Khi bàn tán về tài nghệ của kẻ cắp, nhiều người thường so sánh: "Nhanh như kẻ cắp chợ Đồng Xuân", hay "Đúng là kẻ cắp chợ Đồng Xuân". Vậy "Kẻ cắp chợ Đồng Xuân" chỉ là một khẩu ngữ hay nó ra đời từ sự tích?
Truyện ngắn Mất cái ví của nhà văn Nguyễn Công Hoan đăng trên báo Nhật Tân số 3 ra ngày 16-3-1933 kể chuyện đúng vào hôm có cậu ruột ở quê ra chơi, ông Tham kêu mất cái ví trong đó có 40 đồng. Sau khi mắng mỏ, dọa nạt con sen, thằng xe, ông Tham quay ra bảo cậu: "Hôm nay phiên chợ Đồng Xuân, mời cậu lên chợ chơi cho biết chợ", xâu chuỗi lời của đứa cháu, người cậu nghĩ bụng: "Nó mời mình lên chợ Đồng Xuân chắc là nó bảo mình ăn cắp cái ví của nó đây." Vậy, kẻ cắp chợ Đồng Xuân có thể do Nguyễn Công Hoan hư cấu song cũng có thể chợ Đồng Xuân có nhiều kẻ cắp thật nên nhà văn đưa vào tác phẩm. Theo một số nhà lý luận và phê bình văn học một thời, thì Nguyễn Công Hoan là nhà văn theo chủ nghĩa hiện thực phê phán, nghĩa là chất liệu cho tác phẩm được lấy từ đời sống trong thời của nhà văn. Như thế, nếu chuyện kẻ cắp chợ Đồng Xuân là chuyện có thật thì họ ăn cắp gì?
Sau khi trở thành nhượng địa của Pháp, đốc lý Hà Nội là Tirant Gilberts (từ 19-7-1888 đến 7-6-1889) đã ra quyết định mở rộng thành phố bằng việc lấp đoạn sông Tô Lịch từ cửa sông Nhĩ vào đến chân tường thành cũ. Thay thế chức đốc lý của Tirant Gilbert là Landes Charles (từ 8-6-1899 đến 15-1-1890), ông này xóa bỏ hai ngôi chợ cũ của Hà Nội vốn họp cạnh đền Bạch Mã và bên Cầu Đông, dồn tất cả về họp ở cái chợ nhỏ nằm trước cửa đền Huyền Thiên thuộc phường Đồng Xuân, và chợ Đồng Xuân ra đời vào năm 1889.
Ban đầu, chợ họp ngoài trời, diện tích chợ nhỏ rồi sau đó lan ra phố Hàng Khoai, Hàng Gạo. Tuy là chợ hàng ngày nhưng mỗi tháng có một phiên họp vào ngày đầu tháng âm lịch, chợ phiên đông đúc kẻ mua người bán hơn ngày thường do bà con các vùng ngoại thành mang bán các loại cây giống, súc vật giống như lợn, chó, mèo... Vì số người mua bán quá đông nên chính quyền thành phố cho phép tràn sang khu đất mới lấp. Để bắt tất cả kẻ mua người bán phải vào chợ và không chiếm đường đi của các phố xung quanh đồng thời không bỏ sót thuế, chính quyền cho quây xung quanh bằng rào tre với diện tích khoảng 10.000 mét vuông. Chợ Đồng Xuân ban đầu không có hàng lối, những người bán cùng mặt hàng tự ngồi gần nhau để dễ bán dễ mua. Những người bán vải và tạp hóa vì sợ mưa chạy không kịp đã tự dựng túp lều bằng phên tre, còn bán rau, hoa quả hay thịt cá vẫn ngồi ngoài trời. Thay thế đốc lý Defrenel Paul chỉ nắm quyền trong ba tháng lại là Landes Charles, thấy thuế chợ Đồng Xuân là nguồn thu lớn nhất cho ngân sách thành phố nên Landes Charles đã quyết định nâng chợ phiên từ tháng một lần lên hai lần đồng thời cho xây lại chợ. Khung chợ đúc bằng gang chuyển từ Pháp mang sang và có năm bộ kèo mỗi bộ dài 52 mét cao 19 mét, mái lợp bằng tôn để che mưa che nắng. Năm 1892, trong kế hoạch xây dựng lại khu vực phố cổ để Hà Nội văn minh hơn, chính quyền thành phố đã cho xây tường ở mặt cổng ra vào, và đến năm 1893 thì xây tường bao xung