Trong dân gian có truyền thuyết về người khiếm thính đi hát, không biết có phải là xẩm không. Chuyện rằng thế kỷ XIII, Hoàng tử Trần Quốc Đĩnh bị người em trai đâm mù mắt giữa rừng xanh đoạt ngọc quý để chiếm ngôi vua. Trong cơn mê sảng, Đĩnh mơ thấy mình được ca hát với một bầy tiên nữ trong tiếng nhạc tưng bừng… Tỉnh dậy, mới biết là mình được những người dân quê thôn dã hết lòng chăm sóc. Qua cơn hoạn nạn, nhớ lại giấc mơ và tỏ lòng báo đáp dân làng, Đĩnh đã lần mò tự tay chế tác cây đàn bằng một ống tre dài, có cần mềm để nắn tiếng chỉnh âm, lại có dây xe bằng vỏ cây và có que để bật, gõ thành tiếng nhạc. Đĩnh còn soạn ra những bài thơ để hát, kể lể tâm tình của mình, của đời, mang niềm vui đến với mọi người, mọi nhà, tay đàn miệng hát khắp mọi nơi, từ bến sống, bãi chợ, sân đình…. Tiếng tăm của chàng ca sĩ mù vang đến tận kinh thành, Thái thượng Hoàng cho vời vào cung, mới hay đó chính là Hoàng tử mất tích năm nào… Từ đấy, Đĩnh ra sức dạy dỗ cho mọi người đàn hát, nhất là những người khiếm thị, vừa để vui đời, vừa là nghiệp mưu sinh…
Ở cuốn Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính viết "Hát xẩm gồm tập hợp những người mù mắt từ 5 hoặc 6 người học nghề đàn hát, cả đàn ông, đàn bà dắt nhau đến các nơi thành thị, kiếm chỗ đông người, trải chiếu ngay các nơi vệ đường mà hát. Trong hát xẩm, người thì đánh trống, gõ phách, người thì kéo nhị, người gẩy đàn bầu, rồi đồng thanh mà hát, hoặc đi giọng Nam, hoặc đi giọng Bắc, đi theo tiếng nhị, tiếng đàn, nghe cũng vui tai. Đàn bà, trẻ con người lớn xúm xít vào xem, có người thưởng dăm ba đồng kẽm, có người thưởng vài xu". Cuốn Lịch sử Âm nhạc dân gian cổ truyền Việt Nam do Viện Nghiên cứu âm nhạc xuất bản năm 1996, tác giả Nguyễn Viêm nhận định "Hát xẩm là một nghề sinh nhai của người mù, nghề ấy chính là một kế cứu kẻ tàn tật. Ban đầu hát xẩm còn sơ lược, chỉ vận làn xẩm vào trong vài câu ca dao đơn giản. Nhưng dần dần do yêu cầu của người nghe, hát xẩm đã tiến tới trọn một đoạn dài với nội dung hấp dẫn đến vài chục câu, có khi hát cả một câu chuyện kéo dài đến hết cả một buổi". Để an ủi và động viên những người hát xẩm, dân gian có câu:
Tham giầu lấy chú biện tuần
Tuy rằng bóng bẩy nợ nần chan chan
Thà rằng lấy chú xẩm xoan
Công nợ không có hát tràn cung mây
Nhưng tại sao lại là hát xẩm? Xẩm đồng nghĩa với từ "sờ" được nói chệch đi để chỉ động tác "sờ soạng" của những người không may mắn bị mù lòa, khiếm thị. "Xẩm tối", từ chỉ thời gian vào cuối buổi chiều, ánh nắng tắt dần, trời sắp tối, vì thế người sáng mắt nếu chậm chạp thường bị mắng "Dờ dẫm như xẩm sờ...".Có lẽ vì thế mà gọi là hát xẩm chăng?
