Trong cuốn Một chiến dịch ở Bắc Kỳ (Une campagne au Tonkin - NXB Paris 1896), của Hocquad, viên bác sỹ trong quân đội Pháp, đã mô tả Hà Nội và Bắc Kỳ những năm 1882-1884, đoạn về thợ xoa bóp, Hocquad viết "Bổ trợ cho anh chàng cắt tóc, lấy dáy tai là anh chàng xoa bóp. Hai anh chàng này sống cạnh nhau như đồng sự và khách hàng sẽ đi từ chỗ người này sang chỗ người kia sau khi cạo mặt và lấy dáy tai thì đến bước đấm bóp, đó chính là chu trình của việc vệ sinh của người An Nam. Người thợ đấm bóp bắt đầu từ khuôn mặt, người ta dùng các ngón tay xoa nhẹ trên các vùng mặt, đi nhẹ nhàng qua vùng mũi, sau đó day lớp da dưới lông mi nhiều lần, ấn nhẹ ngón tay dưới dái tai cho máu lưu thông. Rồi anh ta chuyển sang tay của khách vặn từng khớp cho kêu răng rắc, xoa bóp cánh tay, thân người và chi dưới anh ta xoa bóp mạnh hơn. Cuối cùng anh ta kết thúc bằng cái vỗ vào má của khách hàng khiến anh đang mơ màng phải tỉnh giấc với giá không thể tưởng được có 6 đồng tiền kẽm. Hỡi thợ cắt tóc ở Pháp, các ông nghĩ gì về những người thợ An Nam?". Những mô tả của Hocquad là nghề xoa bóp, vốn là bài trị liệu lâu đời ở phương Đông, tuy cách làm có vẻ giống tẩm quất nhưng lại không phải tẩm quất. Nhưng tại sao họ lại hành nghề cạnh nhau? Thật khó có thể giải thích cho thỏa đáng, nhưng có một thực tế là thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX ở Hà Nội, bên cạnh thợ cắt tóc đã không còn thợ xoa bóp.
Nhà thương Hàng Bột do một bà xơ tên là Antoine Vacheron, từng làm y tá trong đội quân viễn chinh, xây dựng vào năm 1907. Trước đó Antoine là người có công mở phòng phát thuốc Phủ Doãn thời kỳ 1894-1902. Nhà thương Hàng Bột thu nhận trẻ bị dị tật nhưng gia đình không có điều kiện chạy chữa, thuốc men, hoặc con hoang bị bỏ rơi. Năm 1922, nhà thương nhận nuôi thêm một số vợ Tây già và những người mù lòa không nơi nương tựa. Người mù lòa được bố trí sống ở 2 dãy nhà tranh, một dành cho nam, một cho nữ. Năm 1926 từ món tiền cúng của cô Tư Hồng, người ta cho xây một nhà thờ cao và đẹp ngay trong Nhà thương làm phúc. Năm 1930, nhà thờ cắm thêm đất ở phía sau, xây nhà mở lớp dạy nghề cho đám trẻ, làm vườn trồng rau và trồng cây ăn quả. Khi số người sống bằng tâm phúc nhiều lên thì chính quyền thành phố hỗ trợ mỗi trẻ 3 đồng. Số tiền đó cộng với sự giúp đỡ của những người hảo tâm song vẫn chưa đủ nuôi ăn cho số người cậy nhờ nơi này ngày càng đông. Và để thêm kinh phí, tùy theo sức khỏe, nhà thờ tìm việc để họ làm. Đàn bà tàn tật được dạy đan áo, móc, khâu vá, giặt giũ quần áo cho học sinh trường dòng. Con trai lớn lên được học nghề làm mộc, nghề da hay trồng trọt tại khu vườn phía sau nhà thờ. Duy có những người bị mù lòa không phải làm thêm và họ chỉ giúp việc vặt cho các xơ. Ăn rồi lại quẩn quanh trong khu vực nhà thờ. Không ít người khi trái nắng, trở trời thân mình ê ẩm nhưng không rõ là bệnh gì nên các xơ cũng không biết cho thuốc thế nào. Trong số mù lòa có một người đàn ông Hoa kiều quê Quảng Đông, biết vài ngón bấm huyệt và xoa bóp. Khi có người kêu nhức xương, đau lưng, mỏi cơ là "chú khách" bắt nằm úp bụng xuống giường thực hành. Người được bấm huyệt, xoa bóp xong thấy cơ thể thoải mái lại dễ ngủ nên ai cũng nhờ khiến "chú khách" mệt nhoài. Và để đỡ mệt, "chú khách" dạy cho mọi người. Thế là, tối tối, người này xoa bóp cho người kia. Từ những động tác ban đầu do "chú khách" truyền lại dần dần mọi người "sáng tạo" thêm và thế là thành "bài", đầu tiên là đấm lưng, tiếp đó là đùi và hai bắp chân rồi bóp hai tay rồi đầu. Làm cho kêu các đốt sống và khớp tay, khớp chân.
