CHƯƠNG 15
Tuần thứ ba của tháng Ba, tôi nhận được cú điện thoại vẫn luôn khiến tôi nơm nớp lo sợ. Đầu dây bên kia là giọng nói trầm đục của Ed Somers. Sau giờ học buổi chiều hôm ấy, khi người thư ký gõ cửa lớp tôi để báo rằng tôi có điện thoại, tôi đã linh cảm trước rằng đó chính là cú điện thoại mà tôi vẫn kinh sợ mỗi khi nghĩ đến. Vừa nghe thấy giọng của Ed, tôi hiểu tất cả, ngay cả khi ông chưa kịp nói điều đó ra.
- Torey, hôm nay vị giám đốc bệnh viện đã gọi. Họ đã có một chỗ trống trong bệnh viện bang.
Trống ngực tôi đổ dồn khi nghe những điều ông nói. Tai tôi lùng bùng đến nỗi không thể nghe rõ được gì.
- Ed, con bé không nhất thiết phải đi, đúng không?
- Tor, tôi đã bảo cô rằng việc con bé ở đây chỉ là một sự sắp xếp tạm thời thôi mà. Tòa đã quyết định là con bé phải được đưa vào bệnh viện bang ngay khi có chỗ trống. Việc này thật sự nằm ngoài tầm tay của chúng ta. Con bé vào lớp cô chỉ là tạm thời thôi.
- Nhưng con bé đã thay đổi rất nhiều. Nó không còn là đứa trẻ trước đây nữa. Ed, con bé sẽ không chịu nổi cái bệnh viện đó đâu.
- Nghe này, tất cả mọi việc đã được định sẵn cả rồi. Cô biết thế mà, trước đây chúng ta đã nói chuyện này rồi. Hơn nữa, đây là điều tốt nhất cho con bé. Hãy nhìn cái mái nhà kinh khủng của nó xem. Đằng nào thì con bé cũng sẽ không có đến một cơ hội dù là nhỏ nhoi nhất với một mái nhà như thế, Tor ạ. Cô biết thế mà. Lạy Chúa, cô tiếp xúc với những đứa trẻ này hàng ngày. Hơn bất cứ ai khác, cô nên biết khi nào thì một đứa trẻ có quá nhiều vấn đề mà nó không vượt qua được.
- Nhưng con bé không phải như thế, Ed. – Tôi thốt lên. – Con bé này có rất nhiều cơ hội. Nó có thể làm được. Bây giờ nó không thể vào bệnh viện bang được đâu.
Tôi có thể nghe thấy tiếng lục khục của Ed ở đầu dây bên kia. Một khoảng im lặng khá lâu. Ed đang châm một điếu thuốc.
- Tor, cô đã làm một công việc thật tuyệt vời với những đứa trẻ này. Đôi khi tôi thực sự không hiểu vì sao mà cô làm được nữa. Nhưng lần này thì cô đã đi quá xa rồi. Cô đã dính líu quá sâu vào chuyện này. Tôi có thể nói như thế sau cái sự cố hồi tháng Giêng. Trường hợp của đứa trẻ này đã được quyết định rất lâu trước khi nó đến chỗ của chúng ta.
- Vậy thì thay đổi quyết định đó đi.
- Việc này nằm ngoài khả năng của tôi rồi. Sau vụ hỏa hoạn đó, bang đã quyết định sẽ đưa nó vào bệnh viện để kiểm soát. Để có thể xoa dịu cha mẹ của thằng bé kia, thì đó là lựa chọn duy nhất.
- Ed, việc này thật là kỳ quặc. Lạy Đức Chúa quyền năng, đứa bé chỉ mới sáu tuổi. Chuyện này không thể xảy ra được.
- Tôi hiểu cô đang cảm thấy thế nào, Torey ạ, tôi thực sự hiểu. Tôi vô cùng xin lỗi vì mọi chuyện xảy ra như thế này, bởi vì tôi biết cô đã gắn bó với con bé thế nào. Nhưng con bé là một trường hợp mà tòa đã đưa ra quyết định. Cả hai chúng ta đều biết việc này sẽ có kết cục thế nào. Và tôi rất tiếc.
Tôi đi thẳng xuống phòng giáo viên vì không thể quay lại lớp học, nơi Sheila đang chơi đùa một mình. Tôi ngồi xuống ghế và uống cà phê, thứ mà thường thì không bao giờ tôi động đến; tất cả chỉ để cố ngăn những giọt nước mắt đang chực trào ra. Ed nói đúng. Tôi đã dấn quá sâu; con bé có quá nhiều ý nghĩa đối với tôi. Tôi không thể diễn tả thành lời được nỗi đau buồn của mình; tôi không thể tìm được từ ngữ thích hợp. Xung quanh tôi tràn ngập âm thanh của những câu nói ầm ĩ bàn về giáo án, các dự án nghệ thuật và buổi lễ hội của trường. Cuối cùng tôi quay lại lớp học, để thoát khỏi những con người ồn ào trong căn phòng ấy, những người đang tràn ngập niềm vui sướng hớn hở vì giờ học đã kết thúc.
Khi Anton nhìn thấy tôi, anh không hỏi có chuyện gì – anh ấy đã biết. Anh ra hiệu cho Sheila đến chỗ cái bàn mà anh đang chuẩn bị giáo án cho ngày hôm sau, và nhờ nó giúp anh một tay. Tôi đứng ở cửa, nhìn quanh căn phòng. Nhìn thì đây có vẻ không phải là nơi đáng nhớ lắm, tôi nghĩ. Quá dài và hẹp, quá tối, quá chật chội với những chuồng thú bốc mùi và những cái gối đã xẹp lép nằm lăn lóc trên thảm. Thậm chí còn không có chỗ để một cái bàn giáo viên nữa. Tôi thẫn thờ bước đến chỗ đống gối xếp đằng sau mấy cái chuồng thú và thả người phịch xuống.
Chỉ trong vài giây, Sheila đã đứng trước mặt tôi. Nó chăm chú nhìn tôi.
- Cô không vui. - Nó khẽ nói.
Hai tay nó đút vào túi áo. Con bé lớn nhanh quá, tôi nghĩ thầm. Lai quần nó giờ đã cách giày nó phải đến 5 cm. Hay là quần của nó vẫn luôn ngắn như thế mà tôi không để ý?
