Cùng với xây dựng công sở, công sứ Bonnal cũng cho làm vườn hoa phía đông Hồ Gươm vào năm 1885. Ngoài trồng cây bóng mát, ông ta còn cho trồng những luống hoa cúc, hồng lấy giống từ làng Ngọc Hà và Hữu Tiệp. Ban đầu chưa có tên, do nằm giữa bốn tòa nhà là đốc lý (nay là UBND Thành phố), Bưu điện (bưu điện Hà Nội hiện nay), Phủ thống sứ Bắc Kỳ (nay là Nhà khách Chính phủ) và Ngân hàng Đông Dương (nay là Ngân hàng Nhà nước) nên dân gian gọi luôn là vườn hoa Bốn tòa. Để xây công sở và vườn hoa, công sứ Bonnal đã cho chuyển chùa Tầu xuống khu vực nay là phố Ngô Sỹ Liên (chùa Phổ Giác), đồng thời cho phá bỏ con đê chính là đoạn phố Lý Thái Tổ ngày nay. Giữa vườn hoa cho xây ngôi nhà bát giác, dành cho đội kèn binh chơi nhạc vào thứ Bảy. Ngày 11-11-1886, Tổng trú sứ Paul Bert bị chết vì kiết lỵ, chính quyền Pháp đã lấy tên ông ta đặt tên cho vườn hoa này.
Trước đó Hà Nội không có chỗ vui chơi công cộng nên làm vườn hoa tạo chỗ vui chơi, sinh hoạt cho nhiều người là sự thay đổi có tính bước ngoặt trong sinh hoạt hàng ngày ở Hà Nội. Trên con đường huyết mạch từ Đồn Thủy đến thành, chính quyền cho làm vườn hoa nhỏ (nay là góc phố Quang Trung – Tràng Thi), đặt tên là Simoni (năm 1945, thị trưởng Trần Văn lai đổi thành Tây Sơn) có cây xanh, ghế đá cho khách bộ hành nghỉ chân đồng thời đây cũng là "khoảng thở" cho thành phố mà họ dự đoán tương lai sẽ chật chội. Một vườn hoa nữa cũng trên trục đường này là vườn hoa Nayret (vì nó là cổng phía nam của thành Thăng Long xưa nên dân gọi là vườn hoa Cửa Nam, khi làm thị trưởng vào tháng 7-1945, ông Trần Văn Lai cho đổi tên thành Bách Việt). Là vườn hoa nhưng diện tích không lớn, chỉ có thảm cỏ và ít cây xanh. Vị trí này thời Lê là đình Quảng Văn, nơi bình văn, giảng chữ thánh hiền. Năm 1896, trước sự phản đối của một số tờ báo Pháp ở Hà Nội và các nhà nghiên cứu của Viện Viễn đông bác cổ, chính quyền đã chuyển tượng Nữ thần tự do trên nóc Tháp rùa về đây vì thế mới có vè:
"Nhớ Quảng Văn đình tớ đến nghe
Câu Kê chẳng thấy, thấy đầm xòe
Thập điều bặt tiếng ê a giảng
Choáng óc kèn tây rúc tí toe..."
Một vườn hoa nhỏ khác cũng ra đời trong khoảng thời gian này ở đầu phố Tây Sơn hiện nay. Sáng sáng, đội kèn binh đóng trong Thành ra tập nên dân gọi là "vườn hoa tập kèn".