Phần lớn xẩm được "phổ" từ các bài thơ đơn giản nhưng súc tích và giàu tính tự sự. Thực ra những bài hát xẩm không phải chỉ là hát về tâm trạng của người mù, sáng tạo nghệ thuật của họ là nói về nhân tình thế thái. Nhưng họ là những người tạo nên nét đặc trưng cho nghệ thuật hát xẩm.Nhà nghiên cứu Trần Việt Ngữ có nhiều năm nghiên cứu xẩm cho rằng, không cần ăn xin, nhưng phải là người mù mới có thể hát hay. Chính người mù mới tạo nên những âm điệu riêng, đặc sắc vì họ cảm nhận cuộc sống qua đôi tai. Khi hát đúng tâm trạng người dân, họ càng được yêu mến, ngưỡng mộ. Từ yêu cầu của khách thưởng thức đòi hỏi người theo nghề phải thể hiện nội dung ngày một mở rộng, câu hát dài hơn, tích chuyện sâu hơn, nhân vật nhiều hơn... nên dù trong tình cảnh mù lòa, ngồi một chỗ vừa hát, đàn vừa làm điệu bộ, nó cũng gia tăng làn điệu với sắc thái liên quan nhiều đến kết cấu làn điệu của hát chèo. Ông Trần Việt Ngữ nhận định, cũng có thể xẩm ra đời trước chèo, là một trong nhiều nguồn góp phần cấu thành hát chèo. Hoặc xẩm chỉ là bản sao vụng về của hát chèo trong điều kiện và hoàn cảnh hạn chế của những người tật nguyền. Có thể giữa xẩm và chèo có mỗi liên quan ruột rà bởi chính nghệ nhân xẩm xếp hát xẩm và chèo cùng loại trung ca, trong khi tuồng vào loại võ ca, ca trù vào loại văn ca.
Xẩm có rất nhiều bài, nhưng có 7 bài đặc trưng là Xẩm chợ, Chênh bong, Riềm huê, Ba bậc nhịp bằng, Phồn huê, Hát với ai và Xẩm thập ân với những làn điệu: Xẩm chợ, Xẩm thập ân, Xẩm Tầu điện….. Những bài Riềm huê, Ba bậc, Phồn huê… ban đầu chỉ có ở xẩm Hà Nội, sau đó đã "loang" ra để có những điệu xẩm Ninh Bình, Nam Định, Hưng Yên… Người ta thường nói có Xẩm Tàu điện, Xẩm Bến đò, Xẩm chợ Đồng Xuân…, nhưng đó không phải là những tiêu chí phân loại. Song tại sao lại là xẩm Tầu điện? Tầu điện tuyến bờ Hồ-Thụy Khuê chạy thử chuyến đầu tiên vào 13-9-1900.Năm 1901 khai trương tuyến Bờ Hồ-Ấp Thái Hà. Năm 1906 khai trương tuyến Bờ Hồ- Mơ. Sau đó năm 1915 người ta làm thêm đường vào bến xe Hà Đông. Năm 1929 khai trương tuyến Bờ Hồ-Đại Cồ Việt và vào năm 1943 thì kéo dài tới trước cổng chính Bệnh viện Bạch Mai. Ở tuyến Bờ Hồ-Mơ ban đầu là đường ray đi qua phố Cầu Gỗ, khi chỉnh trang khu vực này chính quyền thành phố cho chuyển ra sát mép hồ. Từ bến chính Bờ Hồ tầu điện tỏa đi 6 hướng (Hà Đông, Cầu Giấy,Mơ,Vọng,Bưởi và Yên Phụ) và rồi lại quay trở về Bờ Hồ. Tầu điện là phương tiện giao thông công cộng được tầng lớp thị dân ưa chuộng vì giá vé rẻ và rất tiện dụng. Dù chỉ tối đa có 3 toa, nhưng liên tục chuyến đi chuyến về nên luôn luôn có khách mới mà khách lại hầu hết là dân thành thị nên hay có dăm ba xu lẻ trong túi. Đó chính là cơ hội tốt để các nhóm hát xẩm kiếm ăn. Họ hát cho khách nghe trước khi tầu chuyển