- Ừ, cô không vui.
- Sao vậy?
- Sheila, đến đây. – Anton gọi. Sheila vẫn đứng nguyên đó, hai mắt nó nhìn xoáy vào tôi, dò xét xem tôi đang nghĩ gì. Tôi tự hỏi liệu có phải tôi đã dính quá sâu. Với tôi con bé là một đứa trẻ thật tuyệt vời. Chắc chắn là một người bình thường sẽ cho rằng trông nó cũng giống như hàng trăm nghìn đứa trẻ khác. Nhưng chỉ mình nó thôi cũng đã quan trọng với tôi hơn tất cả những đứa trẻ khác cộng lại. Tôi yêu nó, dù chắc chắn là trước đây tôi không có ý như thế. Và vì tôi yêu nó, nên nó đã trở nên vô cùng quan trọng đối với tôi. Bây giờ thì tôi đã "có trách nhiệm" với nó. Tôi cảm nhận rõ mắt mình đang nhòe đi.
Sheila quỳ xuống bên cạnh tôi, mặt nó đầy lo lắng.
- Sao cô khóc?
- Cô không được vui.
Anton bước đến và bế xốc Sheila đứng thẳng dậy.
- Nào, cọp con, đến giúp chú sắp xếp lại mớ
giấy tờ đi nào.
- Ứ ừ… - Sheila quẫy ra khỏi vòng tay anh. Tôi khoát tay:
- Không sao đâu Anton. Tôi ổn mà.
Anh gật đầu và để chúng tôi lại với nhau. Sheila cứ nhìn tôi một lúc lâu, mắt con bé tràn ngập sự lo lắng. Những giọt nước mắt của tôi vẫn không trào ra ngoài, nhưng tôi cũng không thể làm chúng biến mất được. Tôi cũng không thể nhìn con bé. Tôi thấy bối rối vì đã tỏ ra bị chấn động như thế này, và tôi lo mình sẽ làm con bé sợ.
Nhưng con bé vẫn đứng ở đấy và quan sát tôi.
Rồi nó từ từ bước lại gần và ngồi xuống bên cạnh tôi. Nó ngập ngừng chạm vào tay tôi và nói:
- Có thể nếu con nắm tay cô, thì cô sẽ cảm thấy khá hơn. Đôi khi cách này có ích với con.
Tôi mỉm cười với con bé.
- Con biết không cưng, cô thương con lắm. Đừng bao giờ quên điều đó. Nếu một lúc nào đó con cảm thấy cô đơn, con hoảng sợ, hay có bất cứ điều gì không hay xảy đến với con, thì cũng đừng quên là cô yêu con. Bởi vì cô thực sự yêu con. Đó thực sự là tất cả những gì mà một người có thể làm cho người khác.
Con bé nhíu mày. Nó không hiểu những gì tôi đang nói. Tôi biết là con bé không hiểu bởi nó vẫn còn quá nhỏ. Nhưng tôi buộc phải nói. Để có thể cảm thấy lương tâm thanh thản, tôi phải nói với nó rằng tôi đã cố gắng hết sức mình.
Tôi trở mình, quay về phía Chad và nhìn anh. Chúng tôi đã xem ti-vi cả buổi tối và không nói gì với nhau. Đầu óc tôi lan man với quá nhiều thứ nên không thể trò chuyện được gì. Lúc đầu tôi thậm chí còn không kể cho anh ấy nghe chuyện gì đã xảy ra; nhưng càng về khuya, tâm trí tôi càng thoát khỏi trạng thái bàng hoàng ban đầu và bắt đầu tỉnh táo trở lại.
- Chad?
Anh quay sang nhìn tôi.
- Có cách nào hợp pháp có thể ngăn điều mà họ định làm với Sheila không?
- Ý em là sao?
- Thì anh biết đấy. Có cách nào đó hợp lệ để chống lại quyết định này của tòa không? Ý em là liệu có một người nào đó, giống như em đây, có thể làm điều đó được không? Một người không phải là người giám hộ của con bé ấy?
- Em sẽ kháng cáo ư?
- Sẽ có ai đó phải làm thế. Em nghĩ nhà trường sẽ ủng hộ em. Có thể lắm.
- Anh nghĩ em cứ thử xem sao. Tôi cau mày:
- Vấn đề là em không biết phải bắt đầu từ đâu cả. Chúng ta kháng cáo với ai đây? Tòa đã tuyên bố như thế và anh không thể đưa một tòa án ra một tòa án khác được, đúng không? Em không biết phải làm thế nào cả.
- Anh cho là em phải đề nghị tổ chức một phiên tòa với sự có mặt của cha con bé, cha mẹ của thằng bé mà Sheila đã làm tổn thương và hiệp hội bảo vệ quyền lợi trẻ em, đại loại thế. Khi đó thì em sẽ có quyền kháng cáo. Em biết mấy chuyện đó mà.
Tôi không biết. Kiến thức về các vụ kiện cáo của tôi cũng tương đương với kiến thức về thuyết tương đối. Nhưng tôi không thích Chad nghĩ như vậy.
- Anh sẽ tham gia vụ này chứ, Chad? Anh nhướn mày:
- Anh?
Tôi gật đầu.
- Anh không biết bất cứ cái gì về lĩnh vực này cả. Điều em cần là một chuyên gia về lĩnh vực luật pháp này. Trời đất, Tor, kinh nghiệm của anh chỉ dừng lại ở mức đưa được mấy thằng cha say rượu ra khỏi nhà tù thôi.
Tôi mỉm cười.
- Kinh nghiệm của anh chắc cũng ít như tiền trong tài khoản của em. Em cho là nếu em bào chữa cho vụ này, thì em phải tự trả tiền rồi.
Chad đảo mắt ngán ngẩm:
- Lại một trường hợp từ thiện khác hả? – Anh cười. – Anh đoán là chưa có ai hứa hẹn với anh rằng anh sẽ giàu cả.
- Ồ, một ngày nào đó thì anh sẽ giàu mà. Chỉ không phải là trong năm nay thôi.
