương Xuân. Anh đến đỡ nó dậy, vỗ vai:
- Lần sau, đừng thế nữa nhé chú mày. Người ta yêu cũng như mình yêu mà. Giả sử chú mày yêu mà bị một thằng khác đến quấy rối như thế có chịu nổi không?
Nó im lặng. Bốn thằng kia bàng hoàng, hoảng sợ nhìn người bộ đội mặc quân phục vải Tô Châu đã bạc màu. Cả bọn quay lui rồi bỏ chạy.
Người thanh niên và cô gái rối rít cảm ơn, hỏi chuyện mới biết anh bộ đội vừa cứu họ là người cùng xã. Câu chuyện anh trai Phương Xuân đánh bọn côn đồ cứu một cặp yêu nhau lan truyền nhanh chóng khắp vùng. Ai cũng nói:
- Đấy, cứ đụng vào mấy bố đặc công thì biết thế nào là lễ độ. Năm thằng chứ hai mươi thằng cỡ đó cũng bay vèo luôn.
Phương Xuân càng thêm tự hào về anh trai mình. Chàng trai vừa học xong cấp ba nung nấu vào bộ đội để được trở thành chiến sĩ đặc công như anh trai. Chuyện của quá khứ, nhưng nó cứ luôn hiện lên trong tâm trí Phương Xuân. “Giờ đây, anh đang ở đâu trong chiến trường mênh mông này? Tại sao, anh không hé lộ một tin tức gì, dù ngắn ngủi nhất về mình? Các chị ở hậu phương và em cũng đang ở chiến trường hằng mong tin anh, anh trai ạ! Bạn anh, Thủ trưởng Trần Thi của em vẫn thường nhắc anh đấy. Anh đừng im lặng lâu vậy, anh trai!”.
Sau dòng hồi tưởng miên man, Phương Xuân thủ thỉ với anh trai như thế. Anh giật mình khi nghĩ tới cái chết có thể đến với mọi người lính, từ binh nhì đến cấp tướng. “Đừng anh nhé, gắng sống để anh em ta được trở về với ngôi nhà của bố mẹ để lại, về với các chị đang mong ngóng từng giờ. Anh còn phải về làng để cưới vợ, chị Hường con ông Lu vẫn chờ anh đấy. Anh phải lấy chị ấy để sinh con đẻ cái không bố mẹ buồn đấy, trách đấy…”.
Những giọt nước mắt ứa ra rồi lặng lẽ lăn trên gò má Phương Xuân lúc nào không biết. Những giọt nước mắt thấm xuống chiến trường…