bánh, khi tầu đó chạy họ lại chuyển sang chuyến khác, cứ thế cho đến khi nhà tầu nghỉ. Nhưng có khi đang hát thì tầu chạy nên cả nhóm không kịp xuống thế là đành theo tầu đến bến gần nhất để xuống. Song tại sao các nhóm hát xẩm không chọn ga Hàng Cỏ cũng là bến tầu và còn đông đúc người đưa, kẻ đón hơn bến tầu điện? Ga Hàng Cỏ tuy đông nhưng lại không có chuyến đi chuyến về liên tục như tầu điện, hơn nữa khách xuống ga là họ về nhà hay đến ngay đến nơi cần đến. Còn khách chờ tầu thì cũng chỉ có từng đấy, vả lại mua vé xong sợ mất cắp nên họ giấu tiền vào trong người, khó mà móc ra. Do thường xuyên hát ở bến tầu điện nên người ta gọi là xẩm tầu điện. Những bài họ hát chủ yếu ca ngợi Hà Nội, ít hát các bài về thân phận, nỗi khổ như ở chợ quê. Bài Vui nhất Hà Thành chỉ thấy khen:
Bắc Kỳ vui nhất Hà Thành
Phố phường sầm uất văn minh rợp trời
Thanh tao lịch sự đủ mùi
Cao lâu rạp hát vui chơi đủ đầy
Đâu đâu khắp hết đông tây
Thăng Long thắng địa xưa nay tiếng đồn
Cũ thời băm sau phố phường
Ngày nay mở rộng đến hàng vài trăm
Người đi xe chạy ầm ầm
Đua chen thương mại bội phần hơn xưa
Nhất vui là cảnh Bờ Hồ
Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Bồ, Hàng Ngang
Mã Mây, Phố Mới, Hàng Vàng
Đồng Xuân, Hàng Giấy, Hàng Buồm vui thay
Bán Buôn tấp nập đêm ngày
Ô tô đi lại như bay ngoài đường
Đua chen trong chốn thị trường
Hiệu buôn khách bán cửa hàng người Nam
Bày ra đủ các thức hàng
Hàng Tây hàng Nhật với hàng Trung Hoa
Lại hàng nội hóa đủ là
Ngày rày xuất cảng, kể đà hơn xưa
Ấy là kể những phố to
Còn như Hàng Quạt, Hàng Lờ, Hàng Da
Cửa Nam, Hàng Lọng, phố Ga
Hà Trung, ngõ Trạm, Hàng Gà, Cửa Đông
Hàng Cân,Hàng Cót, Hàng Đồng
Hàng Men, Hàng Bát, Hàng Bông, Hàng Bài
Hàng Cau, Hàng Bột, Hàng Khoai
Hàng Nâu, Hàng Trứng, Hàng Gai, Hàng Mành
Hàng Tre, Lò Sũ, Hàng Hành
Phúc Châu, Cầu Gỗ, Bắc Ninh, Hàng Hòm
Mới đà kể hết phố con
Của người bản xứ bán buôn nơi rày
Còn như đường lớn phố Tây
Tràng Tiền, Đồng Khánh, Hàng Khay, Nhà Thờ
Nhất vui là hiệu Gô -đa
Ra vào nhộn nhịp ai mà chẳng hay
Tràng Tiền có rạp hát Tây
Bên kia Đồn Thủy, bên này Nhà Đoan
Vườn hoa Con Cóc trông sang
Là Dinh Thống sứ Xẩm càng tránh xa
Tượng Tây đứng giữa vườn hoa
Bên này Đốc Lý trông ra bờ hồ
Kể cả phố xá bây giờ
Phồn hoa đệ nhất kinh đô Bắc Kỳ
Văn minh đèn điện sáng loè
Thông thương kỹ nghệ mọi nghề chấn hưng
Chỉ cánh áo ngắn khốn cùng
Làm lụng suốt tháng vẫn không đủ dùng
Bữa cơm bữa cháo nhạt nhùng
Thời đành nheo nhóc bọc đùm lấy nhau