Khi giám thị trường phát hiện tôi đã thuê một luật sư để lo vụ này, họ lập tức triệu tập ngay một buổi họp. Lần đầu tiên tôi được gặp trực tiếp cô Barthuly, giáo viên trước của Sheila. Cô là một phụ nữ xinh xắn mảnh dẻ, khoảng hơn bốn mươi tuổi, và có một nụ cười rất dễ mến. Còn tôi, với chiều cao gần một mét tám, mặc quần jeans, mang giày tennis, khi đứng đối diện với cô ấy, tôi có thể hình dung được rất cụ thể rằng hẳn Sheila đã từng là một thử thách rất lớn với cô. Cô quàng một cái khăn hiệu Anne Klein và đi giày đế bằng, trông cô như một người mẫu quảng cáo cho nước hoa Chanel No.5 trên ti-vi vậy. Với cô thì con bé Sheila hôi hám, người lúc nào cũng dính đầy đất cát hẳn phải là khó chịu lắm.
Ed Somers cũng có mặt trong cuộc họp, chuyên gia tâm lý Allan cũng vậy, ngoài ra còn có thầy Collins, Anton, viên giám thị trường và một giáo viên bảo mẫu từng làm trong lớp mẫu giáo của Sheila một năm trước. Lúc đầu thì đây không phải là một buổi họp dễ chịu gì đối với tôi. Vì không biết mối quan hệ của tôi với Chad, viên giám thị cho rằng tôi đã vượt quá giới hạn của mình khi mời luật sư lo vụ này mà không cho ông ấy biết. Có lẽ ông ấy nói đúng. Tôi giải thích rằng tôi đã trao đổi vấn đề này với Ed, và ông ấy đã nói rằng chúng tôi không đời nào có thể lo được vụ này, thế nên tôi chỉ còn biết nhờ đến sự giúp đỡ khác về mặt pháp lý.
Dù khởi đầu có khó khăn, nhưng khi cuộc họp diễn ra được một lúc, một chuyển biến khả quan đã xảy ra. Trước khi đến họp, tôi có mang theo vài bài tập mà Sheila đã làm, cả những cuộn băng video Anton quay con bé khi nó ở trong lớp học. Allan báo cáo về kết quả của những bài kiểm tra mà ông ấy đã thực hiện. Giáo viên cũ của Sheila cũng chia sẻ vài ấn tượng tốt đối với con bé. Thậm
chí ngay cả thầy Collins, người mà tôi sợ là sẽ nổi giận trước hành động được xem là bốc đồng này của tôi, cũng công nhận sự tiến bộ trong cách cư xử của Sheila. Khi ông nói ra điều đó, tôi bỗng cảm thấy vô cùng yêu mến con người này.
Viên giám thị thì ít hưởng ứng hơn, ông nói rằng sự cố mà Sheila gây ra không phải vấn đề của chúng tôi. Tuy nhiên ông cũng cảm thấy ấn tượng trước sự tiến bộ của Sheila và chỉ số IQ cao bất thường của con bé. Ông ấy dè dặt đồng ý sẽ ủng hộ tôi khi nói rằng bệnh viện bang không phải là nơi thích hợp nhất dành cho Sheila, và ông nghĩ rằng con bé có thể được giữ lại trong hệ thống trường công mà không làm nguy hại đến những học sinh khác. Ông yêu cầu Chad đến gặp ông. Mặc cho viên giám thị cố duy trì không khí bình thường cho buổi họp, nhưng khi rời phòng, tôi vẫn cảm thấy vô cùng hân hoan vui sướng.
Một người có vai trò hết sức quan trọng khác trong việc này là cha của Sheila. Anton lãnh nhiệm vụ đi trước để thăm dò. Khi thấy ông ấy có nhà, anh gọi cho tôi, thế là tôi và Chad phóng xe đến ngay.
Cũng như lần trước, cha của Sheila lại đang say xỉn. Nhưng lần này ông ta có vẻ vui vẻ hơn một tí.
- Bệnh viện bang không phải là nơi thích hợp cho Sheila. – Tôi giải thích. – Con bé học hành rất tốt, và tôi nghĩ là thậm chí vào mùa thu năm sau con bé có thể quay trở lại một lớp học bình thường.
Ông ta hất hàm hỏi tôi:
- Sao cô lại quan tâm đến việc người ta sẽ làm gì với con bé vậy?
Câu hỏi này cứ vang vọng trong đầu tôi, đó chính là câu hỏi mà Sheila vẫn thường hỏi tôi. Tại sao tôi lại quan tâm chứ?
- Ông có một cô con gái rất đặc biệt. – Tôi nói.
– Đưa nó tới bệnh viện bang sẽ là một quyết định sai lầm đối với tương lai của con bé. Tôi không muốn thấy điều đó xảy ra với nó, vì tôi nghĩ con bé có thể có được một cuộc sống bình thường giống như bao người khác.
- Cái con bé đó, nó điên như một con điên chính hiệu. Người ta kể cho cô nghe nó đã làm gì rồi, phải không? Con bé gần như đã thiêu sống thằng nhóc đó.
- Con bé không phải điên. Nó không điên. Thậm chí ngay bây giờ đây, nó cũng không điên. Nhưng nó sẽ điên nếu phải chuyển đến đó. Về lâu dài việc này sẽ khiến con bé càng trở nên tồi tệ hơn mà thôi. Ông sẽ không muốn con gái mình sống trong bệnh viện bang đâu.
Ông ta thở dài một tiếng rõ to. Ông ta không hiểu tôi. Suốt cuộc đời, ông luôn sống trong cảnh bị người khác rượt đuổi. Mọi việc lúc nào cũng trở nên tồi tệ. Ông đã gặp rắc rối, Sheila đã gặp rắc rối. Ông đã học được một điều là không được tin ai cả. Và con gái của ông cũng vậy. Như vậy, cuộc sống của họ sẽ an toàn hơn. Vậy mà bây giờ tôi lại đến gặp ông như thế này, và đương nhiên là ông không hiểu.
Chúng tôi nói chuyện đến tận khuya. Chad và Anton uống bia với ông ấy trong khi tôi ghi chép lại những chi tiết quan trọng. Sheila nãy giờ vẫn ngồi co ro ở góc phòng để quan sát chúng tôi, giờ nằm vật ra và ngủ thiếp đi trên sàn nhà. Tôi không biết liệu con bé có hiểu vì sao tôi lại đến đây, và có chuyện gì đang xảy ra hay không. Tôi chưa nói điều gì cụ thể với nó cả, bởi vì tôi không muốn làm nó sợ một cách không cần thiết, hay tôi cũng không muốn gieo vào đầu con bé một hy vọng không thực tế nào. Nhưng sau đêm hôm ấy thì tôi nghĩ rằng nó đã biết. Tốt hơn là mọi chuyện nên như thế.