quanh. Vào chợ có ba lối, cổng chính là mặt phố Đồng Xuân hiện nay với ba cổng, cổng bên ở phố Hàng Khoai và một cổng ở phố Hàng Chiếu. Từ Hàng Chiếu vào phải đi theo qua ngõ, ngõ rất dài, hiện tại gọi là ngõ Đồng Xuân. Cổng chính có một phòng rộng dành cho ban quản lý và một viên cảnh sát, gồm toàn là người Pháp, hai bên có quầy đổi tiền lẻ cho khách (lúc này Hà Nội tiêu tiền France do ngân hàng Pháp phát hành để sử dụng ở Đông Dương). Đồng Xuân trở thành chợ lớn nhất Bắc Kỳ và không chỉ là chợ bán lẻ mà còn là chợ bán buôn cho người các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra đến cất hàng. Từ khi có đường tàu điện chạy qua cửa chợ lên Bưởi thì chợ càng đông hơn, vì lượng khách thăm thú cũng lắm. Từ mờ sáng cho tới lúc đóng cửa, lúc nào chợ cũng đông người, thế nhưng chỉ có một nhà vệ sinh và nhà vệ sinh này lại chỉ dành cho người Pháp, người Việt không được vào nên người ta gọi là nhà vệ sinh Tây. Ngoài chuyện coi thường người bản xứ thì nhà vệ sinh dành riêng cho Tây là sự phỉ báng nền dân chủ tư sản cuối thế kỷ XIX. Song ở góc độ văn minh đô thị, đây là nhà vệ sinh công cộng đầu tiên của Hà Nội. Nhưng cái sự thải ra đâu chỉ là người Tây mới có nhu cầu, nên muốn đi vệ sinh, người Việt Nam buộc phải ra bãi đất hoang sau này là chợ Bắc Qua, nên mùi hôi thối bốc lên, vào mùa đông gió lùa cả vào ban quản lý, khiến mấy ông Tây không chịu nổi đã phải xây nhà vệ sinh cho người Việt. Tuy nhiên ai đi phải trả tiền.
Cuối thế kỷ XIX, hàng hóa ở chợ Đông Xuân không chỉ có các mặt hàng sản xuất trong nước mà chợ bán rất nhiều hàng hóa tiêu dùng nhập từ nước ngoài, trong đó có táo, lê nhập từ San Fransico (Mỹ), vải từ Anh, hàng tiêu dùng từ Pháp, Hồng Công và Thượng Hải (Trung Quốc), nên người ta bắt đầu chia thành từng dãy, đồng thời quy định cụ thể khu vực này bán hàng gì, khu vực kia bán hàng gì. Thẳng cổng chính là dãy bán vải, bên trái là bán hoa quả, kế đó là bán tạp hóa rồi đến các quầy bán thịt, rau, đồ sắt, ăn uống và có cả khu vực dành cho những người xem bói. Trong bài xẩm Vui nhất là chợ Đồng Xuân, người ta liệt kê ra rất cụ thể chuyện này:
Hà Nội như động tiên sa
Sáu giờ tắt hết đèn xa đèn gần
Vui nhất có chợ Đồng Xuân
Mùa nào thức nấy xa gần xem mua
Cổng giữa có chị bán dừa
Hàng cau, hàng quít, hàng dưa, hàng hồng
Ai ơi đứng lại mà trông
Hàng vóc nhiều thong dong mượt mà
Ngoài chợ có chị hàng hoa
Có người đổi bạc đi ra đi vào
Nào hàng bún nấu bán rao
...
Đầu thế kỷ XX, rau quả từ Đà Lạt chuyển ra theo tàu hỏa, su hào, bắp cải từ Sapa chuyển về bằng ô tô và nhiều mặt hàng sản xuất từ Sài Gòn chuyển ra như xà phòng Cô Ba, nước hoa, rồi bàn chải, dầu nóng... Người buôn bán được trọng nhất là người bán hoa quả và bán vải, vì phải có vốn lớn mới buôn được những mặt hàng này. Chủ chỉ việc thu tiền, tiếp khách và ăn quà vặt, vì họ có giúp việc và phụ bán hàng, quản lý chợ cũng tôn trọng bởi họ nộp thuế rất cao. Bán vải đa phần là dân xã Đông Ngạc (nay thuộc huyện Từ Liêm). Sáng ra, các bà, các cô đi xe tay xuống chợ, chiều thì ngất ngưởng trên xe tay về làng.