Khá nhiều người hài lòng chấp nhận cuộc sống dựa vào lòng tốt của nhà thờ, nhưng cũng không ít số người khiếm thính áy náy khi biết miếng ăn hàng ngày cho họ có cả công sức của con trẻ được nuôi dưỡng trong nhà thờ. Lại có người còn nghiện thuốc lào và nước chè, những người này thi thoảng lại trốn ra phố xin khách qua đường. Biết vậy nhưng "lực bất tòng tâm". Một hôm, Kiệt - một thanh niên khiếm thị, bị du côn đấm mù hai mắt phải nương nhờ nhà thờ kể rằng khi mắt còn sáng, vẫn chứng kiến những con bạc thức nhiều đêm phờ phạc thuê đám rỗi việc đấm lưng, bóp tay. Người đầu tiên hưởng ứng việc đi kiếm tiền bằng đấm bóp cho đám cờ bạc là Quang (sau này ông Quang lấy vợ, và sống ở phía sau nhà thờ, ông mất đâu như năm 2005). Chờ các xơ ngủ, Quang trèo tường trốn ra ngoài lần mò xuống ngã tư Sở gạ gẫm đấm lưng cho đám đánh bạc. Đầu những năm 1930, nơi đây còn là bãi rác, nhiều người vô gia cư dựng lều quán sinh sống và mở các chiếu bạc còi. Nơi đây cũng là chỗ tụ tập của dân anh chị mỗi khi cảnh sát vây bắt trên phố. Thấy đấm lưng cũng đỡ mỏi, họ trả cho Quang vài xu. Sau "thắng lợi" đầu tiên của Quang, vài người đi theo mong kiếm được tiền thuốc nước. Và thế là tối tối, nhiều người trốn đi, họ chia nhau ra các khu vực. Có kẻ xuống ấp Thái Hà đấm cho khách hát cô đầu, lại có kẻ ra Cống Trắng (phố Khâm Thiên) đấm cho đám khách làng chơi. Tiền công nhận được tùy theo người tẩm quất hào phóng hay keo kiệt. Ông Quang kể, có lần một khách hát sỹ diện với cô đầu cho ông hẳn 2 hào, ngày đó 2 hào có thể ăn xôi trong 20 bữa sáng.
Năm 1932, khi các nhà hát cô đầu ở ấp Thái Hà bị tên Trần Tiến, một cường hào ở đây phá đã chuyển về Khâm Thiên mở nhà hát mới. Một suất hát là 20 đồng (lương công chức là 40 đồng/tháng) nên các nhà hát giữ chân khách bằng cách cho các đào hát và đào rượu mặc yếm hơ hớ và ca ngợi món tẩm quất như liều thuốc tiên. Thế là những người đấm bóp khiếm thị có đất để sống. Thấy tự kiếm sống được nên nhiều người xin các xơ ra khỏi nhà thờ. Mấy người chung nhau thuê một nhà. Ban ngày quanh quẩn trong xóm vốn toàn người nghèo tạm cư, buổi tối dò dẫm ra phố cô đầu Khâm Thiên, người thì ra ga Hàng Cỏ. Có anh mồi chài được em bán quà rong đã thuê nhà ở riêng và sinh con đẻ cái
Về chuyện dân tẩm quất xủng xoảng xâu xèng và mặc đồ trắng, ông Quang kể, tuy khiếm thị nhưng ông nhanh nhẹn và khỏe khoắn biết cách đấm lúc mạnh lúc nhẹ, nên bác sỹ Liêm nhà ở phố Quán Sứ thường xuyên gọi vào nhà đấm lưng cho cụ thân sinh. Thấy Quang bận đồ nâu lúc nào cũng nặng mùi, nên ông Liêm tự áng chiều cao rồi đặt may cho hai bộ áo dài trắng, may thêm cho chiếc mũ (giống như mũ, áo của ngành y). Cho thêm mấy bánh xà phòng, ông Liêm dặn đi dặn lại "có mùi hôi là giặt để người ta tẩm quất mà phải bịt mũi". Mỗi lần Quang đến nhà phải gọi cửa, sẵn các nắp bia chai Hommel, ông nhờ phu xe đập phẳng và đục lỗ rồi xâu vào sợi dây thép nhỏ dặn khi đến cửa chỉ cần lắc lắc xâu xèng, người ở sẽ ra mở. Lúc đầu Quang cảm thấy không tự nhiên nhưng sau cũng quen vả lại thấy sạch sẽ nên khách Tây cũng hay gọi thế là trở thành "quất phục". Anh em thấy thế cũng bắt chước. Những năm Hà Nội bị tạm chiếm, người Tây rất thích tẩm quất nhưng họ không gọi người sáng mắt vì sợ họ là Việt Minh nên chỉ gọi đám khiếm thị.