Sau cùng thì cha con bé cũng đồng ý với chúng tôi. Rốt cuộc chúng tôi cũng thuyết phục được ông ấy tin rằng việc này không phải là một trò "từ thiện" hay đang cố "làm điều tốt" hay một trò lừa gạt tai ác nào đó. Ông ấy bắt đầu nhìn nhận ra được những lý do thật sự của việc này - điều mà tôi tin là ông ấy sẽ làm được nếu chúng tôi kiên trì. Tôi tin rằng trong ông ấy vẫn còn bản năng của tình phụ tử, đằng sau cái vẻ ngoài bệ rạc ấy. Ông yêu thương Sheila theo cách của riêng mình, và ông cũng cần đến lòng trắc ẩn nhiều như con bé vậy.
Đó là một buổi tối thật kỳ lạ. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy hơi ngà ngà say. Chad, với kinh nghiệm bảo vệ cho những người dân sống trong khu ổ chuột, có vẻ như hợp với cha của Sheila hơn cả. Anh ấy và cha con bé hay vỗ lưng nhau theo kiểu tình bạn chén chú chén anh rất thân thiết. Cứ mỗi lần tôi cố gắng đưa cuộc trò chuyện quay về với chủ đề chính, thì họ lại ép bia Anton và tôi. Xét cho cùng, tôi thấy rất vui mừng vì vấn đề liên quan đến bệnh viện bang xuất hiện. Nó buộc chúng tôi nhận ra vị trí của nhau trong cuộc sống của Sheila; việc đó tốt hơn cho tất cả mọi người.
Phiên tòa được tổ chức ngay ngày cuối cùng của tháng Ba. Hôm ấy là một ngày âm u, lạnh lẽo, lồng lộng gió, hứa hẹn sang tháng Tư sẽ có tuyết rơi. Hoàn toàn không phải một ngày có thể khiến tâm trạng con người ta vui lên. Chiều hôm ấy tôi phải nghỉ dạy, Anton cũng thế. Thầy Collins cũng đi cùng với chúng tôi. Thật ngạc nhiên, vì như tôi thấy, ông tỏ ra rất ủng hộ tôi. Sáng hôm ấy, ông đã vào lớp tôi, nói chuyện với tôi một cách chân thành và ấm áp như một người cha. Trong tất cả những người liên quan đến chuyện này, thì ông chính là người mà tôi nghĩ ít có hy vọng thay đổi nhất, bởi tôi đã hình thành trong đầu một hình ảnh rất trẻ con, phiến diện về ông kể từ sau khi xảy ra biến cố trong lớp của cô Holmes. Ban đầu tôi còn nghi ngờ ông, tự hỏi điều gì khiến ông thay đổi như vậy, phải chăng chỉ đơn giản là ông đang bảo vệ những lợi ích của riêng mình? Nhưng khi nhìn nhận vấn đề một cách cởi mở hơn, tôi hiểu ra rằng ông cũng quan tâm nhiều đến bọn trẻ, đương nhiên là theo cách riêng của mình. Đối với Sheila cũng thế.
Đó là một phiên tòa đóng. Cha mẹ của thằng bé bị nạn và luật sư của họ ngồi đối diện với chúng tôi. Phía xa là rất nhiều người của bang và hạt. Phía chúng tôi có Anton, Allan, cô Barthuly, Ed và viên giám thị của trường. Cha của Sheila đến muộn, nhưng cuối cùng ông cũng đến và hoàn toàn tỉnh táo. Tim tôi thắt lại khi thấy ông. Ông đã cố gắng mặc một bộ quần áo tươm tất nhất. Những đường chỉ may đã sờn hết, cái áo khoác thì đầy vết ố và mòn vẹt, còn cái quần thì vá chằng vá đụp. Cái bụng to tướng của ông căng tròn lên sau lớp áo, khiến nó như sắp bục cả nút ra đến nơi. Ông vừa mới cạo râu, và người ông sực nức mùi nước hoa rẻ tiền.
Sheila ngồi trên một cái ghế dài bằng gỗ sồi cứng bên ngoài phòng xử án. Chad nghĩ tốt nhất là con bé nên ngồi ở đó. Anh nghĩ có lẽ anh sẽ cần đến sự có mặt của con bé nếu mọi việc xảy ra không như mong muốn.
Sheila mặc cái quần yếm quen thuộc của nó và một cái áo thun. Tôi ước sao có thể chuẩn bị cho nó một bộ quần áo thật đẹp, nhưng không kịp thời gian. Tôi chỉ kịp tắm cho nó thật kỹ, chải tóc cho nó thật gọn gàng. Ít ra thì con bé cũng sạch sẽ. Vì con bé phải ngồi một mình bên ngoài phòng xử, nên chúng tôi đã mang theo vài cuốn sách cho nó đọc giải trí. Dù vậy, khi vị thẩm phán biết rằng con bé đang ngồi một mình không có ai trông coi, ông đã điều một viên thư ký tòa ra ngồi chung với nó.
Phiên tòa diễn ra rất khác với những gì mà tôi mong đợi. Trước đây tôi chưa từng tham dự phiên tòa nào cả, và tất cả những thông tin tôi biết đều qua ti-vi. Nhưng chuyện này không giống trong ti- vi. Các luật sư nói chuyện rất khẽ khàng, và từng người chúng tôi lần lượt đưa ra lời khai và vật chứng của mình. Tôi mang theo những cuốn băng để minh họa cho sự tiến bộ của Sheila trong lớp học trong suốt ba tháng nó ở cùng với chúng tôi. Allan trình bày lại những phát hiện của mình qua các bài kiểm tra với con bé. Ed nói về những chương trình khả thi dành cho con bé trong các trường công, dù nó sẽ tiếp tục cần có những chế độ trông coi đặc biệt sau khi hoàn tất lớp học của tôi.