Công viên đầu tiên ở Hà Nội chính là vườn Bách thảo (Jardin des plantes) được lập vào năm 1889, trên vùng đất của làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp và Khán Xuân. Ban đầu, khu vườn cây trồng và nuôi chim thú này chỉ là một cảnh quan hỗ trợ cho không gian của phủ Toàn quyền Đông Dương. Không gian này bao lấy một gò núi đất nhỏ mà dân vẫn quen gọi là núi Nùng (còn có tên khác là núi Sưa, vì trên đó mọc nhiều cây sưa). Trên lưng núi, có đền thờ Huyền Thiên Hắc Đế, tương truyền là người giúp nhà Lý đánh giặc phương Nam, nên được phong làm thành hoàng của mấy làng trong khu vực. Ngay chân núi có hồ Vị Danh, giữa hồ có đảo Nhện. Vào tối thứ Bảy, đội kèn binh từ trong Thành ra chơi nhạc ở đảo Nhện. Ở đây từng có một ngôi "đền Hàng Hoa". Vườn Bách thảo ban đầu chỉ là một vườn thí nghiệm, được trao cho một viên dược sĩ hải quân biệt phái về Sở Nông lâm nghiên cứu phương thức di thực các loại thảo mộc từ nước ngoài, tìm ra những giống thích hợp để trồng trên phố. Dần dà, cùng với các giống cây, các luống hoa nở quanh năm đã tạo nên kỳ hoa dị thảo. Rồi người ta bắt đầu nuôi hươu, nai, gấu, hổ và voi cùng nhiều loại chim muông nên vườn còn được gọi là Bách Thú. Chiến tranh thế giới thứ II xảy ra, thú không được chăm sóc, nên họ cho chuyển vào Sở Thú Sài Gòn. Cạnh Bách Thảo còn có một trại giống, chuyên ươm các giống rau, củ, quả và hoa nhập từ châu Âu. Nhiều giống hoa thích hợp với khi hậu miền Bắc đã được nhân rộng, và dân Ngọc Hà, Hữu Tiệp làm công ở đây tìm cách mang về trồng, vì thế hai làng này trở thành nơi trồng hoa Tây bên cạnh các giống hoa bản địa. Vườn Bách Thảo tuy không lớn nhưng cảnh quan và bóng mát của nó thu hút người đến thưởng ngoạn ngày một đông, khiến cho một thời, người các tỉnh về Hà Nội là phải đi hóng mát hồ Gươm, ghé chợ Đồng Xuân và thăm vườn Bách Thảo mới "đủ món". Bách Thảo cũng là nơi học sinh trường Trung học bảo hộ (còn gọi là trường Bưởi) nhà ở xa vào đây nghỉ trưa. Những năm 1960, GS Vũ Văn Chuyên thường dẫn sinh viên học dược lên Bách Thảo để nhận biết các giống thảo mộc, vốn vô cùng phong phú. Từ khi Hà Nội thành nhượng địa năm 1888 đến đầu những năm 30 của thế kỷ trước, hệ thống vườn hoa và công viên Hà Nội khá hoàn chỉnh, với cây, hoa và tượng đài. Dù là nhiều tượng đài mang tính thực dân nhưng ở góc độ văn hóa, cùng với kiến trúc châu Âu, người Pháp bước đầu ghi dấu ấn văn hóa ở Hà Nội.
Nhìn trên bản đồ người Pháp vẽ năm 1934, phía nam thành phố có hồ Ba Mẫu và Bảy Mẫu khi ấy còn nham nhở, chi chít các đảo nhỏ mọc lên như những "vết mụn" và nối với hồ Thiền Quang. Hồ Bảy Mẫu còn thông mạch với hai hồ cạn ở phía nam (khu giảng đường của Đại học Bách khoa Hà Nội và phố Kim Hoa bây giờ). Vào mùa mưa, hai hồ này đầy nước nhưng tháng hanh khô thì cạn nên dân quanh vùng tận dụng cấy lúa, trồng rau và gọi là Đồng Lầm. Trước năm 1958, khu vực thấp trũng ở phía nam hồ Thuyền Quang bị biến thành bãi rác khổng lồ của thành phố, mà trung tâm bãi rác chính là hồ Bảy Mẫu. Năm 1955, với sự giúp đỡ của Liên Xô, Nhà nước bắt tay xây dựng Đại học Bách khoa Hà Nội tại Khu học xá Đông Dương. Vì vậy, năm 1958, UBND Thành phố quyết định cải tạo khu vực xung quanh hồ Bảy Mẫu (1 mẫu Bắc bộ tương đương 3.600 mét vuông, và 7 mẫu là 25.200 mét vuông, quy ra là 25,2 héc ta) thành công viên cây xanh để làm nơi vui chơi, giải trí cho nhân dân. Thực ra trong quy hoạch mở rộng và cải tạo Hà Nội được toàn quyền Đông Dương thông qua năm 1936 thì hồ Bảy Mẫu sẽ là điểm phải cải tạo đầu tiên với hồ nước, cây xanh và các tuyến đường rộng bao quanh để trở thành công viên mở. Nhưng chuẩn bị triển khai thì năm 1939 xảy ra chiến tranh thế giới lần thứ II và đến cuối năm 1940, quân Nhật tiến vào Việt Nam nên qui hoạch không thực hiện được.