Năm 1965, Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc trong đó có Hà Nội. Không chỉ cầu đường, bến phà, trận địa phòng không, tên lửa mà nhà ga, khu dân cư cũng trở thành mục tiêu của máy bay Mỹ, nên người không có nhiệm vụ, trẻ em phải rời thành phố sơ tán về các vùng quê. Song dân tẩm quất vẫn bám trụ, dù chiến tranh nhưng người nghiện món này vẫn còn. Sơ tán, người quê đâu có tẩm quất, mỏi người gắng chịu lại không tem phiếu, không sổ gạo lấy gì bỏ miệng? Đi rong mỏi chân cũng không có khách gọi vào nhà, nên các bác tản ra, người về trải chiếu ở phố Phan Bội Châu tẩm cho khách chờ tầu ngược hay tầu xuôi, người dạt xuống bến xe Kim Liên, (nay là khách sạn Nikko), người thì lên Bến Nứa (trước cửa chợ Long Biên bây giờ) hành nghề. Thế là ra đời tẩm quất vỉa hè. Hồi ấy ai mặc áo trắng ra đường bị cho là làm mục tiêu cho máy bay Mỹ, lại không có xà phòng giặt nên áo mũ trắng mầu cháo lòng. Thế là bỏ luôn. Rồi ngồi một chỗ thì cần gì xâu xèng, họ cũng quẳng luôn. Ở bến xe Kim liên có ông Vạn mù đấm đến mức huyền ảo nên lúc nào cũng có khách xếp hàng chờ đến lượt. Ông Quang nổi tiếng bởi đấm như hạc bay, ai cảm nhận được dù phải chờ lâu cũng chấp nhận. Lứa ông Quang còn có ông Bồng, tay lướt trên lưng như chơi piano làm khách tưởng ông học nhạc ở Paris. Những năm 1940, tẩm quất xuất hiện tại ga Hải Phòng, gần cảng đấm cho phu. Tuy nhiên "dân tẩm" Hà thành được đánh giá cao về nghề và tẩm quất trở thành "đặc sản" đường phố của Hà Nội. Trong suốt thời gian dài, người lành lặn không ai làm nghề này một phần bởi họ có lòng tự trọng, phần khác họ cũng không muốn bị coi là dân "đầu đường xó chợ"...
Năm 2001, dù đã 86 tuổi nhưng thi thoảng ông Minh "chó" vẫn mò ra khách sạn Daewoo chơi với anh em, lúc cao hứng vẫn ra tay kiếm vài chục. Tuổi cao nhưng ông đấm hết bài vẫn không thở dốc. Sở dĩ làng quất gọi là Minh "chó" vì ông có mấy chục năm đi buôn chó thịt từ Phủ Lý lên Hà Nội. Bán hết hai lồng, ông trải manh chiếu ngay trong ga Trần Quý Cáp tranh thủ lúc chờ tầu đấm cho vài khách kiếm thêm tí chút. Ông Minh không học ai mà do vất vả nên cứ thấy oải là ông tẩm quất, đấm nhiều nên thuộc bài và thế là hành nghề. Tuy tay trái nhưng ông có ngón độc là bấm huyệt hồi xuân. Người được bấm cảm thấy mình đang chết và khi lực ở ngón tay trỏ giảm dần họ có cảm giác đang sống lại. Ông Minh kể, ngón này ông học lén trong lần đưa con sang nhà cụ lang Hanh ở Hưng Yên chữa tay sai khớp. Hành nghề được ở ga vốn đầy rẫy "anh chị" cũng không là chuyện dễ dàng, không dưới ba lần ông đã lôi chó trong lồng ra làm vũ khí và hàm răng con chó nhe cùng tiếng gừ gừ làm cho đối phương khiếp sợ. Rồi một bữa rượu từng bừng kết nghĩa huynh đệ diễn ra tại phố Ngô Sỹ Liên, ông uống say đến mức trộm bê cả hai lồng chó mà ông không hay biết.