Sau đó tòa hỏi cha mẹ của đứa bé trai nọ về sự việc xảy ra hồi tháng Mười một và hỏi cha của Sheila xem ông trông nom con gái của mình cẩn thận đến đâu, và theo ông trong mấy tháng vừa qua thì con bé có tiến bộ gì không. Phiên tòa diễn ra trong không khí rất yên ắng. Không có ai lên giọng, cũng không ai tỏ ra xúc động gì cả. Điều này quả thật quá khác biệt so với những điều mà tôi từng nghĩ.
Sau đó người ta đề nghị tất cả chúng tôi ra khỏi phòng xử án để các luật sư và thẩm phán kết luận sự việc. Tôi vô cùng tự hào về Chad. Dù mối quan hệ giữa anh và tôi đã kéo dài khá lâu, chúng tôi đã cùng nhau trải qua nhiều chuyện, nhưng chưa bao giờ tôi tận mắt chứng kiến anh làm việc một cách chuyên nghiệp như hôm nay cả. Giờ đây, trước mặt tôi là một người đàn ông hoàn toàn khác với người mà tôi vẫn gặp hàng ngày là chỉ nằm dài trên giường và xem ti-vi. Trông anh thật tự tin, và dường như mọi thứ diễn ra trong phiên tòa trở nên thật dễ dàng đối với anh. Tôi vô cùng tự hào khi anh đã nhận bào chữa cho một vụ mà anh biết là sẽ không mang lại cho mình một đồng nào. Tôi tự hào vì anh đã hiểu được những cảm xúc hoang mang trong tôi và biến chúng thành một cơ hội thực sự để có thể giữ Sheila ở lại.
Cha mẹ của cậu bé kia ngồi ở cuối hành lang. Mặt họ lộ rõ vẻ căng thẳng. Môi họ mím chặt. Mắt họ nhìn xa xăm bất động. Tôi tự hỏi không biết họ đang nghĩ gì. Tôi không thể đoán được điều gì qua gương mặt của họ. Liệu họ có lòng trắc ẩn để tha thứ cho Sheila sau những gì mà con bé đã làm không? Hay trái tim của họ vẫn còn chất nặng nỗi đau thương và kinh hoàng? Liệu họ có nung nấu cái ý định phải để cuộc sống của con bé cũng bị hủy hoại như nó đã làm với con trai họ? Nhìn họ, tôi không biết phải nghĩ thế nào nữa.
Người cha quay lại và thoáng nhìn vào mắt tôi. Cả hai chúng tôi đều vội quay đi chỗ khác. Họ không phải là những người xấu. Không phải là những người mà tôi có thể thù ghét. Khi trả lời thẩm vấn, giọng nói của họ thật nhẹ nhàng, không thể hiện bất kỳ sự giận dữ nào. Có thể nói là họ trả lời với giọng buồn bã. Họ không vui vì vấn đề này lại được khơi lên, vì phải xuất hiện trong phiên tòa này lần thứ hai, vì họ lại bị đứa trẻ này làm phiền. Tôi ước sao mình có thể ghét họ, việc này sẽ làm cho tôi dễ dàng chấp nhận hơn quyết định của tòa, dù quyết định ấy có là gì đi chăng nữa. Nhưng tôi không thể. Họ chỉ làm điều mà họ cho là tốt nhất. Lỗi của họ, nếu có, thì không gì khác hơn là họ đã bỏ qua việc con bé có vấn đề về tâm thần. Và nó sợ hãi. Giờ đây thì thẩm phán, người không biết cả hai phía chúng tôi, và cũng không biết cả hai đứa bé, sẽ là người quyết định – về một vấn đề không có trắng đen rõ ràng. Tôi tự hỏi họ cảm thấy thế nào. Tôi ước sao mình có đủ can đảm để đứng lên, đi về phía họ và hỏi điều này. Tôi ước sao có một cách nào đó để chuyện này khác đi.
Sheila ngồi trong lòng tôi. Lúc chúng tôi vừa đi ra, con bé đang vẽ một bức tranh và giờ nó đang cố kể cho tôi nghe về bức tranh này. Việc tôi ngồi trầm ngâm suy nghĩ một mình như thế làm nó khó chịu. Nó đưa một tay lên, quay đầu tôi lại để tôi nhìn nó.
- Cô xem bức tranh của con này, Tor. Nó là một bức tranh vẽ Susannah Joy, bạn ấy đang mặc cái đầm mà bạn ấy rất hay mặc đến trường.
Tôi nhìn xuống bức tranh. Từ lâu Sheila đã ghen tỵ với Susannah Joy. Susie là đứa trẻ duy nhất trong lớp của tôi xuất thân từ một gia đình giàu có. Con bé luôn ăn mặc rất đẹp và có một tủ quần áo tuyệt vời gồm rất nhiều bộ đầm cầu kỳ, kiểu cách. Sheila ghen tỵ với nó một cách hơi thiếu tế nhị. Con bé luôn ước ao có được một cái đầm, chỉ một cái đầm giống như của Susannah thôi. Ngày ngày, nó cứ lật hết trang này đến trang khác của cuốn catalogue và chọn ra những bộ đầm mà nó muốn có. Những chuyện này cũng được viết vào nhật ký của con bé. Mới tuần trước tôi tìm thấy trong cái giỏ đựng bài chính tả một tờ giấy của Sheila. Trong đó con bé viết:
Con cố hết sức viết cho cô Torey từ giờ trở đi con sẽ là một đứa bé gái ngoan hơn và làm tốt nhất bài tập con xin hứa. Con muốn kể cho cô nghe điều con làm tối qua. Con đi xuống và đợi cha con ông ấy ở chỗ cửa hiệu bán mắt kính nơi người ta xửa mắt kính. Vậy là con phải đi lòng vòng chơi một lúc và thỉnh thoảng con nhìn vào mấy cái cửa hiệu bán hàng. Đôi khi con ước mình có được những món đồ trong những cửa hàng ấy. Đôi khi chúng thật là đẹp. Con nhìn thấy một cái đầm thì có màu đỏ và xanh và có cả màu trắng nữa và nó có đăng ten trên đó và nó thật là dài và đẹp. Con chưa từng có một cái đầm như thế và nó thì thật là đẹp torey ạ. Con kiểu như là đã ước là có được nó. Con nghĩ nó cũng đúng cỡ của con nữa. Con hỏi cha con xem con có thể mua nó được không nhưng mà ổng nói là "không". Chuyện đó thì thật là tệ vì nó quá đẹp và con chưa bao giờ có được một cái đầm thật sự. Và con có thể mặc nó đến trường giống như Susannah Joy mặc. Bạn đó có nhiều đầm quá.