Còn tại sao gọi là xẩm chợ Đồng Xuân? Chợ Đồng Xuân là tiếp nối hai chợ nổi tiếng Thăng Long gồm Bạch Mã và Cầu Đông. Chợ Bạch Mã có từ thời Lý (khoảng 1035). Lúc đầu gọi là chợ Cửa Đông, đến đời nhà Trần đổi thành Bạch Mã vì ở gần đền Bạch Mã (nay là 76 phố Hàng Buồm). Còn chợ Cầu Đông ở cạnh chùa Cầu Đông (nay là 38 B phố Hàng Đường). Chợ Đồng Xuân do người Pháp xây dựng năm 1889, khánh thành vào năm 1890 nhưng nguyên liệu chủ yếu vẫn là tre, nứa, lá. Sau đó được xây kiên cố vào đầu thế kỷ XX. Chợ Đồng Xuân ra đời trước khi có tầu điện và là chợ bán buôn lớn nhất Bắc Kỳ, hàng ngày lượng người đổ về Đồng Xuân rất đông nên các nhóm xẩm chia nhau ngồi hát trước bốn cửa. Trong những người hát xẩm, không có những qui ước về lãnh địa nhưng nhóm này ngồi chỗ này thì nhóm kia tự biết đi chỗ khác. Giữa họ không bao giờ có ẩu đả tranh giành chỗ, vì họ rất hiểu câu nói "Đồng cảnh tương lân". Khi Hà Nội có tầu điện, trước cửa chính là bến đỗ và tránh tầu nên lúc nào cũng nghẹt người. Nhưng như thế cũng chỉ nói lên ở chợ Đồng Xuân có hát xẩm còn xẩm chợ Đồng Xuân với tư cách là làn điệu có lẽ do bài này:
Hà Nội như động tiên sa
Sáu giờ tắt hết đèn xa đèn gần
Vui nhất có Chợ Đồng Xuân
Mùa nào thức ấy xa gần xem mua….
Cổng giữa có chị bán dừa
Hàng cau,hàng quít hàng dưa hàng hồng
Ai ơi đứng lại mà trông
Hàng vóc nhiễu thong dong rườm rà
Ngoài chợ có chị hàng hoa
Có người đổi bạc đi ra đi vào
Nào hàng bún nấu bán rao
Nào hàng kẹo đạn,phở xào ngô bung
Lại thêm bánh rán kẹo vừng
Rau dưa đủ cả bún thang chả giò
Ồn ào chuyện nhỏ chuyện to
Líu lo chú khách bánh bò bán rao
Xăm xăm ta bước chân vào
Hàng tôm hàng cá xôn xao nhiều bề
Giữa chợ có chị bán lê
Quang quác hàng vịt, say mê hàng gà
Nứt nở là chị hàng na
Chua chát hàng khế, ngọt ra hàng đường
Thơm tho là chị hàng hương
Tanh ngắt hàng cá phô trương hàng vàng
Lôi thôi như chị hàng giang
Vừa đan vừa bán cả sàng lẫn nia
Trề môi như chị hàng thìa
Hàng bát hàng đĩa phân chia đàng hoàng
Lồng cồng như chị hàng đan
Thượng vàng hạ cám đủ cùng thiếu chi
Cải hoa, cải bắp, cải thìa
Thơm mùi húng Láng thức gì cũng bán mua
Hay cắp như chị hàng cua
Nhẩy nhót hàng ếch ai mua được rày
Có người bán dép bán giầy
Có người cạo mặt, ngoáy tai đông đầy
Có người xem tướng xem tay
Chầu văn đồng bóng ốp ngay tức thời
Thôi thì đủ thứ đủ người
Ồn ào nhộn nhịp, nói cười chen vai
Có anh bán thuốc cũng hay
Mồm rao liến láu, bệnh khỏi ngay tức thì
Lại những kẻ cắp như rươi
Hở cơ chốc lát tiền ôi mất rồi
Dậm chân xuống đất kêu trời
Cu-lít (cảnh sát) có đến cũng thôi đi đời
Tối đến đuổi chợ mình ơi
Vừa năm giờ rưỡi hết người bán mua
Giữa thế kỷ 20, hát và nhạc của xẩm dường như đạt đến đỉnh cao với các tên tuổi tài ba như: Nguyễn Văn Nguyên (tức Trùm Nguyên), Vũ Đức Sắc (Hà Nội), Thân Đức Chinh (Bắc Giang), Nguyễn Phong Sắc (Hải Dương), cụ Trùm Khoản (Sơn Tây), cụ Chánh Trương Mậu (Ninh Bình), Đào Thị Mận (Hưng Yên), Trần Thị Nhớn (Nam Định), Trần Thị Thìn, Nguyễn Văn Khôi (Hà Đông)... và nhiều nghệ nhân khuyết danh khác.