"Bãi"ga Trần Quý Cáp tồn tại đến năm 1985 thì bị công an giải tán. Đội quân tẩm quất cả già cả trẻ ôm chiếu, xách điếu cày lếch thếch về Bách hóa số 5 đường Nam Bộ và trước nhà vệ sinh công cộng Cửa Nam. Khoảng 9 giờ tối, các bà các cô dọn hàng quán cũng là lúc đám quất đến sớm trải chiếu, hút thuốc lào vặt, nói chuyện lăng nhăng chờ khách. Gần 11 giờ thì "bãi" đông hẳn. Một ngày hè năm 1992, tôi ra đây tẩm quất. Người đấm cho tôi tóc muối tiêu, thân thể to chắc nhưng ăn nói nhẹ nhàng dễ chịu. Tôi giao lưu với ông vài ba câu và trong một buổi tối nóng nực, ông hé lộ tên là Vượng từng là thiếu tá bộ đội. Về hưu, kinh tế gia đình quá khó khăn, đồng lương không đủ chi trả những sinh hoạt thiết yếu nhưng chẳng biết làm gì. Đời binh nghiệp chỉ biết cầm súng. Loay hoay định ra đường chữa xe đạp nhưng cột điện nào cũng có người ngồi ông lại thôi. Một hôm đi qua Cửa Nam thấy người cởi trần nằm la liệt trên vỉa hè, tiếng vỗ lúc giòn lúc phèn phẹt vang góc phố, tò mò ông vào xem, té ra là người ta đang tẩm quất. Chợt nhớ hồi huấn luyện đặc công, các sĩ quan quân y dạy những bài phục hồi sức khỏe sau mỗi trận đánh bằng cách xoa bóp, bấm huyệt. Thế là ông quyết định sắm chiếu ra Cửa Nam hành nghề. Không có ai ở "bãi " này bảo lãnh nhưng trông ông như hộ pháp nên cũng chẳng ai hầm hè vả lại đã ra đầu đường kiếm ăn là cực chẳng đã nên dân quất cũng mặc. Ngày đầu ngồi một mình một góc. Rồi dần dần cũng hòa nhập được với anh em và có khách quen. Năm 1993, ông đấm cho một khách, trong câu chuyện không đầu không cuối, người kể từng là lính đặc công, hỏi thêm vài câu, ông té ngửa vì anh này từng là liên lạc lúc ông là đại đội trưởng. Lúc nhận tiền ông phải nghiêng mặt đi sợ anh kia nhận ra.
Khoảng năm 2000, cơ sở tẩm quất ngõ Văn Chương có hơn chục người đều khiếm thị. Chủ cơ sở là một phụ nữ mù lòa. Trước kia, chị là một phụ nữ xinh đẹp, làm ăn tài giỏi. Đầu những năm 1990, chị buôn bán bên Nga sau đó sang Ba Lan. Tin người chị cho một bạn buôn vay 60.000 USD, nhưng khi đòi nhân người nợ một lần về nước, chị bị tạt axít hỏng cả hai con mắt. Uất ức đi kiện nhưng cũng chẳng đến đâu vì tiền cho vay không giấy tờ, không chứng minh kẻ quịt tiền cũng chính là kẻ tạt axít. Để sống, chị mở cơ sở tẩm quất và thu nạp người cùng cảnh ngộ. Một đàn ông trung niên chưa vợ hay đến tẩm quất biết chuyện rồi thán phục đã đem lòng yêu mến và họ nên duyên.