Nhưng mà con không thể mua nên con về nhà và cha con ổng mua cho con mấy cục kẹo M&M và bảo con "lên giường ngủ đi Sheila" thế là con đi ngủ.
Cái bài viết ngắn ấy đã làm tôi đau đớn, theo một cách rất buồn cười và không thể xác định được. Dường như đó là một trong những điều buồn nhất mà con bé từng viết. Nhưng Sheila vẫn tiếp tục sống, mặc dù biết rằng mình không thể có được một cái đầm. Nó chấp nhận điều đó, đồng thời vẫn tiếp tục mơ ước.
Sheila vẫn huyên thuyên về bức tranh mà nó đang cầm trên tay, chỉ cho tôi xem những chi tiết phức tạp của bức tranh. Vậy mà nó vẫn nhận ra rằng tâm trí tôi đang vơ vẩn đâu đâu. Con bé vẫn chưa được gọi vào, và tôi thấy điều này là một dấu hiệu tốt, nhưng con bé nhận thức được sự căng thẳng của chúng tôi.
Sau cùng thì cánh cửa phòng xử án cũng mở ra. Ngay khi nhìn thấy gương mặt của Chad, tôi đã đoán biết quyết định của tòa là gì. Anh đứng cách chúng tôi chừng ba mét, trên gương mặt anh là một nụ cười rạng rỡ. Anh nói:
- Chúng ta đã thắng.
Cả hành lang như vỡ òa. Chúng tôi nhảy nhót rồi ôm chầm lấy nhau. Sheila la hét ỏm tỏi, nhảy nhót len lỏi giữa chân mọi người:
- Chúng ta đã thắng! Chúng ta đã thắng! Chúng ta đã thắng!
Tất cả chúng tôi đều cười phá lên trước hành động này của con bé, nhưng tôi không nghĩ là nó hiểu được tầm ảnh hưởng của cái điều mà nó đang nói.
- Anh nghĩ chúng ta cần phải ăn mừng chuyện này. Em thấy sao? – Chad hỏi tôi. – Em nghĩ sao nếu chúng ta đến Shakey và đặt cái bánh pizza lớn nhất?
Những người khác lục tục ra về. Tôi vội liếc nhìn xuống cuối hành lang để tìm cha mẹ của cậu bé kia. Họ đang mặc áo khoác vào. Tôi lại ước sao mình có đủ can đảm để vượt qua quãng đường dài chưa đầy sáu mét ấy để đến chỗ họ và nói chuyện với họ. Chad đang nói chuyện với tôi về bánh pizza, Sheila đang nhảy nhót quanh chỗ tôi, giật thắt lưng tôi lia lịa để tôi chú ý đến nó, các thầy cô trong trường thì đang nói lời chào tạm biệt.
- Sao, em thấy sao? – Chad hỏi lại. – Em muốn đi hay em muốn đứng đó cả buổi tối thế? - Nói rồi anh nghịch ngợm thúc tôi một cái.
Tôi quay về phía anh và gật đầu.
- Còn con thì sao? – Chad nói với Sheila. – Con có muốn đi với cô Torey và chú không?
Mắt nó mở to, và con bé gật đầu. Tôi cúi xuống bồng nó lên, để nó nói chuyện với chúng tôi được dễ dàng hơn.
Cha Sheila đứng cách xa chúng tôi một quãng. Ông đứng một mình. Hai tay ông đút vào túi của bộ com-lê xộc xệch ông đang mặc. Ông nhìn chằm chằm xuống sàn nhà. Đối với tôi, trông ông thật cô đơn, cô đơn và bị quên lãng. Cuộc chiến mà chúng tôi vừa giành chiến thắng không phải là cuộc chiến của ông. Con bé đã đợi chúng tôi ngoài hành lang, và bây giờ con bé đang ăn mừng với chúng tôi. Đó là chiến thắng của chúng tôi. Chiến thắng này không có ông. Trước giờ những phiên tòa chỉ mang lại cho ông những điều tồi tệ; với ông chúng thật đáng sợ. Trong bộ quần áo tồi tàn và mùi nước hoa rẻ tiền xộc lên nồng nặc, trông ông quá khác lạ và tương phản với những người xung quanh, tương phản đến mức lạ lùng và đáng kinh ngạc. Với một nỗi buồn vô hạn, tôi nhận ra rằng đến ngay cả con gái của ông cũng không thuộc về ông. Con bé là một phần của chúng tôi; còn ông thì không.
Hẳn Chad cũng nhận thấy sự cô đơn nơi người đàn ông này. Anh hỏi ông ta:
- Ông có muốn đi cùng chúng tôi không?
Trong một thoáng, tôi nghĩ mình đã nhìn thấy gương mặt ông ánh lên niềm vui. Nhưng ông đã lắc đầu.
- Không, tôi phải đi.
- Sheila đi với chúng tôi được chứ? – Chad lại hỏi. – Chúng tôi sẽ đưa cháu về nhà sau.
Ông gật đầu. Nhìn Sheila, ông nở một nụ cười nhẹ nhàng. Tôi vẫn bế con bé trên tay. Nó vẫn liên tục ngọ nguậy vì phấn khích, không hề để ý gì đến cha nó.
- Ông chắc là không muốn đi cùng chúng tôi chứ?
- Vâng.
Chúng tôi nhìn nhau một lúc lâu. Khoảng cách giữa hai thế giới hoàn toàn khác nhau của chúng tôi chưa bao giờ được san lấp. Chad thò tay vào túi và lấy ví ra. Anh lấy ra một tờ hai mươi đô-la và đưa cho cha của Sheila.
- Đây. Đây là một chút để ông cũng có thể tận hưởng niềm vui này.
Ông ấy lưỡng lự. Tôi không nghĩ ông ấy sẽ nhận, vì tôi biết ông khinh bỉ những hành động từ thiện người ta dành cho ông đến thế nào. Nhưng rồi ông cũng ngập ngừng chìa tay ra và nhận lấy tờ tiền ấy. Ông lúng búng nói cảm ơn, rồi quay người lại và đi thẳng, trên cái hành lang dài hun hút ấy.
Sheila, Chad và tôi cùng nhau chui vào cái xe nhỏ xíu của Chad để đến tiệm bánh pizza.