Thập niên 30 ở bãi An Dương ( nay là phường An Dương) có xóm xẩm. Sở dĩ gọi xóm xẩm vì ở bãi sông Hồng này có chừng 10 nóc nhà của những người hát xẩm. Gọi là nhà nhưng thực ra chỉ là cái lều, bên trong có chõng và vài ba cái niêu đất. Ban ngày, vợ chồng con cái kéo nhau đi hát, chập tối rục rịch về nấu nướng và ngủ ở đây. Xóm tồn tại đến năm 1954. Sau Cách mạng Tháng Tám, xẩm được chính quyền sử dụng làm công cụ tuyên truyền phong trào bình dân học vụ ở các huyện ngoại thành và chính thời điểm này các nghệ nhân đã sáng tác bài Tiễu trừ giặc dốt. Năm 1954, Hiệp định Genève được ký kết, một chiến dịch dụ dỗ người dân miền Bắc, nhất là bà con công giáo di cư vào Nam. Vận động bà con ở lại,chính quyền mới đã mời các nhóm xẩm đến hát ở các vùng duyên hải. Vài ba chục người hát ở Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định, Bắc Giang, Hà Nội… đã tham gia cuộc vận động này. Nhà thơ Thanh Tịnh được giao phụ trách một nhóm xẩm gồm 23 anh chị em khiếm thị Hà Nội về hát tại vùng Bùi Chu, Phát Diệm ròng giã cả tháng trời. Trong số đó có các nghệ nhân vừa hát vừa chơi được nhị, đàn bầu và đàn nguyệt là Vũ Đức Sắc, Nguyễn Văn Nguyên, Nguyễn Văn Tuất, Trùm Thịnh, bà Cấn... Kết thúc công việc, Thanh Tịnh trở về Thủ đô và ông cùng với một số nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật được giao nhiệm vụ tổ chức Đại hội Văn công toàn quốc vào tháng 12-1954. Sự kiện diễn ra ở Nhà hát Nhân dân (nay là cung văn hóa Hữu Nghị). Người không có vé kéo đến bên ngoài rất đông xem "người ta" làm gì. Có hai người khiếm thị dìu nhau trình giấy vào cửa, nhân viên soát vé hỏi họ "mù thì làm sao xem được mà vào đây", hai người nói là vào để nghe. Nhân viên soát vé nghi họ ăn cắp giấy mời đã bắt giao cho công an xét hỏi. Việc đến tai Thanh Tịnh, ông vội vã đi khắp các đồn công an tìm mới thấy. Sau khi trình bầy là ban tổ chức mời họ vì không chỉ có công trong tuyên truyền vận động bà con ở lại miền Bắc không di cư vào Nam mà họ còn là những người hát rất hay nên công an mới thả. Thanh Tịnh ôm hai nghệ nhân và cả ba người cùng khóc.
Tuy miền Bắc tạm hòa bình nhưng tại bền tầu điện Bờ Hồ vẫn có khá nhiều người khiếm thị hát xẩm, trong đó có cặp vợ chồng lùn tịt. Còn ông Trùm Nguyên không hát ở bến tầu điện nữa mà chuyển về hát trước cửa đền Ngọc Sơn. Khi Mỹ ném bom Hà Nội năm 1966, công an yêu cầu những người hát xẩm trở về quê, nếu hát ở Bờ Hồ sẽ bị bắt và thế là Bờ Hồ chỉ còn vài người được ngành văn hóa cấp phép vì có công với kháng chiến trong đó có Trùm Nguyên.Trước đó Trùm Nguyên đã dạy hát, dạy đàn cho Nguyễn Văn Gia, một thanh niên bị khiếm thính sau một cơn bạo bệnh. Gia sáng dạ nên Trùm Nguyên cho theo, vừa hát kiếm sống, vừa truyền dạy hết các làn điệu xẩm. Thập niên 70, ông hát quanh Bờ Hồ, bến tầu điện và không ít lần hai thầy trò đụng nhau, thế là ông không hát Bờ Hồ nữa mà hát trên tầu hỏa. Ông Gia thường hát bài Hạ liễu:
Giọt nước cánh bèo, giọt nước cánh bèo
Đã từng lưu lạc để nhiều điều vất vả và gian truân.