Một mảnh đời khác xem ra cũng thăng trầm, ông nguyên là giáo viên dạy văn ở một trường trung học phổ thông sát thị xã Hà Đông (nay là quận Hà Đông). Trước năm 1990, có bốn nghề nghèo như nhau "nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà nghèo". Nghèo nhưng ông yêu nghề, liên tục nhiều năm là giáo viên dạy giỏi, được học trò quý mến và một nữ sinh đã thầm yêu ông, hai người yêu nhau và quyết định kết hôn. Ông báo cáo tổ chức, người ta bảo vì ông lấy vợ kém gần 30 tuổi nên nếu quyết lấy thì phải ra khỏi ngành. Thời bao cấp, giáo viên được coi là tấm gương đạo đức cho học sinh nên ông làm đơn xin nghỉ việc. Từ một giáo viên dạy giỏi, thuộc lòng các bài thơ hay những áng văn đẹp, ông trở thành một anh tẩm quất. Hàng ngày, 5 giờ chiều ông lóc cóc đạp xe từ quê ra phố Bạch Mai hành nghề cho đến sáng hôm sau lại đạp vội về. Dù mệt nhưng ông không quên rẽ vào chợ mua thức ăn. Ông giải thích việc thành anh tẩm quất: "Chú em tôi làm nghề này, trong lúc chưa biết làm gì nuôi vợ nên tôi đi theo. Làm lâu thấy cũng được, vả lại vợ tôi cũng đồng tình".
Loại trừ mát xa kiểu Thái Lan (nhân viên xoa bóp chủ yếu bằng cơ thể) còn mát xa kiểu Việt Nam theo cách nào cũng gọi là tẩm quất. Họ gọi mát xa cho gợi cảm. Ông Hùng, chủ một cơ sở tẩm quất ở phố Bạch Mai bảo: "Tẩm quất nghĩa là tìm đánh mà đánh thì phải mệt. Ai khỏe một ngày đấm được 6,7 khách người bã bệt vì ngoài mất lực còn bị mất khí". Theo thống kê đến cuối năm 2010, Hà Nội có gần 100 cơ sở mát xa và tẩm quất. Thống kê không có con số cụ thể về người nhưng ước đoán đến hàng nghìn. Và từ một phương pháp chữa bệnh theo kiểu lý liệu pháp, tẩm quất bị biến tướng thành mát xa và không ít cơ sở mở ra với mục đích khác.
Nếu trước kia tẩm quất chẳng ai tính thời gian,đấm hết bài thì thôi nhưng bây giờ họ tính theo giờ, mỗi giờ 80.000 đồng, cạo gió 30.000 đồng, giác hơi 30.000 đồng. Làm tự do, không vào cơ sở nào thu nhập cao hơn song đôi khi cũng rách việc vì có thể bị dân nghiện hút hay côn đồ trấn lột. Làm cho chủ phải ăn chia nhưng đều khách, không lo mùa đông, tháng giá, tối có chỗ ngủ và tắm giặt hàng ngày không mất tiền nước. Khách thời nay cũng lắm loại. Thành hành nghề ở phố Quán Thánh kể, có lần anh nhận được điện thoại gọi vào máy di động yêu cầu đến nhà. Đạp xe mướt mồ hôi tìm được địa chỉ, vào nhà mới biết khách là dân đồng tính. Họ không tẩm quất mà trả tiền cao gấp 4 gấp 5 lần để thỏa mãn thú khác, thế là lại mất công về. Long bạn Thành cũng làm ở Quán Thánh gặp một "ca" khó, khi anh mở cửa, một bà xồn xồn "mắt xanh, mỏ đỏ" cười đầy hàm ý. Rất nhiều phụ nữ thường xuyên tẩm quất song ca này thì Long bảo "Bó tay vì thời buổi bệnh tật toàn thứ nan y mà giá thuốc tăng hàng này nên em sợ lắm…". Long cũng phàn nàn rất sợ quất cho Tây, tấm thân to đùng đấm mỏi tay vẫn chưa hết cái lưng, lại còn mùi gây gây vì họ ăn nhiều bơ sữa đến khó chịu, đôi khi muốn buồn nôn nhưng phải cố.
Bây giờ không còn cảnh tẩm quất nhếch nhác, bụi bẩn và mất an ninh trên hè phố như một thời. Vài ba người chung nhau thuê nhà để mở cơ sở. Gường có gối, có ga trắng đàng hoàng nhưng không được thơm tho cho lắm. Gối vào gội mấy lần mới hết mùi. Tẩm quất giờ cũng không còn là nghề của người khiếm thị. Kẻ nghiện ngập cũng làm lấy tiền hút hay chích choác. Ai biết được họ có nhiễm HIV hay không? Nhiều người to khỏe, sáng mắt cũng lao vào cạnh tranh khi họ có thể kiếm được công việc khác. Trong khi lòng nhân ái đang khan hiếm lại không có quy định nào của cơ quan quản lý nên họ giành giật miếng ăn với người mù lòa cũng là phải...