- Này Sheila, con thích pizza loại nào? – Chad hỏi Sheila đang ngồi trên băng ghế sau,.
- Con không biết. Con chưa từng ăn bánh pizza lần nào.
- Chưa từng ăn pizza? – Chad thốt lên. – Chà, vậy là chúng ta phải ăn pizza thường xuyên hơn rồi, phải không hả?
Qua cách cư xử của con bé, thì sẽ không ai có thể biết được là trước giờ nó chưa từng ăn pizza. Mắt nó mở to và sáng rực lên khi người ta mang pizza ra, và nó chộp lấy miếng bánh như một tay chuyên nghiệp. Chad đã gọi loại bánh pizza to nhất, nhiều vị nhất mà anh có thể tìm thấy trong thực đơn, cùng với một bình nước ngọt lớn. Đó là một khoảnh khắc thật diệu kỳ. Sheila thật sống động và linh hoạt, nó nói liên tục. Con bé cảm thấy rất thích thú với Chad và cuối cùng nó leo vào lòng anh ngồi. Chúng tôi cùng nhau lắng nghe người chơi piano dạo đàn. Chad nói rằng trong cuộc đời mình anh chưa từng thấy đứa bé nào ăn nhiều đồ ăn một lúc đến như thế. Để trêu anh, Sheila bảo anh rằng nó có thể ăn ít nhất một trăm cái bánh pizza, nếu anh có đủ tiền để mua ngần ấy bánh, và ợ một tiếng rõ to để minh họa cho điều này.
Chad chỉ mới gặp Sheila trong một thời gian ngắn hôm chúng tôi đến nhà nói chuyện với cha con bé, còn trước đó anh chỉ nghe tôi kể về nó chứ chưa bao giờ gặp mặt. Chúng tôi ngồi với nhau đến lúc trời vừa sập tối thì Chad hoàn toàn nghĩ rằng con bé là một người thật đặc biệt. Và dĩ nhiên là con bé cũng có cảm nhận như vậy về Chad. Hai chú cháu cứ cười và đùa giỡn với nhau trong suốt thời gian chúng tôi ngồi trong tiệm pizza.
Trời tối hẳn. Chúng tôi đã ăn hết cái bánh pizza khổng lồ, uống hết chỗ nước ngọt, và thêm một chầu kem nữa. Chúng tôi đã nghe người chơi piano chơi rất lâu, và sau đó ông còn mời Chad lên chơi bài "Trái tim và Tâm hồn" cùng với mình. Vậy mà Chad và Sheila vẫn chưa muốn chia tay nhau.
Chad khom người thấp xuống mặt bàn và nhìn
Sheila. Anh hỏi:
- Con thích điều gì nhất trên đời này, nếu con có thể có được nó?
Tim tôi thắt lại, bởi vì tôi biết Sheila sẽ trả lời rằng con bé muốn mẹ nó và Jimmie quay về, và điều này sẽ làm tâm trạng của chúng tôi chùng xuống.
Con bé suy nghĩ câu hỏi rất lâu.
- Thật hay giả vờ?
- Thật.
Nó lại ngồi trầm ngâm.
- Một cái đầm, con nghĩ thế.
- Đầm kiểu gì?
- Đầm giống như của Susannah Joy ấy. Đầm có viền đăng ten.
- Ý con là tất cả những gì con muốn trên đời này chỉ là một cái đầm thôi sao? - Chad vừa hỏi vừa đảo mắt từ Sheila nhìn sang tôi.
Sheila gật đầu.
- Con chưa bao giờ có một cái đầm cả. Có lần một bà ở nhà thờ đã mang cho con ít quần áo và trong đó có một cái đầm. Nhưng cha con, thậm chí ổng còn không cho con mặc thử cái đầm đó vào. Ổng nói con không được nhận đồ từ thiện của bất cứ ai cả, - con bé nhíu mày – con nghĩ nếu mà mặc thử thôi thì cũng đâu có sao, nhưng mà cha con ổng nói là con sẽ bị đánh đòn nếu con làm thế, thế nên con không dám mặc thử luôn.
Chad nhìn đồng hồ.
- Mới có bảy giờ thôi. Chú không nghĩ là các cửa hàng ở khu mua sắm sẽ đóng cửa trước chín giờ. - Anh nhìn tôi, rồi lại quay sang Sheila. – Nếu chú nói hôm nay là một ngày may mắn của con thì sao nhỉ?
Sheila nhìn anh với vẻ dò hỏi. Con bé vẫn chưa biết chuyện gì đang xảy ra.
- Ý chú là sao?
- Nếu chú nói trong vài phút nữa chúng ta sẽ ra xe và đi mua cho con một cái đầm thì sao? Bất cứ cái đầm nào con muốn.
Mắt Sheila mở to đến mức tôi sợ chúng sắp nổ tung đến nơi. Nó há hốc mồm ra, và nhìn tôi. Nhưng rồi nó bỗng ỉu xìu.
- Cha con ổng sẽ không cho con giữ nó đâu.
- Chú nghĩ là ông ấy sẽ cho. Chúng ta sẽ nói với ông ấy rằng đó chỉ là phần con đáng nhận được để ăn mừng niềm vui này. Chú sẽ vào cùng với con khi chúng ta đưa con về nhà. Chú sẽ nói với ông ấy cho con.
Sheila không còn tự chủ được nữa. Nó nhào ra khỏi ghế và nhảy múa giữa lối đi, va vào những người qua lại. Con bé ôm tôi. Rồi ôm Chad. Nếu chúng tôi không đi ngay, chắc là nó sẽ quậy tưng chỗ ấy.
Một tiếng đồng hồ sau đó quả thật là khoảng thời gian đáng nhớ. Chúng tôi đi trên những lối đi của hai trung tâm mua sắm lớn trong khu thương mại, Sheila nắm lấy tay chúng tôi và nhảy nhót. Khi chúng tôi đến được quầy bán đầm cho bé gái, con bé bỗng trở nên nhút nhát đến không ngờ; thậm chí con bé còn không dám nhìn chúng, mà chỉ vùi mặt vào chân tôi. Những ước mơ sắp trở thành sự thật có thể khiến người ta bối rối như thế đấy.