Ông Giời cao có thấu chăng là tình chăng...
Hạ liễu không chỉ nói lên thân phận của người hát xẩm mà nó chính là tâm trạng của ông lúc bị gia đình người yêu cấm đoán. Năm 1986, ông Gia mới bỏ hẳn và chỉ hát khi nhớ nó. Khi Nhạc sỹ Thao Giang đưa nhóm hát xẩm về hát ở Phú Đô (huyện Từ Liêm), vô tình tìm lại được ông Gia. Và đến nay,ông là số ít các nghệ nhân hát xẩm còn sống.
Sân khấu hát xẩm xuất hiện trên khu phố đi bộ Hàng Đào- Đồng Xuân từ đầu tháng 4 -2006, bỗng nhiên người ta thấy xẩm vẫn còn duyên và mặn mà lắm. Nhạc sỹ Thao Giang, chủ nhiệm chương trình âm nhạc dân gian Hà Nội 36 phố phường và cũng là người có công sưu tầm, khôi phục lại nghệ thuật hát xẩm cho rằng, cách buôn bán các cửa hàng có thể thay đổi nhưng hồn của bài hát vẫn ở trong tâm thức mỗi người khi họ nghe xẩm. Để phục vụ cho chương trình này, nhóm "Xẩm Hà Nội " đã sưu tầm được khoảng 20 điệu. Ngoài những điệu được phổ từ thơ của Nguyễn Khuyến, Á Nam Trần Tuấn Khải, Nguyễn Bính, như: Mục hạ vô nhân, Anh khóa, Lỡ bước sang ngang, Trăng sáng vườn chè… thì còn nhiều điệu khác, trong đó khá đặc sắc chính là Xẩm tàu điện do nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa trình bày. Nếu ca trù, hát cô đầu là "đặc trưng" của phố Khâm Thiên, thì hát xẩm là đặc trưng của chợ Đồng Xuân và phố cổ. Những nghệ sĩ yêu xẩm phải kể đến NSƯT Xuân Hoạch (Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam), Văn Tý (Viện Văn hóa dân gian), Thanh Ngoan (Nhà hát chèo Việt Nam), Đoàn Thanh Bình (Trường Đại học Sân khấu -Điện ảnh), cô "xẩm trẻ" Mai Tuyết Hoa (Viện âm nhạc)… cùng các nhạc sỹ Hạnh Nhân, Hồng Thái, Lê Cương, Tự Cường… đã tập hợp về Trung tâm Phát triển nghệ thuật âm nhạc Việt Nam của Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Văn Khang và nhạc sĩ Thao Giang từ năm 2003. Trong kỷ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, một chương trình xẩm do các nghệ sỹ biểu diễn đã gây ấn tượng mạnh cho du khách.Không chỉ có vậy, xẩm đi Nhật, Mỹ biểu diễn đã nhận được lời khen ngợi vì sự độc đáo của loại hình âm nhạc đường phố này.
Theo nhạc sĩ Thao Giang, trước năm 1954, những người hát xẩm vẫn chọn ra hai ngày làm giỗ tổ (22-2 hoặc 22-8 âm lịch), nhưng sau này do đất nước có chiến tranh, tục giỗ tổ bị lãng quên. Đến nay, nghệ nhân hát xẩm chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, đặc biệt những người coi hát xẩm như một nghề kiếm sống giờ chỉ còn duy nhất nghệ nhân Hà Thị Cầu (vợ thứ 18 của ông Chánh Trương Mậu,Trùm xẩm đất Ninh Bình xưa). Lễ giỗ tổ năm 2011 đã thiếu vắng hai cây "đại thụ" là cụ Nguyễn Văn Khôi (đã mất) và cụ Hà Thị Cầu (sức khoẻ quá yếu),giờ chỉ còn nghệ nhân Nguyễn Văn Gia. Hiện tại lớp trẻ coi xẩm là thứ nghệ thuật lạc hậu vì thế để bảo tồn và phát triển bộ môn nghệ thuật đường phố này cần phải có chính sách cụ thể nếu không thì nó chỉ còn ở trong băng đĩa.