Tham gia xây dựng Công viên Thống Nhất không chỉ có cán bộ và công nhân, mà còn có sinh viên, học sinh và công sức của nhân dân. Thời đó phụ nữ chủ yếu mặt quần lụa, sa tanh và quần phíp lồng chun, khi tham gia lao động, có chị em hăng hái quá đã bị xa xuống đống bùn lầy, khi kéo lên được thì quần ở lại. Tuy bùn bám xuống tận đùi, khó nhìn thấy, nhưng các cô cũng đỏ chín mặt và cánh đàn ông liền cởi áo đưa chị em quấn! Năm 1960, công trình hoàn thành với hai mặt nước trong xanh là hồ Bảy Mẫu và hồ Ba Mẫu (phía bên kia đường Nam Bộ). Trên bán đảo Gió có quán Gió, ngoài sân quán có giàn phong lan với khá nhiều giống là điểm hẹn của các nhóm bạn phổ thông hay đại học. Thời bao cấp, Công viên Thống Nhất đúng là địa chỉ vui chơi, giải trí. Tối thứ Bẩy có ca nhạc ngoài trời, ngày quốc khánh, Tết Nguyên đán dưới hồ có lướt ván, trên bờ bắn pháo hoa, có thi hoa, chọi chim. Chủ nhật các cặp vợ chồng trẻ dẫn con đến đây dạo chơi và chụp ảnh kỷ niệm. Nhưng trong những ngày còn lại, thì buổi tối, cũng như Bách Thảo, Công viên Thống Nhất là địa điểm lý tưởng để bày tỏ và biểu diễn các trạng thái tình yêu. Gái làm tiền cũng chà trộn đi kiếm khách, vì thế để ngăn chặn tệ nạn, công an Hai Bà Trưng thường xuyên vào công viên kiểm tra. Nhưng mỗi gốc cây là một đôi trai gái làm sao biết đôi nào yêu nhau, đôi nào bán dâm, và để hoàn thành nhiệm vụ, họ thực hiện chính sách nhầm còn hơn bỏ sót. Họ tách hai người ra hai nơi, hỏi cô gái tên gì, anh kia tên gì rồi lại hỏi anh kia tên gì và cô gái tên gì, nếu khớp thì tha (không xin lỗi), còn không khớp thì lập tức bắt cô gái đưa về khu (nay là quận). Nhưng cũng có cô bị bắt oan vì vừa mới quen trên đường (thời bao cấp, các chàng trai có trò tán gái ngoài đường và gọi đó là "cưa đường", cô nào siêu siêu đồng ý vào công viên coi như đã "cưa đổ"), chưa kịp biết tên thật của nhau. Công viên Thống Nhất cũng là nơi kiếm ăn của "quân quân khu" (chuyên mặc quần áo bộ đội, tiếng lóng là quần áo "dõng", đi dép đúc, đầu đội mũ cối hay mũ dạ), phía bắc là quân khu ngõ Hoàng An, phía nam là quân khu Vân Hồ. Quân quân khu trấn lột các đôi ngồi ở góc khuất, ngoài tiền, quân quân khu còn lột dép nhựa Tiền Phong, "đúc Tàu". Cùng nạn "quân quân khu" còn có ăn cắp, chúng quan sát thấy đôi nào đang mải mê là bò đến lấy túi, thậm chí dắt cả xe đạp. Ban ngày bụi đời hay trẻ "dạt vòm" (bỏ nhà đi) ngủ đầy trên ghế đá. Để chỉ những kẻ lười lao động sống lang thang, dân Hà Nội mắng đó là loại "Cơm đường, cháo chợ, vợ công viên".