Cuối cùng tôi chọn vài cái đầm có viền đăng ten thật đẹp, rồi lôi Sheila vào phòng thử để mặc chúng vào. Khi chỉ còn có chúng tôi với nhau thì con bé lại hoạt bát trở lại. Nó tụt cái quần yếm và cái áo thun ra, chỉ còn mặc độc cái quần lót trên người, rồi cầm những cái đầm lên ngắm nghía thật cẩn thận. Con bé gầy khẳng khiu, lưng nó võng xuống, và cái bụng to tướng của trẻ con chỉ càng làm nổi bật thêm cái sự gầy gò của nó. Giờ chỉ còn lại một mình với những chiếc đầm, con bé trở nên quá phấn khích đến nỗi không mặc chúng vào được mà cứ nhảy múa vòng quanh trong cái phòng thử đồ bé xíu. Tôi ôm ngang hông nó, giữ nó đứng yên và bắt nó tròng một cái đầm vào. Thật là một khoảnh khắc kỳ diệu. Sheila làm dáng trước gương một lúc rồi chạy ra ngoài để khoe Chad. Chúng tôi đã mất đến nửa tiếng đồng hồ trong phòng thử đồ để Sheila cố gắng quyết định xem nên chọn cái nào trong số ba cái đầm. Nó mặc thử từng cái vào, mỗi cái ít nhất bốn lần. Cuối cùng nó chọn một cái đầm màu đỏ trắng có viền đăng ten ở cổ và quanh ống tay áo.
- Con sẽ mặc nó đến trường mỗi ngày. – Con bé háo hức nói.
- Trông con thật là đẹp.
Con bé liếc nhìn tôi qua tấm gương.
- Con mặc nó về nhà được không?
- Nếu con muốn.
- Con muốn! – Nụ cười của nó vụt tắt khi nó quay sang tôi. Nó trèo vào lòng tôi, nhẹ nhàng lấy một tay chạm vào mặt tôi.
- Cô biết con ước gì không?
- Rằng con có thể có cả ba cái đầm này hả? Con bé lắc đầu.
- Con ước cô là Mẹ con, và Chad là Cha con. Tôi mỉm cười.
- Nó gần như giống như thế phải không? Ý con là tối nay nè. Hai người gần như là cha và mẹ ruột của con.
- Ba người chúng ta còn tuyệt hơn như thế nữa
mà Sheil. Chúng ta là bạn. Bạn còn tuyệt hơn là cha mẹ nữa, vì điều đó có nghĩa là chúng ta yêu thương nhau bởi vì chúng ta muốn thế chứ không phải vì chúng ta buộc phải thế. Chúng ta đã chọn là bạn của nhau.
Con bé nhìn tôi một lúc lâu, nó cứ ngồi trên đầu gối tôi và nhìn vào mắt tôi như thế. Cuối cùng nó thở dài và tuột xuống.
- Con ước chúng ta có thể là cả hai. Chúng ta có thể vừa là bạn vừa là gia đình của nhau.
- Ừ, như thế chắc sẽ tuyệt lắm. Trán con bé nhăn lại.
- Chúng ta có thể giả vờ không? – Nó ngập ngừng hỏi. – Chỉ tối nay thôi, liệu chúng ta có thể giả vờ không? Giả vờ rằng cô và Chad là cha mẹ con, và hai người đang đưa đứa con gái nhỏ của mình ra ngoài để mua cho nó một cái đầm. Dù nó có rất nhiều đầm ở nhà rồi, nhưng mà hai người vẫn đưa nó ra ngoài để mua một cái đầm khác vì con bé muốn nó và hai người thương nó rất nhiều?
Tất cả những gì tôi học được trong lớp huấn luyện về tâm lý đều thúc giục tôi nói không. Nhưng khi tôi nhìn vào mắt con bé, trái tim tôi không cho phép tôi làm thế.
- Cô nghĩ là chúng ta có thể giả vờ như thế, nhưng chỉ trong tối nay thôi. Nhưng con phải nhớ rằng nó chỉ là giả vờ và chỉ tối nay thôi nhé.
Con bé nhảy cẫng lên và lao vụt ra khỏi phòng thử đồ, chỉ mặc độc có chiếc quần lót.
- Con sẽ đi nói với Chad!
Chad rất thích thú khi biết rằng trong khi chúng tôi đang ở trong phòng thử đồ thì anh ấy đã trở thành một người cha. Anh đóng vai của mình thật trọn vẹn. Đó là một đêm bí ẩn đầy những phép màu không thể diễn tả thành lời đối với cả ba chúng tôi. Sheila ngủ thiếp đi trong vòng tay tôi trên đường về trại tập trung. Khi Chad dừng xe lại, tôi đánh thức nó dậy.
- Này, cô bé Lọ Lem ơi. – Chad mở cửa xe và gọi. – Đã đến lúc về nhà rồi.
Con bé cười ngái ngủ với anh.
- Coi nào, chú sẽ đưa con vào và kể cho cha con nghe chúng ta đã làm gì.
Con bé lưỡng lự một thoáng rồi khẽ nói:
- Con không muốn đi.
- Đêm nay thật là tuyệt, phải không? - Tôi nói. Con bé gật đầu. Ba người chúng tôi im lặng.
- Con hôn cô được không?
- Được, cô nghĩ là được.
Tôi ôm nó một cái thật chặt và hôn nó. Tôi cảm nhận được đôi môi mềm mại của nó chạm vào má mình. Rồi nó hôn Chad khi anh bế nó ra khỏi lòng tôi để đưa nó vào nhà.
Chúng tôi lái xe về nhà trong im lặng. Khi về đến trước cửa nhà, chúng tôi dừng xe lại, ngồi yên trong xe và không nói gì cả. Cuối cùng Chad quay sang tôi, mắt anh phản chiếu ánh sáng của những ngọn đèn đường.
- Nó là một đứa bé thật đặc biệt. Tôi gật đầu.
- Em biết không – anh nói – có lẽ nói điều này ra nghe thật ngốc, nhưng anh đã giả vờ làm cha nó mà không gặp vấn đề gì hết. Anh cũng ước chúng ta là một gia đình. Việc này có vẻ thật dễ dàng. Và thật đúng đắn.
Giữa bóng đêm bao phủ, tôi mỉm cười, cảm nhận được quanh mình có một dòng chảy tĩnh lặng thật dễ chịu.