Vì là chợ lớn, lại đầy đủ các mặt hàng nên sáng sáng đàn bà con gái người Pháp, Nhật kiều, Ấn kiều và me Tây, muốn mua sắm cái gì đều phải lên Đồng Xuân. Nhà giàu sang có ô tô đưa đi, nhà khá giả thì đi xe tay, nhà bình bình đi tàu điện. Vào ngày nghỉ, nhiều gia đình dắt nhau đi chợ như thú vui vì thành phố thuộc địa này quá ít trò chơi. Do khách hàng đa phần tầng lớp trung lưu trở lên nên kẻ cắp chợ Đồng Xuân chỉ nhằm vào họ? Nhưng lấy được của cánh đàn ông thật không dễ dàng, bởi ví của họ đút túi sau quần Âu có khuy cài, lại thêm sợi xích sắt móc vào đỉa quần. Các bà đầm cầm ví ở tay, nếu kẻ gian cướp của họ chỉ cần một tiếng kêu lập tức ban quản lý cho đóng ba cửa chợ và sau đó không lâu thì cảnh sát bốt Hàng Đậu sẽ xuất hiện để lục lọi, khám xét. Và cũng từng có cảnh sát bốt Hàng Đậu làm chuyện đó nên kẻ gian không dám liều. Còn bà con buôn bán trong chợ không muốn điều đó nên nghi ngờ ai là họ báo ban quản lý. Vậy kẻ gian ăn cắp của ai? Của mấy bà bán hàng ở quê ra chăng? Cũng không được, bán được cái gì các bà cho vào ruột tượng, hoặc túi vải có dây thắt miệng rồi vận vào cạp quần. Vậy kẻ cắp chợ Đồng Xuân ăn cắp cái gì?
Phục vụ cho những người bán hàng và người mua hàng có hẳn một đội quân bâté (phu chuyên khiêng hàng thuê), trong bộ sách ba tập Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn viết: "Những người khiêng hàng thuê hầu hết đều quê ở Nghệ An." Để bảo vệ nhau, họ thành lập thành phường. Các phường bâté này có một đội trẻ em cả trai lẫn gái dưới 16 tuổi chuyên cắp rổ theo người đi chợ, họ mua cái gì thì bỏ vào rổ của chúng, sau khi mua đủ chúng sẽ mang ra xe cho họ và nhận tiền boa. Phân biệt giữa phường bâté này với phường bâté kia là ở màu sắc cái rổ, nếu phường này sơn đen thì phường kia sẽ để nguyên màu ám khói. Do có nhiều phường bâté nên cạnh tranh diễn ra quyết liệt, để hạ uy tín của nhau, người của phường này lợi dụng chợ đông thò tay lấy cắp hàng trong rổ của phường kia và ngược lại. Dù nhiều người đi chợ yêu cầu trẻ cắp rổ theo mình cảnh giác nhưng hàng hóa vẫn bị mất, sự việc diễn ra quá nhiều và cảnh sát bốt Hàng Đậu dù bí mật theo dõi cũng không phát hiện được nên người đi chợ nói với nhau: "Đúng là kẻ cắp chợ Đông Xuân." Câu nói đó loang ra khắp thành phố và kẻ cắp chợ Đồng Xuân như tiêu chuẩn để chỉ tài nghệ của kẻ cắp.
Trước khi trở thành người giàu có thì Công Tu Nghiệp (người làng Phú Gia, nay thuộc phường Phú Thượng, quận Tây Hồ) từng là trẻ phụ bán hàng ở quầy vải chợ Đồng Xuân hồi đầu thế kỷ XX. Vợ chồng một người Pháp thấy Nghiệp dễ thương nhận làm con nuôi và dạy cho nghề nấu ăn. Khi trưởng thành, Nghiệp xin ra ở riêng và mở cửa hàng, rồi từ đó mà thành đạt và trở thành chủ khách sạn Phú Gia ở phố Hàng Trống. Lúc ông còn sống, có người hỏi ông về chuyện kẻ cắp chợ Đồng Xuân, ông bảo chỉ có các phường bâté lấy của nhau. Sau cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở Hà Nội vào tháng 7-1959, chợ Đồng Xuân không còn là cái "dạ dày" của Hà Nội, các phường bâté cũng bị giải tán, hàng hóa ít dần, vì thế chợ cũng vắng người... Sự thể "kẻ cắp chợ Đồng Xuân" có lẽ chỉ có thế!