Vào sáng sớm những ngày trở trời, cá thiếu ô xy ngáp trên mặt nước còn tôm thì bò sát vào bờ nên dân đi bắt tôm đông như hội. Chồng mò dưới hồ, vợ cầm chậu thau đi theo. Không ai phải về không, chỉ có ít hay nhiều và bữa ăn hôm đó có thêm chất tanh, thứ không bao giờ có trong tiêu chuẩn. Năm 1968, một tai nạn hy hữu đã xảy ra khi ca nô chở các em thiếu nhi lượn vòng quanh đảo Hòa Bình với tốc độ cao đã bị lật. Do hồ sâu lại bị ca nô đè nên số cháu sống sót rất ít.
Ngày 19-4-1980, nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày sinh của Lênin (22-4), Thành phố quyết định đổi tên Công viên Thống Nhất thành Công viên Lênin. Nhưng rồi, năm 2003, lấy lại tên Thống Nhất vì tên Lênin đã được đặt cho vườn hoa Chi Lăng, nơi có bức tượng "ông Lê Nin ở nước Nga". Đất nước đổi mới, Hà Nội đi đầu trong việc xây dựng nhà nghỉ và không ít đôi đã tìm đến nhà nghỉ, nên công viên không còn là thiên đường của tình yêu, nó trở nên vắng tanh, hoa cỏ xác xơ, cây cối héo hon, lòng hồ hôi thối và cả công viên như một nhà toa lét công cộng. Lấy cớ công viên xuống cấp, một công ty đã trình thành phố dự án biến khu vực phía nam thành các khu nhà với các trò chơi nhưng đã gặp phải sự phản đối quyết liệt của báo chí, nhân dân và giới kiến trúc. Rồi trước kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, người ta đổ một đống tiền vào đây để cải tạo với mong muốn tạo nên "một không gian sinh hoạt văn hóa, vui chơi sạch đẹp, hấp dẫn người dân trong các dịp lễ hội và kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội". Nhưng hiện nay, đây vẫn chỉ là nơi tập thể dục của người cao tuổi, và chỗ ngủ qua đêm cho kẻ lang thang không nhà.
Đầu những năm 70 của thế kỷ trước, tuy đất nước đang còn chiến tranh, nhưng lãnh đạo Hà Nội đã quyết định xây dựng công viên và đào hồ mới, đó là công viên Thanh Nhàn (nay là công viên Tuổi Trẻ), công viên Thủ Lệ, hồ Giảng Võ. Thành phố huy động công lao động của học sinh cấp III, và nhân dân các phường, đoàn viên thanh niên các nhà máy, xí nghiệp, đặc biệt là huy động lực lượng lao động công ích. Đó là những người từ 18 tuổi trở lên chưa có việc làm, và mỗi năm phải đóng góp 13 ngày công lao động không công. Tại công trường xây dựng công viên Thanh Nhàn (sau đổi tên thành công viên Tuổi Trẻ), người ta phát hiện mấy chục cây gỗ có đường kính hai người ôm mới hết. Các nhà sử học nhận định, đây có thể là bến chung chuyển gỗ từ Nghệ An, Thanh Hóa vào Thăng Long trên sông Tô Lịch xưa.
Công viên Thủ Lệ may mắn hơn là hoàn thành vào năm 1978, còn Thanh Nhàn thì cho đến 2012 vẫn dang dở. Một thời, góc đường Thành Nhàn – Võ Thị Sáu trở thành "xóm liều" với hàng trăm căn nhà lụp sụp do các công dân bất hảo dựng lên để buôn bán và tiêm chính ma túy. Có người không nghiện vào đây buôn bán đã trở nên giàu có, mua được nhà mặt phố. Sau bao nhiêu lần họp bàn, hạ quyết tâm, chính quyền mới giải tỏa xong tụ điểm tệ nạn này. Cho đến nay, tiếng là công viên cho thanh niên nhưng Thanh Nhàn chủ yếu là nơi hoạt động của nhà hàng, siêu thị và sân thể thao. Điểm vui chơi duy nhất có lẽ là sàn nhảy nhưng là chỗ cho kẻ có tiền...!